Chùa Diệu Pháp - GHPGVNTN - DIEU PHAP TEMPLE
|
|
PHẬT GIÁO HƯỚNG DẪN THẾ KỶ 21
Dịch Giả: Thích
Viên Lý
THAM LUẬN VI
PHẬT GIÁO Ở THẾ KỶ 21
Tiến sĩ A.T. Ariyaratne
(Tích Lan)
Đức Phật sống trong thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch. Cho tới ngày nay, cuối
thế kỷ 20, giáo lý của ngài vẫn tiếp tục ảnh hưởng từ thế hệ này sang
thế hệ khác, trong những địa khu và dân tộc khác nhau, và những hoàn
cảnh xã hội khác nhau. Đối với các dân tộc khác nhau này, Phật giáo
không hoàn toàn giống nhau trong chi tiết và trên mọi phương diện. Vì
vậy, khi chúng ta thảo luận về Phật giáo trong thế kỷ 21, đầu tiên,
chúng ta phải đi tới sự đồng thuận về một số sự kiện, về tu trì, và
những nguyên tắc cơ bản của Phật giáo mà tất cả các Phật tử có thể chấp
nhận một cách đại cương.
Thứ nhì, chúng ta cần nhận diện những
vấn đề và vấn nạn mà các xã hội nhân loại đang phải đối phó trong thế kỷ
21 sắp tới, và thảo luận những phương án và phương tiện có thể áp dụng
để tìm ra những giải pháp.
Thứ ba, ngoài Phật giáo và Phật tử,
còn có những hệ thống trí thức, tu trì và cấu trúc thuộc tôn giáo, phi
tôn giáo, và vô thần, mà chúng ta cần phải chung sống và tương tác với
nhau. Trong những tình cảnh này, đâu là những mô thức Phật giáo có thể
tiếp nhận?
Thứ tư, là người nhiệt thành tin
tưởng vào cả giới luận lẫn sự tu trì của Phật giáo, tôi tin rằng chúng
ta cần phải có một Đại Hiến Chương Phổ Quát cho sự Thực Hành Phật Giáo ở
Thế Kỷ 21. Các đoàn thể Phật giáo khác nhau ở những vùng khác nhau, có
thể căn cứ vào đại hiến chương này để thiết kế những phương án hành động,
để có thể cùng nhau thực hiện những đóng góp đáng kể cho xã hội nhân
loại trong thế kỷ 21. Bài văn này sẽ nhắm vào bốn điểm trên đây để đề ra
thiển kiến cá nhân của tôi.
Tất cả Phật tử, bất kể họ thuộc tông
phái nào, dù là Thượng Toạ Bộ, Đại Thừa, Kim Cang Thừa, điều tiếp nhận
Đức Phật là bậc đạo sư tối cao của họ, hoặc coi ngài là hiện thân của
giác ngộ tối cao mà chính họ có thể đạt tới bằng cách đi theo những con
đường khác nhau như đã được chỉ dẫn trong đạo pháp. Các Phật tử thuộc
phái Thượng Tọa Bộ (Theravada), ngay từ thời thơ ấu đã xướng tụng những
câu kinh Pa-li ngữ như sau:
“Con sẽ trọn đời quy y Đức Phật,
con lễ bái tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại, và vị lai. Ngoại trừ
quy y Đức Phật, con không quy y ai khác. Con cầu xin Đức Phật tha thứ
những ô trược của con."
Kế đó, chúng tôi xướng niệm danh hiệu
của 28 vị Phật trong quá khứ gần nhất, và cũng lễ bái các vị Phật tương
lai, như Phật Di Lặc. Theo thiển ý, việc tôn sùng Tất Đạt Đa Cồ Đàm, ra
đời năm 624 trước Tây lịch, chứng ngộ vô thượng chánh giác năm 35 tuổi
để thành Phật, trên bản chất chính là lễ kính tất cả chư Phật của quá
khứ, hiện tại, và vị lai. Mục tiêu tối cao của Phật tử chúng ta là chứng
được giác ngộ ở mức thượng đẳng này. Vì thế, Đức Phật Cồ Đàm - vị Phật
trong lịch sử, đấng giác ngộ gần với thời đại chúng ta nhất, tượng trưng
của sự thể hiện mục tiêu tối cao của chư Phật – nên được mọi Phật tử
nhất trí tôn ngưỡng, không cho phép có sự dị nghị hoặc tranh chấp hình
thái ý thức hệ.
