ĐẠI CƯƠNG
TRIẾT HỌC TRUNG QUÁN
Dịch giả:
Thích Viên Lý
CHƯƠNG I
3. TRUNG LUẬN: CUỘC ĐỜI CỦA LONG THỌ (NÀGÀRJUNA) VÀ ĐỀ BÀ (THÁNH
THIÊN – ÀRYADEVA)
Sự tồn tại chủ yếu của Triết học Trung Quán (Madhyamaka
philosophy) chính là ở Trung Luận (Madhyamaka Sàstra) của Long Thọ
và Tứ Bách Luận (Catuh - Sataka) của Đề Bà (Àryadeva).
Tại Ấn Độ, những kinh điển có
liên quan đến Phật Giáo Đại Thừa đều đã hoàn toàn bị thất
lạc. Nhưng những bản dịch sang Hoa ngữ, Nhật ngữ và Tây Tạng
ngữ thì hiện vẫn còn được lưu giữ. Phần lớn văn kiện Đại
thừa đều dùng Phạn văn (Sainkskrta) hoặc Tạp Phạn văn để ghi
chép. Những sách của các học giả nghiên cứu về Phật Giáo
đáng được tin cậy hiện vẫn còn tồn tại, đa số đều đã được
viết bằng Phạn văn.
Vào năm 1833, ông Brian Houghton
Hodgson đã được cử đến để làm đặc sứ tại Kàthamandu ở Nepal
và, trong cương vị này ông đã phục vụ tại đó đến năm 1843.
Trong suốt thời gian này, ông đã
phát hiện được 381 cuốn kinh Phật bằng Phạn văn nguyên bản.
Những bản thảo này được chia ra và chuyển đến nhiều đoàn thể
học thuật khác nhau để hiệu đính và ấn hành. Kết quả đã
khám phá được rằng: Kinh Phật bằng Phạn văn (Sainkskrta) rất
khác với bộ kinh bằng tiếng Pali; và kinh điển Phật Giáo tại
các nước Trung Quốc, Nhật Bản và Tây Tạng rất giống với các
bộ kinh bằng Phạn văn. Trong các bản thảo bằng Phạn văn được
phát hiện có bộ Trung Luận (Madhyamaka Sàstra) của Long Thọ và
bản Chú Thích Minh Cú Luận (Prasannapadà) của Nguyệt Xứng ̣(Candrakìrti).
Sách này do Louis de la
Vallée-Poussin sưu tập và được ấn hành trong Bibliotheca
Buddhica, Vol. IV, St. Peterburg, Nga, năm 1912.
Ấn bản sớm hơn của nó đã được
Saraccandra Sàtri sưu tập và do Buddhist Text Society ở Calcutta ấn
hành vào năm 1897. Ấn bản này đã có rất nhiều chỗ bị sai.
Poussin đã sử dụng sách này để tham khảo nhưng ông cũng đã
mượn hai nguyên bản khác, một từ Cambridge và một từ Paris để
đối chiếu. Đồng lúc, ông cũng đã sử dụng Trung Quán Tụng (Kàrikàs)
và bản chú giải đã được dịch sanh Tạng văn (Tibetan) để đối
chiếu. Tiến sĩ P. L. Vaidya đã sử dụng ấn bản do Poussin sưu
tập và 1960 ông đã xuất bản Trung Luận (Madhyamaka Sàstra) của
Long Thọ (Nàgàrjuna) và bản chú thích của Nguyệt Xứng (Candrakìrti)
trong Thiên Hành Thể (Devanàgari). Ấn bản này đã được Mithilà
Vidỳapìtha, Darbanga phát hành thêm. Stcherbatsky đã sử dụng ấn
bản do Poussin sưu tập để viết cuốn Conception of Buddhist Nirvàna
(Khái niệm về Niết Bàn Phật Giáo).
Đức Phật thường dạy rằng giáo
lý của Ngài có tính cách Trung Đạo (Madhyamà Pratipad-The Middle
Path). Khi Long Thọ Bồ Tát phát triển triết học của ngài, đã
nắm vững danh từ trọng yếu này nên đã gọi triết học của ngài
là Trung Quán (Madhyamaka Philosophy – Madhyamaiva madhyamakam) hoặc
Trung Luận (Madhyamaka-Sàtra) mà những tín đồ của phái này
được gọi là Trung Quán Phái (Madhyamika) (Madhyamakam adhiyàte
vidanti và Màdhyamikah). Danh xưng chính xác nhất của trường
phái này là Madhyamaka chứ không phải là Màdhyamika vì lẽ
Madhyamika có nghĩa là tín đồ của trường phái Trung Quán (Madhyamaka).
