Chùa Diệu Pháp - GHPGVNTN - DIEU PHAP TEMPLE
|
|
ĐẠI CƯƠNG
TRIẾT HỌC TRUNG QUÁN
Dịch giả:
Thích Viên Lý
CHƯƠNG IV
10. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA
TRIẾT HỌC
TRUNG QUÁN
1/ Không (Sùnya) và Không Tánh (Sùnyata)
Đặc điểm nổi bật nhất của
triết học Trung Quán là sự sử dụng nhiều lần hai chữ “không”
và “không tánh”. Vì đây là khái niệm chính yếu của hệ thống
triết học này, cho nên, hệ thống triết học này thường được
gọi là “Sunyavàda” – có nghĩa là “hệ thống triết học xác
định rằng không (sùnya) là đặc tính của Thực Tại.
“Sùnya” là chữ đã khiến người
ta cảm thấy vô cùng bối rối trong triết học Phật Giáo. Những
người không phải là Phật tử đã giải thích nó như là thuyết hư
vô (nihilism). Nhưng, đó không phải là ý nghĩa của chữ này.
Trên phương diện ngữ nguyên thì
chữ gốc của nó là “svì”, có nghĩa là “nở lớn, bành trướng”.
Có điều đáng lấy làm lạ là chữ “Brahnam” (Bà La Môn) có gốc
là “brh” hoặc “brinh”, cũng có nghĩa là “nở lớn, bành trướng”.
Căn cứ vào lời dạy của Đức Phật về “Không lý” (Sùnya tattva),
và dựa vào đó để suy luận thì chữ “không” (sùnya) này dường
như được sử dụng theo nghĩa của tồn hữu học (ontology). Sự bao
hàm về ý nghĩa ngữ nguyên của chữ này dường như không được
diễn đạt một cách đầy đủ và trọn vẹn.
Có một số học giả cho rằng chữ
“sùnya” không mang một ý nghĩa trên phương diện tồn hữu học, mà
nó chỉ một loại ám thị trên mặt “cứu thế học” (soteriological)
mà thôi. Nhưng rõ ràng chữ “sùnya” cũng đã được dùng theo ý
nghĩa tồn hữu học, kèm theo ngụ ý của giá trị luận và bối
cảnh của cứu thế học.
Theo ý nghĩa của tồn hữu học
thì “sùnya” là một loại “không” mà đồng thời cũng “chứa đầy”.
Bởi vì nó không phải là một thứ đặt biệt nào đó, cho nên nó
có khả năng trở thành mọi thứ. Nó được xem như là đồng nhất
với Niết Bàn, với Tuyệt Đối, với Thực Tại Tối Thượng (Paramàrtha-Sat),
với Thực Tại (Tattva). Nhưng, “sùnya-tattva” (không lý) là gì?
Long Thọ phát biểu:
Aparapratyayam
sàntam prapàncair aprapàncair
aprapancitam/
Nirvikalpam
anànàrham etattattvasya laksanam//
(Trung Quán Tụng, XVII, 9)
Không có sự đối đãi (vô đãi),
tịch tịnh, hí luận là điều rất khó biểu đạt, vô phân biệt,
bất dị (không khác) chính là chân thực tướng.
1) Không lý vô đãi (aparapratyayam). Nó chính là một loại
kinh nghiệm không thể truyền thụ từ người này sang người khác.
Nó phải do chính mình nhận thức.
2) Không lý tịch tịnh (sàntam). Nó tịch mịch, không bị
tâm trí chi phối.
3) Không lý không thể hí luận (Prapancair, aprapancitam)
nghĩa là không thể diễn đạt bằng tâm trí qua ngôn ngữ. Nó là
phi hạn định.
4) Không lý là vô phân biệt (nirvikalpam), nó siêu việt lên
trên tư tưởng lan man, tạp loạn.
5) Không lý là bất dị (Anànartham). Nó là phi nhị nguyên.
“Sùnyatà” (Không Tánh) là danh từ
trừu tượng bắt nguồn từ chữ “sùnya” (không). Nó có ý nghĩa
là sự tước đoạt, và còn có hàm ý là viên mãn.
Tốt hơn hết, hai chữ “sùnyatà”
và “sùnya” nên được hiểu theo tương quan với chữ “svabhàva” (tự
tánh). Nghĩa đen của chữ “svabhàva” là “tự kỷ”. Nguyệt Xứng (Candrakìrti)
cho rằng trong triết học Phật Giáo, chữ này được dùng bằng hai
cách:
1) Bản chất hay đặc tính của một sự vật, thí dụ như “nóng là
svabhava (tự tánh) hay đặc tánh của lửa”.
“Iha yo
dharmo yam padàrtham na vyabhicarati,
satasya svabhàva iti
vyadisyate, aparàpatibaddhatvàt”.
(Ở
trong thế giới này, một thuộc tánh luôn luôn đi
theo một vật, tuyệt đối bất khả phân ly, nhưng
không liên quan hằng cửu với bất cứ sự vật nào
khác, đây chính là “svabhàva”, tức là đăc̣ tính của
vật ấy).
(Minh Cú Luận, p. 105)
2) Chữ svabhàva (tự tánh) là phản nghĩa của paràbhàva (tha
tánh). Nguyệt Xứng gọi đó là:
“Svo
bhàvah svabhàva iti yasya pedàrthasya
yadàtin - ìyam rùpain tat tasya svabhàva iti”
(Minh Cú Luận, p. 115)
(Svabhàva là tự tánh, chính là
bản chất của một sự vật). Long Thọ bảo rằng:
“Akrtrimah svabhàvo hi nirapeksah paratra ca”
(Trung Quán Tụng, 15, 2)
Cái
thực sự là “tự tánh” thì không do bất cứ một vật
nào khác đem lại, nó là vô tác (akritrimah), nó không
liên hệ với bất cứ cái gì khác hơn là chính nó,
nó không tùy thuộc và vô điều kiện
(nirapeksah paratra ca).