Tất cả Phật tử đề nên tiếp nhận Đức
Phật là bậc đạo sư tối cao của chúng ta. Phật đường của Phật giáo thông
tục có thể trưng bày bao nhiêu tượng Phật, nhưng điều này không làm tổn
hại đối với việc thực hành đạo pháp của chúng ta.
Khi một người tự nguyện quy y Phật
Pháp Tăng, là biến thành Phật tử. Đây là mô thức tiếp nhận chung của
Phật tử Thượng Tọa bộ. Nếu Phật tử các tông phái khác cũng tiếp nhận mô
thức Tam Quy Y Phật, Pháp, Tăng thì tôi cho rằng đó là một bước tiến lớn
trong việc đoàn kết Phật tử toàn cầu. Sự đoàn kết như vậy giữa các Phật
tử là điều tất yếu không thể thiếu, đối với cả việc bảo vệ lẫn việc
hoằng dương Phật Pháp, và giúp cho sự đóng góp của Phật tử vào xã hội
toàn cầu được dễ dàng hơn nhằm giải quyết vô số tệ trạng trên thế giới.
Chúng ta biết rằng có những khác biệt
về giáo lý gây trở ngại cho sự chấp nhận Tam Quy Y như là một điều kiện
chung cho một Phật tử. Nhưng không nên xem vấn đề này là một chướng ngại
không thể khắc phục, bởi vì gần đây tất cả tông phái Phật giáo trên toàn
thế giới đã thiết lập mối liên hệ mật thiết mà trước đây không có. Sự
phát triển cao độ của các hệ thống giao thông và thông tin đã giúp thu
ngắn khoảng cách biệt này. Chúng ta cần tiến thêm bước nữa.
Đối với vấn đề Đạo Pháp (Dhamma), hay
giáo lý, đương nhiên đã có những sự giải thích khác nhau từ xưa tới nay,
ngay cả trong cùng một tông phái. Đối với giới định về chữ Tăng (Sangha)
cũng thế, nhất là các đoàn thể Phật giáo ở ngoài Á Châu, các tông phái
đều có thuyết riêng. Vấn đề này cũng có thể nhờ đối thoại để giải quyết.
Tới đây, tôi xin đưa ra một nhận xét
riêng mà tôi cho rằng hết sức quan trọng. Những sai biệt về giáo lý
không khiến cho các học giả Phật giáo bối rối. Họ sẽ tiếp tục duy trì
những ý căn cứ vào sự hiểu biết của họ và sẽ thay đổi những ý kiến đó
nếu họ nhận ra rằng cần thay đổi ý kiến của mình căn cứ vào những phát
kiến mới. Ngoài ra, các học giả Phật giáo thuộc loại không tu trì, hoặc
không phải là Phật tử, chẳng quan tâm về những phong tục tập quán, về
cách tu trì, tính ngưỡng đơn giản mà các Phật tử bình thường coi là quan
trọng để giúp cho đời sống gia đình và sinh hoạt cộng đồng của họ được
thuận hòa, để được sống trong an tường và hài hoà. Nếu những sai biệt về
giáo lý đi quá xa đến nỗi làm xáo trộn đến tín ngưỡng của các Phật tử
bình thường thì sẽ phương hại đến cộng đồng Phật tử và xã hội nói chung.