Trung Quán (Madhyamaka-sastra) của
Long Thọ (Nàgàrjuna) gồm hơn 400 tụng tán ca (Kàrikas) trong
anustubha (một loại âm luật, 4 x 8 âm tiết) và được chia thành 27
chương.
A. Long Thọ (Nàgàrjuna)
Ngài là vị Tổ đã triển khai và
hoàn thành học phái Trung Quán (Madhyamaka). Ngài chào đời vào
thế kỷ thứ II sau Tây Lịch trong một gia tộc Bà La Môn thuộc
nước Àndhradésa, rất có thể là tại Vidarbha (Berar). Srìparvata
và Dhànyakataka đã là những trung tâm hoạt động chủ yếu của
Ngài tại Nam Ấn. Ở Bắc Ấn, sự hành hoạt của Ngài đã vô cùng
sâu rộng, rất nhiều chỗ, mà một trong những địa điểm trọng
yếu là Nàlandà, một Tu Viện và Đại Học rất nổi tiếng. Hai
tăng viện Amaràvatì và Nàgàrjunahonda cũng là hai tăng viện đã
có sự liên quan mật thiết đến Ngài.
Căn cứ theo Ràjataranginì (vào
thế kỷ thứ mười một sau Tây Lịch) thì ngài đã hiện diện cùng
với Huska, Juska và Kaniska (Hồ Sư Già Vương, Sư Già Vương và Già
Nhị Sắc Già Vương).
Căn cứ bản tiểu sử của Bồ Tát
Long Thọ được Ngài Cưu Ma La Thập (Kumàrajviva) dịch sang Hoa văn
khoảng năm 405 sau Tây Lịch thì, Long Thọ đã sanh trong một gia
đình Bà La Môn ở Nam Ấn Độ, Ngài đã đặc biệt nghiên cứu về
giáo điển Vedas (Phệ Đà) và học hỏi những điều trọng yếu
khác của Bà La Môn giáo trước khi Ngài xuất gia đầu Phật.
Căn cứ vào quyển sách nhỏ có
tựa đề là Suhrlekha (Bằng Hữu thư – Friendly Epistle) của Ngài
thì những điều được viết là viết riêng cho Vua Àndhra (Án Đạt
La Quốc Vương), Sàtavàhana. Nhưng, Sàtavàhana đã không phải là
tên riêng của một vị quốc vương mà đó là tên của một vương tộc
có tên là Àndhra (Án Đạt La) được kiến lập bởi Simuka (Hy Mộc
Ca) (Tham khảo R. C. Majumdar Ancient, India, P.133). Vì thế, một số
học giả đã cho rằng Suhrlekha (Bằng Hữu Thư) là sách được viết
cho Kaniska (Ca Nị Sắc Vương).
Có một truyền thuyết có
liên quan đến tên của Ngài:
Chữ “Naga” có nghĩa là “mãng xà”
hoặc “Rồng” và “Arjuna” là tên của một loài cây. Căn cứ vào
truyền thuyết này thì Ngài đã được sanh ra dưới một cội cây
tên là Arjuna và Ngài cũng đã từng đến thăm Long Cung (Nàgas)
dưới đáy biển, Hải Long Vương (Naga) đã mang “Đại Trí Bộ Kinh” (Mahàprajnà
pàramità Sùtra) do Đức Phật ủy thác để tặng Ngài.
Nhưng, chữ “Nàga” cũng còn tượng
trưng cho trí tuệ. Căn cứ vào những lời dạy của Đức Phật thì
“Nàga” là danh xưng dùng để chỉ cho những ai đã tiêu trừ sự
đắm say dục lạc, giận dữ và khổ đau (àsavas) (Trung A
Hàm-Majjhima Nikàya, I 23). Vì thế, có thể bảo “Nàga” là những
bậc A La Hán (Arhants) được truyền trí tuệ Bát Nhã Ba La Mật Đa
(Prajnàpàramità) mà Long Thọ đã từng thọ giáo ở họ.
Không lầm lẫn giữa Long Thọ của
Phật Giáo và Dược sư Long Thọ Mật Giáo (Tàtrica Nàgàrjuna)
người đã sống khoảng thế kỷ thứ VII sau Tây Lịch.