Trung Quán Phái (Madhyamika) bác
bỏ ý nghĩa thứ nhất trên đây của chữ svabhàva (tự tánh), và
chỉ chấp nhận ý nghĩa thứ hai. Nguyệt Xứng đã khẳng định một
cách minh bạch:
“Krtimasya parasàpeksasya ca svabhàvatvam
nestam”
(Chúng ta không chấp nhận rằng “tự tánh” do vật
nào khác hơn đem lại, hoặc tùy thuộc hoặc liên hệ
vào vật nào khác).
Nghĩa thứ nhất sở dĩ không được
tiếp nhận là vì cái gọi là “tự tánh” của một vật hoặc bản
chất đặc tính, vẫn là “krtrima” (“giả sử tạo tác” được tạm
trú một cách giả tạm) và “sàpeksa” (“sở hữu y quan” có chỗ
tùy thuộc và liên hệ). Dù sức nóng là đặc tính nóng của lửa,
nó vẫn phải tùy thuộc vào bao nhiêu điều kiện (duyên) như diêm
quẹt, thấu kính hội tụ, nhiên liệu, hoặc sự cọ xát của những
miếng gỗ, v.v... Vì vậy, svabhàva (tự tánh) không phải là ý
nghĩa cao nhất của gỗ. Một cách tóm tắt, “tự tánh” là thực
tại Tuyệt Đối, còn tất cả mọi thứ khác, mọi hiện tượng đều
chỉ là “tha tánh” (parabhàva) (là tương đối).
Chữ “sùnya” cần phải được hiểu
từ hai quan điểm:
(1) Từ quan điểm của hiện tượng hoặc thực tại kinh nghiệm
(empirical reality), nó có nghĩa là “svabhàva-sùnya”, tức là
“tự tánh không”, hoặc không có thực tại tánh của thực thể tự
kỷ độc lập.
(2) Từ quam điểm của Tuyệt Đối, nó có ý nghĩa là
“prapanca-sùnya” cũng tức là “hí luận không”, không có sự diễn
đạt bằng ngôn ngữ không có hí luận, không do tư tưởng cấu thành,
và vô đa nguyên tánh.
Trước hết, chúng ta hãy xét ý
nghĩa thứ nhất của chữ “không” này. Chúng ta đã bàn luận chữ
“svabhava” (tự tánh) một cách dài dòng để có thể hiểu rõ chữ
“sùnya” (không) khi được dùng trong tương quan với thực tại hiện
tượng hoặc các “pháp”(dharmas: các thành tố của sự sinh tồn).
Trong văn mạch này, chữ “sùnya” đều có nghĩa là “Svabhàva” –
Sùyna” (tự tánh không), cũng tức là không có thực tại tánh
của thật thể độc lập. Trên thế gian này không có một sự vật
nào là thật tại tuyệt đối mà không bị hạn định một cách vô
điều kiện. Bất cứ sự vật nào cũng đều liên quan với vật khác,
đều tùy thuộc, nương tựa vào vật khác và bị vật khác hạn
định.
Trung Quán Luận đã thảo luận
dài dòng về sự liên quan đến luật nhân quả hoặc duyên khởi (pratitya
- samutpàda), chỉ vì muốn chứng tỏ rằng trên thế gian này không
có sự vật nào nhờ vào chính mình mà tồn tại, không có sự
vật nào có một thực thể độc lập của chính nó. Mọi thứ đều
bị hạn định bởi sự vật nào đó (pratityasamutpanna [đều do duyên
sanh]). Thế giới này chẳng phải là Thực Tại, nó chỉ là một
lãnh vực của tương đối.
Vì vậy Long Thọ đã nói:
“Yah
pratiyasamutpàdah’ sùnyatàm tàm
pracaksmahe”
(Không
có sanh khởi thực sự; chỉ có sự biểu hiện
của một sự vật tùy thuộc vào những nguyên nhân
và những điều kiện. Chúng ta gọi sự tương quan
có điều kiện này (cộng đồng duyên sanh) là
sunyata – “không tánh”)
Giữa các sự vật không có quan hệ
nhân quả đích thật, mà chỉ có sự tùy thuộc lẫn nhau giữa mọi
sự vật (hỗ tương y tồn); nói cách khác, sự vật không hề có tự
ngã độc lập (svabhaha: tự tánh). Vì thế, quan hệ nhân quả không
phải là một chuỗi thực thể liên tục, mà chỉ là một chuỗi
hiện tượng liên tục.
Mọi sự vật trên thế giới này
tùy thuộc vào toàn thể những điều kiện (duyên) của nó mà tồn
tại. Sự vật chỉ là những biểu tượng. Vì thế, duyên khởi đồng
đẳng với “không tánh” hoặc tương đối tánh (hỗ tương y tồn tánh).
Thế giới không phải là một tập thể của những sự vật; nó chỉ
là một tiến trình, và sự vật chỉ là những sự kiện xảy ra
trong đó. Một “sự vật” tự nó “không là cái gì”. Đó chính là
ý nghĩa của “không tánh” hoặc sự trống rỗng của tất cả các
pháp (dharmas) (chư Pháp tánh không).
Tiếp đến , chúng ta thử xem ý nghĩa của không tánh (sùnyatà)
là gì, trên quan điểm của Tuyệt Đối. Đứng trên quan điểm này để
xét thì “không tánh” là “prapanvair aprapancitam” – hoàn toàn
không có cấu tác tư tưởng (anànàrthàm), không có đa nguyên tánh.
Nói một cách khác “không tánh” (sùnyatà) được sử dụng nơi
“tattva” (chân thật, nguyên lý) thì hàm ý rằng:
(a) ngôn ngữ của nhân loại không thể diễn đạt được.