Trong thời đại dân trí đã phát triển
như ngày nay, ít nhất vì lợi ích cho giới Phật tử tại gia thông thường,
chúng ta cần phải đạt tới sự đồng thuận về một số giáo nghĩa và giới
luật cơ bản nào đó. Sau khi quy y Tam Bảo, chúng ta nên phát nguyện tuân
thủ Ngũ Giới. Chúng ta biết rằng ngay cả sự tuân thủ hoàn toàn một giới
luật mà thôi cũng rất khó, khi chúng ta xét rằng mình phải tuân thủ thân
nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Nếu chúng ta muốn tự xưng là Phật tử,
thì quy y Tam Bảo và tuân thủ Ngũ Giới (không sát sanh, không trộm cắp,
không tà dâm, không nói dối, không uống rượu) giúp chúng ta có những
tiêu chuẩn và mô thức để xử sự một cách chính đáng, Đạo Đức (Sila) là
kiến trúc để xây dựng một đời sống tinh thần dẫn tới Đại Định (Samadhi)
và Trí Huệ Bát Nhã. Vì thế, trước khi thảo luận về những ý kiến khác
nhau trên giáo nghĩa, chúng ta cần phải dạt tới sự thỏa thuận về những
phương diện này của Phật giáo.
Đối với Phật Tử Thượng Tọa Bộ, chữ
“Tăng Già’ (Sangha) này hàm ý rất đặc thù. Nó không phải chỉ có ý nghĩa
là một đoàn thể tu sĩ, cũng không phải chỉ là những người xuất gia mặc
áo cà sa màu cam mà thôi. Nó chính là đoàn thể tinh thần, bắt đầu từ
thời đại Đức Phật và 5 môn đồ đầu tiên của ngài, kéo dài cho tới ngày
nay, và sẽ tiếp tục mãi trong tương lai. Nó là Thánh Bảo thứ ba trong
Tam Bảo. Vì thế, chữ “Tăng Già” này không nên sử dụng một cách hàm hồ.
Theo ý tôi, chữ này phải được áp dụng cho tất cả giới tu sĩ Phật giáo
thuộc tất cả các tông phái, nếu họ tuân thủ một số nguyên tắc chung nào
đó đã công nhận. Phật tử tại gia không thể sử dụng danh xưng “Tăng” này,
họ chỉ có thể được gọi bằng những chữ như “Ưu Bà Di” (Upasaka)
Tăng là gì? Tiến Sĩ W.G. Weeraratne,
trong cuốn sách Phật Giáo Cho Mọi Người, có trả lời rõ ràng cho câu hỏi
này như sau:
“Đoàn thể được gọi là Tăng Già gồm
những môn đồ đã từ bỏ sinh hoạt tại gia để gia nhập đoàn thể tu sĩ xuất
gia, sống theo giáo pháp của Đức Phật, với cuộc sống tôn giáo nghiêm
khắc. Khi một người quyết định lối sống hoàn toàn tôn giáo, họ cần phải
cáo biệt tất cả thân bằng quyết thuộc, từ bỏ tất cả những vật sở hữu thế
tục mà họ đã có, cạo hết tóc râu tóc, mặc áo cà sa, thỉnh cầu tăng đoàn
cho phép họ được trở thành một thành viên. Lúc ban đầu, chính Đức Phật
xuống tóc cho các tăng lữ, nhưng về sau số tăng dần dần tăng gia, các vị
trưởng lão, cùng một số tăng lữ đã chỉ định, được phép chấp hành những
nghi thức cần thiết cho việc thu nhận các môn đồ mới gia nhập tăng đoàn.
Một thành viên mới gia nhập tăng đoàn được dẫn dắt bởi một tôn sư và
giới sư để học tập những qui luật tu hành, tự mình áp dụng dúng kỷ luật
và học tập giáo pháp của Đức Phật. Tăng lữ có rất nhiều trách nhiệm, bao
gồm học tập Phật Pháp, thuyết pháp cho người tại gia, luôn luôn tự khắc
kỷ. Họ không được phép dính dáng vào việc thu thập tài sản. Sinh hoạt
cần thiết của họ như ăn mặc, thuốc men thì do tính đồ tại gia cung dưỡng.