Người Tây Tạng cho rằng Bồ Tát
Long Thọ đã sáng tác tất cả gồm 122 bộ sách. Nhưng, dường như
chỉ có thể xác định những cuốn sách được liệt kê dưới đây:
1. Trung Luận (Madhyamaka-Sàtra) còn có tên là Bát
Nhã
(Prajnà: trí tuệ) hoặc Tụng (Kàrikàs)
và Vô Úy
Luận (Akutobhaya) do chính tác giả chú giải.
2. Hồi Chánh Luận (Vigrahavyvartanì) với sự chú
giải
của tác giả.
3. Lục Thập Chánh Lý Luận (Yuktisastikà)
4. Thập Thất Tụng Không Tánh Luận (sunyatà-Sapsati)
và chú giải.
5. Duyên Khởi Tâm (Pratìyasamut-pàdahrdaya) và chú
giải.
6. Tứ Tụng (Catuhstava)
7. Tu Tập Thứ Đệ (Bhàvanàkrama)
8. Bằng Hữu Thư (Suhrllekha)
9. Lưu Chuyển Chư Hữu (Bhàvasamkrànti)
10. Bảo Hành Vương Chánh Luận (Ratnàvalì)
11. Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh Luận
(Pràjnàpàramita-Sutra Sàstra)
12. Thập Địa Giải Thuyết Luận
(Dasabhaùmivibhàsà Sàstra)
13. Nhất Kệ Luận (Eka – Sloka - Sàstra)
14. Năng Đoạt Kinh (Vaidalya Sutra) và chú giải (Prakarana)
15. Ngôn Ngữ Cứu Cánh (Vyavahara - Siddhi)
Những bộ sách trên hiện chỉ còn
một số nguyên bản nhưng dù sao thì toàn bộ đã được dịch sang
tiếng Tây Tạng.
Long Thọ Truyện Ký của Cưu Ma La
Thập (Kumàrajìva) thì cho rằng những cuốn sách dưới đây cũng
chính là những tác phẩm của Long Thọ:
1. Ưu Bà Đề Xá (Luận Nghị) gồm Thập Vạn tụng
(Upadsa 100,000 Gàthas)
2. Trang Nghiêm Phật Đạo Luận gồm 5,000
tụng (Buddhamàr Gàlankàsa Sàstra 5,000 Gàthàs)
3. Vô Úy Luận (Akutobhaya - Sàstra) gồm 100,000 tụng.
Những bản được sưu tập bằng Hoa
văn được đề cập dưới đây cũng thuộc về những tác phẩm của
Long Thọ:
1. Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa Luận
(Mahayànabhavabheda Sàstra) “Lưu Chuyển Chư
Hữu Luận” (Bhavasankràntisastra)
2. Bồ Đề Tư Tương Luận (Buddhisambhàra - Sastra)
3. Pháp Giới Tụng (Dharmadhàtustava)
B. Đề Bà (Àryadeva hoặc Àrya Deva)
♦ Ngài đã chào đời tại Simhala,
Tích Lan, và là học
trò của Long Thọ.
Ngài đã theo Bồ Tát Long Thọ chu
du đó đây và đã góp
phần rất lớn đối với công
cuộc truyền bá học
thuyết của Long Thọ.
Truyện ký của Ngài đã được
Ngài Cưu Ma La Thập (Kumàrajìra) dịch sang Hoa văng vào khoảng
405 năm sau Tây Lịch.
Tác phẩm nổi tiếng nhất của
Ngài là “Tứ Bách Luận” (Catuh - Sataka), bộ sách gồm 400
kàrikàs. Trong sách này, Ngài đã bảo vệ học thuyết của Long
Thọ và đồng thời cũng phê phán những triết học khác như Nguyên
Thủy, Số Luận (Sàmkhya) và Thắng Luận (Vaiseska). Ngài cũng có
thể là tác giả của Bách Tự Luận (Aksara Satakam). Căn cứ vào
những gì mà Ngài đã thuyết thì Chưởng Trung Luận (Hastavala -
Prakarana) và Tâm Tịnh Luận (Cittavisuddhi Prakarana) có thể là bộ
luận đã do Ngài sáng tác?
Theo truyền thuyết thì Ngài đã bị học trò của một pháp sư dị
giáo mưu sát vì ông ta thua Ngài trong một cuộc tranh luận.
|