(b) nó “là”, “không là”, “vừa là vừa không là”, “chẳng phải là
cũng không phải là không là” – phạm trù tư tưởng hoặc thuật ngữ
đều không thể áp dụng trong các vế trên. Nó siêu việt lên trên
tư tưởng.
(c) nó vô đa nguyên tánh, nó là một tổng thể, không thể phân
chia thành những bộ phận.
Tóm lại, ý nghĩa của “không tánh” có thể lý giải bằng 6
phương thức. Trong đó đồng lúc xuất hiện 3 phương thức trong 18
thi cú ở chương 24 của “Trung Quán Tụng” (Kàrikà):
Yah ptattityasamutpàdah sùnyatàm tàm pracaksmahe/
Sà prajnàtirupàdayà pratipat saiva madhyamà//
“Cái gọi là không tánh, chính là duyên khởi, được tạo tác bởi
giả danh, trung đạo.”
(1) Đối với tục đế (vyavahàra) hoặc thực tại kinh nghiệm thì
không tánh có nghĩa là “vô tự tánh” (naihsvàbhàvya), nghĩa là
không có tự ngã, không bản chất, vô điều kiện. Nói cách khác,
không tánh là chữ bao hàm “duyên khởi” hoặc sự hoàn toàn tương
đối, hỗ trương lẫn nhau của sự vật.
(2) Cũng có thể sử dụng một từ ngữ khác để biểu đạt Không
Tánh, đó là “upàdàyaprajnapti”, có nghĩa là “giả danh sở tác”,
sự có mặt của một cái tên không có nghĩa là thực tại tính
của sự vật được gọi tên. Nguyệt Xứng đã nói:
“Cakràdinyupàdàya rathàngàni rathah prajnàpyate”, nghĩa là cái
xe được đặt tên như vậy khi xét tới các bộ phận cấu thành của
nó như bánh xe, v.v...; điều đó không có nghĩa rằng chính cái
xe có thể là vật gì khác ngoài những thành phần của nó. Đây
là một ví dụ khác về tương đối tánh hoặc sự hỗ tương lẫn
nhau của sự vật.
Trên phương diện hỗ tương y tồn
thì không tánh cũng bao hàm tính chất tương đối và phi tuyệt
đối của những quan điểm đặc thù.
(3) Không tánh đã vạch rõ sự điên rồ của việc tiếp nhận bất
cứ sự khởi đầu tuyệt đối nào hoặc sự kết thúc hoàn toàn
nào; vì vậy không tánh bao hàm “trung đạo” (madhyama pratipat),
đối xử với sự vật theo bản chất của chúng, tránh những khẳng
định hoặc phủ định cực đoan như “là” và “không là”.
Ngoài ba điểm trên, trong triết
học Trung Quán không tánh còn có những ý nghĩa khác.
(4) Đối với “thực tại tối thượng” (Thắng nghĩa đế) (paramàrtha),
không tánh còn bao hàm bản chất phi khái niệm của tuyệt đối.
(5) Đối với người tu tập, không tánh có nghĩa là thái độ của
“vô sở đắc” (anupalambha), không bám víu vào sự tương đối như là
tuyệt đối, cũng không bám víu vào sự tuyệt đối như là sự đặc
thù nào đó.
(6) “Đại Trí Độ Luận” (Mahàprajna – paràmità Sastra) đã đề
xuất một hàm ý khác về nguyên lý không tánh, đó chính là
“pháp cầu” (dharmaisanà), sự khao khát không thể cưỡng chế đối
với việc đi tìm Thực Tại, siêu việt lên trên đời sống trần tục
biến đỗi này.
Ý nghĩa giá trị của không tánh
Chữ không tánh này không phải
chỉ có hàm ý tồn hữu học, mà nó còn có hàm ý trên phương
diện giá trị luận (axiology). Do tất cả sự vật kinh nghiệm
(empirical things) đều không có thực thể, vì thế chúng đều “vô
giá trị”. Sở dĩ chúng ta đặt nhiều giá trị vào những sự vật
trần tục là vì chúng ta ngu muội. Một khi chúng ta lãnh hội
được không tánh một cách chính xác thì sẽ không còn mê cầu
những thứ:
“Như tuyết rơi
trên sa mạc, tan rất nhanh sau đó và
chẳng lưu lại dấu vết nào.”
Khi đoạn tuyệt mê cầu, chúng ta
thể nghiệm được sự an bình diệu lạc.
Hàm nghĩa của cứu thế học không
tánh
Không tánh không phải chỉ là một
khái niệm trên mặt trí thức. Sự chứng nghiệm, lãnh ngộ không
tánh là một phương tiện (phương pháp) để giải thoát.
Nếu nắm vững một cách trọn vẹn,
thì nó có thể dẫn đến sự phủ định tánh đa tạp của các “pháp”,
có thể giải thoát khỏi sự “thoáng hiện” của những thứ cám dỗ
trong cuộc đời. Thiền quán về không tánh có thể dẫn đến tuệ
giác bát nhã (prajnà: trí tuệ siêu việt), là thứ đem lại giải
thoát cho người hành đạo ra khỏi sự tối tăm tinh thần.
Long Thọ đã diễn đạt được sự
tinh túy trong lời dạy của ngài về không tánh bằng câu thơ dưới
đây:
Karmaklesa-Ksayànmoksah
karmaklesà vikalpatah//
Te prapàncàt
prapancastu sùnyatayàm nirudhyate//
(Trung Quán Tụng, XVIII, 5)
“Tiêu trừ hành vi và ái dục ích kỷ thì được giải
thoát. Tất cả hành vi và ái dục ích kỷ đều bắt
nguồn từ những cấu trú tưởng tượng, chúng coi
những sự vật vô giá trị như là ngững sự vật đầy
giá trị. Sự cấu tác của tưởng tượng (vikalpas)
phát sanh từ tác động của tâm trí sẽ chấm dứt khi
đã nhận thức được không tánh, sự trống rỗng của
sự vật.”