Tăng lữ cần sống lối sống trong sạch vô nhiễm và giảng dạy Phật pháp
cho các tín đồ tại gia để đáp ơn sự bố thí của họ. Tăng lữ không thể có
tài vật tư hữu, chỉ có thể có những phẩm vật cần thiết cho sinh hoạt cơ
bản nhất: Ba áo cà sa, một bình bát, một dao cạo, một cây kim, một sợi
dây lưng, một túi lọc nước”
“Tăng lữ không có một nơi cư trú
thường trực, họ có thể ở chung cùng với các tăng lữ khác trong đạo tràng,
nhưng không người nào trong số đó được phép nhận rằng đạo tràng đó thuộc
quyền sở hữu của mình. Trong khi tăng lữ sống trong đạo tràng và thiết
bị ở đó cùng với những người khác. Khi chúng nhân hiến tặng phẩm vật là
họ cung dưỡng toàn thể quý tăng chúng, và các vị tăng này tiếp nhận cung
dưỡng trên danh nghĩa của toàn thể tăng đoàn trong quá khứ, hiện tại và
vị lai”
Ngày nay, ở đa số các nơi, giới tăng
lữ không còn giữ nền nếp này nữa. Nhưng cónhững nơi mà các tăng lữ vẫn
sống theo kỷ luật này và duy trì những điều kiện truyền thống mà một
tăng sĩ phải tuân thủ. Vì thế, tôi cho rằng lý tưởng này cần phải bảo
trì cho hậu thế, bởi vì có bao nhiêu người bất mãn với sinh hoạt thường
ngày của họ, và họ muốn tìm kiếm một lối sống khác. Cả những giải thích
theo khoa học lẫn những giải thích theo truyền thống Do Thái, những gì
mà những người này muốn tìm hiểu. Họ tầm cầu thứ gì uyên thâm hơn, có
tính cách sáng tạo và thực tiễn mà họ có thể thực nghiệm. Trong đám
người này, có một số chắc hẳn muốn sống theo lối tăng đoàn trong đạo
tràng để thăm dò sâu thêm mãi vào các lãnh vực tinh thần.
Một thí dụ rất tốt có thể rút tỉa từ
Tích Lan, đó là sự đóng góp độc đáo vào Phật Pháp trong thế kỷ này của
những tăng lữ Tây phương nổi tiếng, qua những hành vi sùng kính cao độ,
qua đời sống tu trì gương mẫu, và hoằng dương đạo pháp; họ sống trong
các đạo tràng trong rừng ở Dodanduwa và Kandy. Sự dẫn đạo mà Hòa Thượng
Gnanatiloka, Hòa Thượng Gnanasatta, và Hòa Thượng Gnanaponika đã thi
hành từ đầu thế kỷ này, ngày nay vẫn còn tiếp tục sang tới thế kỷ 21 bởi
Hòa Thượng Bodhi.
Tương tự như vậy, tại một số đạo
tràng trong rừng như Kanduboda và Mêthirigala ở Tích Lan, các tăng sĩ
địa phương vẫn tiếp tục duy trì những truyền thống đạo tràng, đem ích
lợi cho nhiều Phật tử địa phương và ngoại quốc. Ngoài ra, các vị cao
tăng vào tầm cỡ như Hòa Thượng Mahasi Siyadaw của Miến Điện và Hòa
Thượng Phật Sứ (Buddhadasa) của Thái Lan, và những đóng góp của họ vào
sự chấn hưng Phật giáo hiện đại, đã được quốc tế biết đến.
Tôi tin rằng trong Phật giáo Đại Thừa
cũng có nhiều tăng lữ và đạo tràng đã đóng góp rất nhiều vào việc hoằng
dương chánh pháp của Đức Thế Tôn. Chúng ta cần phải tận lực bảo vệ phẩm
chất của những đạo tràng này, và giúp cho tăng lữ giữ vững truyền thống
của họ, tinh tiến tu hành để chứng ngộ, giải thoát.