Không tánh như là biểu tượng của những thứ
không thể diễn tả
“Không” (sùnya)
được sử dụng trong triết học Trung Quán như là một hiện tượng
trưng của những thứ không thể diễn tả. Khi gọi Thực Tại là
“không” (sùnya), triết học Trung Quán chỉ có ý nói rằng nó là
“avàcya”, “anabhilàpya”, tức là “bất khả ngôn truyền”, không thể
diễn tả được. Ngay trong câu thứ nhất của Trung Quán Tụng (Màdhyamika
Karida), Long Thọ đã khiến cho lập điểm của “không luận” (sùnyavàda)
nổi bật một cách sáng ngời. Lập điểm này được cấu thành bởi
“bát bất” (tám điều không).
Anirodham
anutpàdam anucchedam asàsvatam/
Anekàrtham
anànàrtham anàgamam anirgamam//
Tức là,
1) bất diệt (anirodham)
2) bất sanh (anutpàdam)
3) bất đoạn (anucchedam)
4) bất thường (asàsvatam)
5) bất nhất nguyên (bất nhất) (anekàrtham)
6) bất đa nguyên (bất nhị) (anànàrtham)
7) bất lai (anàgamam)
8) bất khứ (anirgamam)
Nói tóm lại, Thực Tại là thứ
siêu việt lên khỏi những lý luận nhị phân của trí thức. Nó là
điều không thể diễn tả được. Trong triết học Trung Quán, chữ
“không” (sùnya) (hoặc không tánh, sùnyatà) thường cũng được
dùng để biểu thị “avàcya”, “avyàkrta” (bất khả ngôn truyền).
Không tánh không phải là một lý thuyết (lý luận)
Chúng ta đã thấy rằng Trung Quán
Phái sử dụng biện chứng pháp để phê bình tất cả các lý
thuyết (drstis), trong khi không có lý thuyết nào của chính nó.
Nhờ vận dụng biện chứng pháp, mà nó đã đạt được kết luận
rằng chư pháp (dharmas) đều là không hoặc đều vô tự tánh, nghĩa
là chúng không có thực tại tánh độc lập và thật thể.
Có thể người ta cho rằng chính
không tánh là một lý thuyết. Nhưng, đó là một hiểu lầm đối
với lập trường của Trung Quán Phái. Không tánh (sùnya) không
phải là một lý thuyết. Nó vừa là ý thức về sự bất lực của
Lý Trí trong việc thể nghiệm Chân Lý vừa là sự thúc đẩy để
thăng tiến lên một trình độ cao hơn Lý Trí để có thể thể
nghiệm ra Chân Lý. Chỉ khi nào kẻ tư duy từ bỏ chỗ đứng của
họ trên tư tưởng lan man vọng động, thì lúc đó họ mới có thể
có sự thăng tiến lên một trình độ cao hơn.
Trong thi cú dưới đây Long Thọ đã
trình bày một cách tốt đẹp ý nghĩa của không tánh:
Atra
brùmah sùnyatàyàm na tra vetsi prayojanam/
Sùnyatàm
sùnyatàrtham ca tata evam vihanyase//
(Trung Quán Tụng, XXIV, 7)
“Người ta
không biết ý nghĩa và tôn chỉ của không
tánh. Để khỏi làm mất ý nghĩa của nó, không tánh
không thể được sử dụng như là một lý thuyết.”
Nguyệt Xứng nói rằng không tánh
được dùng để chấm dứt sự tư duy bất tận của tâm trí bằng ngôn
ngữ (prapàncastu sùnyatayàm nirudhyata). Chúng ta học về không
tánh chẳng phải vì chính nó, mà là sẽ dùng nó để dẫn dắt
tâm trí tới Thực Tại, bằng cách ngăn chặn khuynh hướng ý niệm
hóa sự vật của tâm trí. Nó chính là sự diễn đạt về nỗi khao
khát cao thượng chứ không phải về lý thuyết.
Không tánh không phải là thuyết hư vô
Một số người cho rằng không tánh
là thuyết phủ định triệt để, vì nó phê bình và đả kích tất
cả lý luận, nhưng chính nó thì lại không đề xuất bất cứ ý
kiến tích cực nào. Không tánh chẳng dẫn dắt chúng ta tới đâu
cả. Người ta xếp nó vào loại thuyết hư vô.
Thật ra, biện chứng pháp của
Trung Quán Phái dẫn đến không tánh không phải chỉ là phủ định
luận. Nó không những chỉ phủ định tất cả những xác quyết về
Thực Tại mà còn phủ định tất cả mọi phủ quyết đối với Thực
Tại. Nó cho rằng Thực Tại không phải là “hữu” (sat), mà cũng
không là “vô” (asat). Nó chỉ xác định rằng Tuyệt Đối là cái gì
mà tư tưởng không thể tiếp xúc được; nó không nói rằng Tuyệt
Đối là thứ phi tồn tại. Nó chỉ chủ trương rằng Tuyệt Đối
được thể nghiệm bằng trí huệ siêu việt. Nó nhiệt liệt đề cao
sự thể nghiệm Chân Lý tuyệt đối. Long Thọ từng nói rằng:
“Paramàrtham anàgamya nirvànam nàdhingamyate’,
Nghĩa là:
“Chưa lãnh
ngộ Chân Lý tuyệt đối thì người ta không
thể đạt tới Niết Bàn.”
Trung Quán Phái chỉ phủ định
tất cả những quan điểm về Thực Tại chứ không phủ định chính
bản thân Thực Tại. Cho nên không thể gọi nó là thuyết hư vô. Như
Tiến sĩ Mùrti đã bảo:
“Khi nói ‘vô học thuyết về
Thực Tại’ không có nghĩa là ‘học thuyết về vô Thực Tại.’”
“Không tánh chỉ phủ định về tư tưởng, nhưng bản thân của nó
lại chính là một loại tri thức phi liên kết về Tuyệt Đối.
Thậm chí, nó còn có thể được coi là phổ quát và tích cực
hơn cả sự khẳng định.”
(CPB, p. 160)
Nguyệt Xứng đã cực lực phản
bác lối nhận xét cho rằng Trung Quán Phái là một chủ nghĩa hư
vô (nàstika). Ngài cho rằng Trung Quán Phái chỉ vạch ra tính
cách tương đối của sự vật, và học thuyết của ngài vượt lên
trên cả khẳng định lẫn phủ định.
(Minh Cú Luận, p. 156-157)
Trung Quán Luận đã sử dụng trọn
vẹn một chương (chương 24) để thuyết minh về lập trường ấy, tức
là, không tánh (sùnyatà) không phải là thuyết hư vô, mà chỉ là
tương đối tánh (hỗ tương y tồn tánh) và hạn định tánh; không
tánh không phải là sự phủ nhận thế giới biến hóa sanh thành
này, mà là sự giải thích về hàm ý nội tại của nó, nghĩa
là cái không bị hạn định. Trong câu thứ 14, chương 24 của Trung
Quán Tụng, Long Thọ đã trình bày điểm này một cách tuyệt hảo:
Sarvam ca
yujyate tasya sùnyatà yasya yujyate//
Sarvam na
yujyate tasya sùnyam yasya na yujyate//
“Đối với
người lãnh ngộ không tánh thì mọi vật đều
đứng tại vị trí đích đáng của nó trong cái toàn thể
hòa hợp; đối với những người chưa lãnh ngộ không
tánh thì mọi vật đều rời rạc sai chỗ (bất tương ứng).”
Long Thọ chỉ chủ trương rằng sự
vật tương đối cần phải được coi là sự vật tương đối, chứ không
thể coi là sự vật tuyệt đối, lúc đó mới có phán đoán thích
đáng về giá trị và thẩm định thích đáng về ý nghĩa của nhân
sinh. Cái được gọi là phủ định luận chỉ là một phương pháp
trị liệu.
Bản thân không tánh không phải là một mục đích
Long Thọ từng cảnh giác rằng
không nên mê tín về không tánh. Bản thân nó không phải là một
mục đích. Nó chỉ là một phương pháp dẫn tâm thức thăng tiến
đến trí tuệ bát nhã (prajnà: sự thấu triệt siêu việt) và
không nên nâng cao nó lên thành một mục đích. Trong thi cú dưới
đây, Long Thọ đã diễn đạt một cách tuyệt hảo về nhận xét này:
Sùnyatà sarvadrstinàm proktà nihsaranam jinaih/
Yesàm
tu sùnyatà drstistàn asàdhyàn babhàsire//
(Trung Quán Tụng, XIII, 8)
“Đức Phật
đưa ra không tánh để phá trừ tất cả nhãn
kiến (nhứt thiết kiến) hoặc “luận thuyết”, những ai
biến không tánh thành một “luận thuyết” khác thì họ
đích thực là vô hy vọng và không thể giúp đỡ.”
Khi Nguyệt Xứng bình luận về câu kệ
trên, ngài đã đề cập đến một đoạn mà Đức Phật nói về không
tánh với ngài Ca Diếp (Kàsyapa). Đức Phật bảo Ngài Ca Diếp
rằng:
“Ô, Ca Diếp! Thà chủ trương ngã
kiến (pudgala drsti) với tầm cỡ vĩ đại như Tu Di Sơn (núi Sumeru)
còn hơn là vọng chấp quan điểm vô tánh của kẻ chủ trương hư vô
(abhàvàbhinivesikasya). Ta gọi người vọng chấp, coi không tánh
như một lý thuyết, là kẻ hết thuốc cứu chữa. Ví như dùng
thuốc men để cho người bệnh hoạn, dù khử trừ tất cả tật bệnh
nhưng lại hủy hoại và làm thương tổn đến ruột và bao tử của
người bệnh, như thế có thể gọi là chữa khỏi bệnh chăng? Cũng
vậy, dù cho không tánh có thể dùng như có thể dùng như là
liều thuốc chữa trị những chấp kiến giáo điều, nhưng nếu một
người bám víu vào nó vĩnh viễn như chính một chấp kiến thì
kẻ đó coi như hỏng.”
Ngoài ra, ở nơi khác, Đức Phật
đã từng bảo rằng nên coi không tánh như một cái thang dùng để
trèo lên đỉnh bát nhã (prajnà: trí tuệ siêu việt). Khi đã đến
đỉnh rồi, thì cần phải bỏ cái thang ấy. Trong thi kệ này Bồ
Tát Long Thọ rõ ràng đã cảnh giác là không nên sử dụng Không
Tánh một cách sai lầm:
Vinàsayati durdrstà sùnyatà mandamedhasam/
Sarpo yathà durgrhito vidyà và dusprasàdhità//
(Trung Quán Tụng, XXIV, 11)
“Như kẻ ngu đần bắt rắn ở phía đuôi con rắn sẽ bị
nó giết, hoặc như là nhà ảo thuật làm sai trò ảo
thuật sẽ bị nó hại. Cũng vậy, kẻ sử dụng không
tánh sai lầm không hiểu những hàm ý của nó sẽ
bị nó làm hại.”
Tiến Sĩ R. H. Robinson đã tổng
kết toàn bộ vấn đề này một cách tuyệt mỹ:
“Danh từ không tánh này không
phải là ở ngoài hệ thống ngôn truyền, mà chính là chữ chủ
yếu trong hệ thống
ngôn truyền. Kẻ nào định thực thể hóa không tánh quả thật kẻ
đó đã lầm lẫn hệ thống biểu tượng với hệ thống của sự kiện.”
(Early Màdyamika in India and China, p. 49)
1/ Thiền Quán Không Tánh (Sùnyatà):
Như đã đề cập ở trước, Không
Tánh đã không chỉ là một khái niệm trí thức mà nó cũng còn
chính là một nguyện cầu (aspiration) và vì để hoàn thành
nguyện cầu này mà chúng ta cần phải minh tưởng (thông quán)
đến 20 loại Không Tánh. Vì nó quá nhiều do vậy ở đây sẽ không
liệt kê từng điểm một.
2/ Bát Nhã Ba La Mật Đa
(Prajnàpàramita: trí tuệ đã vượt qua bờ bên kia)
Điểm trọng yếu thứ hai của Phật
Giáo Đại Thừa là thể nghiệm Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajnàpàramità)
Thiền quán về không tánh chỉ là
một loại chuẩn bị nhằm huấn luyện tinh thần về với Bát Nhã
Ba La Mật Đa (Prajnàpàramità) mà thôi. Bát Nhã (prajnà) là lý
tánh siêu việt (superrational). Nó là một loại trí tuệ siêu
việt. Bát Nhã nhận thức được thực tại như là chân như (prajnà
yathàbhàtam artham prajànàti).
Tiến Sĩ K. V. Ramanan cho rằng chữ
“Bát nhã” trong Đại Trí Độ Luận (Mahàprajnà Paramità Sastra)
có hai ý nghĩa, (1) bát nhã vĩnh hằng bất biến, và (2) bát
nhã tác động cùng với 5 loại Ba La Mật Đa (pàramitàs: đến bờ
bên kia). Loại thứ nhì này là “Bát Nhã Ba La Mật Đa có tác
dụng”, trong khi loại thứ nhất là bát nhã thực thể hoặc ổn cố.
Loại bát nhã tác dụng chấm dứt trọn vẹn vô minh, và sau đó,
bát nhã hằng thường xuất hiện để chủ đạo. Trong bát nhã hằng
thường, người ta không thể thấy ngay cả đến sự phân biệt về vô
minh và minh. Nó là một loại trí huệ hằng thường rực rỡ. Nó
là “ánh sáng hằng thường trong tâm của con người”. Những sự
vật cá biệt thì có sanh và diệt, nhưng ánh sáng bát nhã này
thì quang minh mãi mãi.
Tác dụng tánh của bát nhã là
hành động của nhận thức, bao gồm sự phân tích, phê bình và lý
giải. Những thứ này chẳng qua chỉ là phương thức của sức mạnh
hằng thường của bát nhã. (Mô thức của tác dụng lực của Bát
Nhã hằng thường).
Chỉ khi nào đạt được Bát Nhã
chúng ta mới có thể tri nhận được Chân Lý; nhưng, Bát Nhã không
thể đạt được bởi các học sĩ đa ngôn “bị gò bó trong khuôn mẫu
cũ mèm của tư tưởng,” chiếc mũ của một pháp sư. Bát Nhã chỉ
có thể đạt được bằng sự khắc kỷ gian khổ và cố gắng tu
dưỡng tự ngã. Bát Nhã Ba La Mật Đa (prajnàparamità) thường
được phiên dịch sang Anh ngữ thành “perfection of wisdom” (sự hoàn
hảo của trí tuệ), nhưng thật ra ý nghĩa của nó là
“transcendent wisdom” (prajnàpàramità: trí huệ siêu việt).
Có 6 loại đức tính tin thần cần
phải đạt được. Danh từ Bát Nhã Ba La Mật Đa là một từ ngữ bao
quát dùng cho tất cả những đức tính này. Những phẩm hạnh này
là:
1) Bố thí (dàna)
2) Trì giới (sila: không làm điều gì ác)
3) Khoan dung, nhẫn nhục (ksanti)
4) Tinh tấn (virya)
5) Thiền định (dhyàna)
6) Bát nhã (prajnà: trí huệ siêu việt)
Bốn loại trước thuộc về đức
tính đạo đức. Sự khai triển của chúng ta là để chuẩn bị cho
sự thực hành thiền định, mà thiền định là hướng trí tuệ đến
bát nhã. Sau khi thực hành thiền định một cách đầy đủ, con
người giải trừ được những mê muội và đạt được chánh kiến (vipasyanà),
vỏ kén (chrysalis) của tự ngã bị phá vỡ, bóc trần, và tức
khắc trông thấy “thứ ánh sáng không hề có trên biển và lục
địa.”
Mục đích của Bát Nhã Ba La Mật
Đa là chân như (tathatà), pháp giới (dharmadhàtu), thực tại tế (bhùtakoti).
Bát Nhã Ba La Mật Đa là tri thức
tối cao. Nó là một nguyên lý toàn vẹn bao gồm cả hai phương
diện tri nhận và tình cảm, vì thế nó bao hàm cả chân lý và
đại từ bi. Nó không những chỉ tiêu hủy sự khao khát khoái lạc
cảm quan, mà còn tiêu hủy mọi dục vọng đối với quyền lực và
tiền tài.
3/ Lý Tưởng Của Bồ Tát (Bodhisattva)
Trong đoạn bàn về sự khác biệt
giữa Nguyên Thủy (Hinayama) và Đại Thừa (Màhàyana) có nói rằng
lý tưởng của Phật Giáo Đại Thừa là đạt tới quả vị Bồ Tát.
Chúng ta hãy phân tích chữ “Bồ
Tát / Bodhisattva”. Căn cứ vào Đại Trí Độ Luận (Mahàprajnapàramita-sastra),
chữ “Bodhi” (Bồ Đề: Trí Giác) có nghĩa là phương pháp, là con
đường thành đạo của chư Phật, còn ý nghĩa của “sattva” (“tát”)
là bản chất của thiện pháp. Tâm của Bồ Tát coi việc cứu giúp
tất cả mọi người vượt qua giòng sông của sanh và diệt làm tâm
niệm. Vì thế, “tâm” (citta) hoặc cá nhân mới chính là Bồ Tát.
Ba đức tính trọng yếu của Bồ
Tát đó là đại quyết tâm giải thoát tất cả chúng sanh; tư
tưởng không thể lay chuyển; và nổ lực không bao giờ lùi bước.
Khi một người cố gắng tu tập và
đạt được “vô sanh pháp nhẫn” (chân lý nhẫn trì vô sanh pháp) (anutpattika
– dharma - ksànti), thì người đó nhập vào quả vị đích thực (nỳama)
của bậc Bồ Tát, và, khi vào được quả vị đích thực này (Bồ
Tát chánh định vị) rồi thì trở thành bậc bất thoái chuyển (avaivarta).
Một khi họ ngộ được “vô sanh
pháp nhẫn” thì tận trừ được mọi sự khổ đau, và khi họ đạt
được Phật quả, thì họ diệt trừ được hết những niệm còn sót
lại.
Người cố gắng tu tập để đạt
tới quả vị Bồ Tát nhờ hạnh “tối thượng cúng dường” (anuttara
pujà) – một đường lối tu tập tổng cộng gồm 7 giai đoạn, và
thực hành 6 loại Bát Nhã Ba La Mật Đa (prajnà pàmitas) (tức 6
đức tính tinh thần như đã nói ở giai đoạn 2 trên đây). Sự phát
triển tối cao của Bồ Tát là đaṭ được Bồ Đề tâm (Bodhicitta),
Bồ Đề tâm này gồm hai khía cạnh, đó là ̣(1) Không Tánh (sùnyatà)
hoặc Bát Nhã (prajnà), và (2) từ bi (karunà), chữ karumà
thường được giải thích là từ tâm hoặc thương xót, nhưng Suzuki
đã dịch sang Anh ngữ là “universal love”, tình thương yêu phổ
biến vô bờ bến, và đương nhiên là giải thích như thế có ý
nghĩa tốt hơn. Phật tánh được cấu thành bởi bát nhã (prajnà:
tuệ giác siêu việt) và từ bi (karunà).
4/ Phật Luận (Budhology)
Theo phái Nguyên Thủy (hynayana),
Đức Phật chỉ đơn giản là một con người tự mình nổ lực để
giác ngộ và trở thành một bậc thánh giả. Theo phái Đại Thừa
thì Đức Phật là hóa thân của chính sự Thánh Thiện trong vũ
trụ ngài giáng trần, như là một sứ mệnh ân sủng, để truyền
dạy giáo nghĩa tối cao về vận mệnh của nhân loại. Phái Đại
Thừa (Mahyamikas) đã khai triển khái niệm Phật Đà tam thân, tức
là (1) Hóa thân (Nirmànađkàya), (2) Pháp thân (Dharma-kàya) và
(3) Báo thân (Sambhoya-kàya). Khái niệm báo thân (body of bliss)
là do Du Già hành phái (Yugàcàrins) khai triển sau này. Trung
Quán phái (Madhyamikas) thì chỉ nói về pháp thân và hóa thân.
Chữ “pháp” (dharma) trong Phật
Giáo có nhiều ý nghĩa. Nghĩa rộng nhất thì nó là năng lực
tinh thần nhân cách bên trong và đằng sau tất cả mọi sự vật.
Trong đạo Phật và triết học Phật Giáo chữ này gồm có 4 loại
ý nghĩa trọng yếu:
1) Dharma có nghĩa là thực tại chung cực (ultimate reality). Nó
vừa siêu việt vừa ở bên trong thế giới, và cũng là luật chi
phối thế giới.
2) Dharma theo ý nghĩa kinh điển, giáo nghĩa tôn pháp, chẳng hạn
như “Buddhist dharma” (dharma hiể̀u theo Phật Giáo).
3) Dharma có nghĩa là sự ngay thẳng, đức hạnh, lòng thành khẩn.
4) Dharma có nghĩa là “thành tố của sự sinh tồn” (elements of
existence). Khi dùng theo nghĩa này thì thường được dùng cho số
nhiều.
“Pháp” trong chữ “Pháp thân”
(Dharma-kaya) là sử dụng trong ý nghĩa của loại thứ nhất, tức
là thực tại chung cực. Chữ “kàya” (thân) ở đây không dùng theo
nghĩa đen là thân thể, mà là theo nghĩa “asraya”, tầng lớp dưới
hay nền móng, cũng có nghĩa là nhất thống.
Chữ Dharmakaya (Pháp thân) có
nghĩa là “nguyên lý về vũ trụ thống nhất”. Nó không chỉ là
một khái niệm triết học trừu tượng, mà còn là một “đối
tượng của ý thức tôn giáo”.
A. Pháp thân (Dharmakàya)
“Pháp” (dharma) là bản chất của
vật tồn hữu, là Thực Tại chung cực, là Tuyệt Đối. Pháp thân (Dharmakàya)
là tánh chất căn bản của Đức Phật. Đức Phật dùng pháp thân để
thể nghiệm sự đồng nhất của ngài với Pháp hoặc Tuyệt Đối, và
thể nghiệm sự thống nhất (samatà) của ngài với tất cả chúng
sanh. Pháp thân là một loại tồn hữu hiểu biết, từ bi, sẵn
lòng, là đầu nguồn vô tận của tình thương yêu và lòng từ bi.
Khi Đức Phật sắp tịch diệt, đệ
tử của ngài là Bát Ca Lê (Vakkali) bày tỏ một cách nhiệt
thành sự mong muốn được trông thấyĐức Phật tận mắt. Ngài bảo
Bát Ca Lê rằng: “Nếu ngươi thấy Pháp thì đó chính là thấy ta,
ngươi thấy ta cũng chính là thấy Pháp.” Qua lời dạy này người
ta cho rằng Đức Phật chân chính là “Pháp” chứ không phải nhân
vật Cồ Đàm (Gautama) được biết như là Đức Phật trên phương diện
lic̣h sử, và, do đó khái niệm “Pháp thân” (Dharma-kàya) đã được
khai triển. Phái Đại Chúng Bộ (Mahàsanghikas) cho rằng Phật
Thích Ca Mâu Ni (Sàkyamuni) của pháp thân, để truyền đạt thông
điệp của Pháp cho nhân loại vô minh.
Pháp thân mới chính là phương
diện căn bản siêu việt của Đức Phật. “Pháp tánh” (Dharmatà) là
nguyên lý chung cực và phi nhân cách. Pháp thân là nhân cách
chung cực và phổ biến. Đấng “Phạn Thiên” (Brahman) và đấng Tự
Tại Thiên (Isvara) trong kinh điển Vedànta, Pháp giới (Dharma-dhàtu)
và Pháp thân của Trung Quán Phái đã có một số điểm giống nhau.
Pháp giới (Dharma-dhàtu) hoặc chân như (tathatà) giống như Phạn
Thiên (Brahman) của Vedànta, và Pháp thân có những điểm giống
như Tự Tại Thiên (Isvara) của Vedànta, nhưng cũng có nhiều điểm
khác nhau. Trong kinh điển Vedànta, Tự Tại Thiên liên kết với
thần Maya để sáng tạo, bảo trì thu hồi vũ trụ. Pháp thân thì
không có chức năng đó. Chức năng của Pháp thân xuất phát từ
trí tuệ thẳm sâu và tình thương bao la để giáng thế như là một
vị Phật nhằm truyền dạy chánh pháp và chuyển hóa, giúp nhân
loại lầm đường lạc lối được thăng tiến.
Đó là bậc chí thánh thiện
(Divine), nhưng không phải là Thượng Đế (God). Trong bất cứ hệ
thống tư tưởng nào người ta cũng gán chức năng sáng tạo vũ trụ
cho Thượng Đế. Nhưng, Phật Giáo thì không tin vào loại thượng đế
như thế. Suzuki đã bày tỏ khái niệm về Thượng Đế của Phật
giáo như sau:
“Đừng phán đoán Phật Giáo như
là một thuyết vô thần giải thích về vũ trụ theo đường lối
bất khả tri luận và duy vật. Ngược lại, Phật giáo thừa nhận
một cách minh bạch sự hiện hữu của một loại thực tại siêu
việt vượt ngoài những hạn chế của hiện tượng tánh, nhưng,
loại thực tại này nằm bên trong mọi sự vật và tự biểu hiện
bằng hào quang rực rỡ của nó, mà trong đó chúng ta sống, di
động và tồn hữu.”
(Outlines of Mahàyàna Buddhism, p. 219)
Pháp thân đồng nhất với Tuyệt
Đối, nhưng đồng thời nó cũng liên kết với hiện tượng giới. Vì
thế, chỉ có Pháp thân mới có thể giáng trần để cứu vớt nhân
loại.
Bất cứ khi nào Pháp thân sử
dụng hình tướng con người để giáng trần, thì Ngài đều tạo
tác một xác thân ảo ảnh được gọi là “Hóa thân” (Nirmàna-kàya).
Hóa thân là cái thể xác mà Pháp thân nhập vào khi Ngài quyết
định giáng thế để cứu vớt nhân loại. Xuyên qua hóa thân này,
pháp thân có hình tướng người nhưng lại là một Đức Phật để
làm người cứu vớt nhân loại. Còn nhục thân thực sự của Đức
Phật thì được gọi là “Sắc thân” (Rùpa-kàya). Dựa vào quan
điểm này, Phật giáo không phải là một thứ tôn giáo trên lic̣h
sử giống như Cơ Đốc Giáo. Nói cách khác, Đức Phật không phải
là vị sáng lập ra một tôn giáo. Ngài chỉ là người truyền đạt
“Pháp” vĩnh hằng. Trước ngài đã có vô số các vị Phật và
trong tương lai cũng sẽ có vô số các vị Phật.
Khi một Phật giáo đồ qui y Đức
Phật, là qui y với vị Phật Pháp thân (Dharma-kaya Buddha) vĩnh
hằng ấy.
B. Hóa Thân (Nirmàna-kàya)
Trên đây đã nói rằng Hóa thân (Nirmàna-kàya)
là hình tướng mà Đức Phật đã sử dụng khi muốn dùng thân hình
của một con người để đi vào thế giới này. Pháp thân cũng còn
được gọi là “Tự tánh thân” (Svàbhàvika-kàya) hoặc thực thể
thân, bản nhiên thân của Đức Phật. Còn hóa thân (nirmànàkaya)
thì là vì mục đích đặc thù của chủng loại nào đó mà tạm sử
dụng hình tướng. Sắc thân (Rùpa-kàya) hoặc nhục thân của Đức
Phật thì bất cứ ai cũng đều có thể trông thấy một cách rõ
ràng. Nhưng, hóa thân thì chỉ có người có đạo hạnh cao mới có
thể trông thấy được.
|
|
Chùa Diệu Pháp - DIEU PHAP TEMPLE - TĐGHPGVNTN
Chùa Diệu Pháp - DIEU PHAP TEMPLE - TĐGHPGVNTN
|
|