Điều này không có nghĩa là chúng ta
không khuyến khích cổ võ những sáng kiến và thay đổi để thích ứng với
thời đại và môi trường. Mặt khác, đối với những cá nhân phát tâm tu hành
chân chính, chúng ta cũng nên dành cho họ tất cả mọi cổ võ và khích lệ.
Một sáng kiến như vậy đã thành công là việc thành lập Giòng Phật Giáo
Tây Phương (Western Buddhist Order) và Thân Hữu Giòng Phật Giáo
Tây Phương (Friends of the Western Buddhist Order) do Hòa Thượng
Sangharakkita Maha Thero của Anh Quốc Thành Lập. Đây là Phong Trào Phật
Giáo mới do ngài thành lập năm 1967 để đáp ứng với sự cần thiết cấp
bách của Tây phương, khích lệ và giúp người ta tu trì và sống theo giáo
lý của Đức Phật. Ngày nay nó đã biến thành một phong trào quốc tế để
nghiên cứu Phật giáo, tọa thiền và tu trì, hỗ trợ các cá nhân đã quy y
Phật Pháp Tăng.
Hòa Thượng Sangharakkhita, trong sách
Nhân Loại Giác Ngộ của ngài, đã giải thích về công tác của một Tăng Đoàn
như sau:
“...Nói một cách đại cương, thành
viên của Tăng Đoàn cần làm hai việc để phụng sự thế giới. Trước hết, họ
duy trì sự tồn tại của Tăng Đoàn. Chúng ta có thể nói rằng việc duy trì
cho Tăng Đoàn tồn tại là điều hữu ích đối với thế giới; khi còn có người
hiến thân cho sinh hoạt tinh thần, dốc sức tu tâm, là có lợi ích. Bởi vì
nó giúp cho thế giới phát triển khung cảnh kiện toàn, cho nên là tốt
vậy.”
“Thứ hai, các thành viên của Tăng
Đoàn giúp cho thế giới bằng cách thiết lập cây cầu giữa thế giới và Tăng
Đoàn - hoặc ít nhất là đặt những tảng đá để bước qua. Họ tập hợp bốn,
năm đạo hữu, hoặc nhiều hơn, cùng nhau tu dưỡng tâm tánh, pháp huy tinh
thần. Những hoạt động tu hành này có thể giúp cho người ta từ bình diện
thế hợp, hoặc thậm chí từ bình diện hòa hợp tiến đến bình diện tinh thần...”
“Thành viên của Tăng Đoàn, hoặc những
cá nhân phát nguyện đi theo lý tưởng giúp nhân loại giác ngộ - đạt tới
những đẳng cấp ý thức và trí huệ cao hơn – và họ giúp người đời phát
triển tư tưởng kiện toàn viên mãn, an nhiên tự tại, tình thương, và sự
hiểu biết, trên thực tế làm lợi cho người là làm lợi cho chính mình. Đây
tức là ý nghĩa của Tăng Đoàn.”
Nơi đây, tôi cũng cần đề cập và nhìn
nhận sự cống hiến vĩ đại của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Thiền Sư Thích Nhất
Hạnh và các vị đại sư Phật giáo khác đã hoằng dương tinh
thần Phật giáo trên thế giới, đặc biệt là trong vùng Tây Bán Cầu.
Thế giới này tuy chia thành nhiều
quốc gia và dân tộc khác nhau, có những tín ngưỡng khác nhau, nhưng nhờ
các hệ thống giao thông và thông tin hiện đại nhanh chóng, nên đã trở
thành ngày càng thu nhỏ. Phật giáo ở thế kỷ 21 cần tự điều chỉnh đối
với sự phát triển tân tiến này để loan truyền thông điệp của Đức Phật
đến với mọi người bằng một ngôn ngữ đơn giản mà họ đều hiểu.
Chúng ta cần nên thi hành điều đó với
sự lãnh đạo của các nước như Đài Loan, Hàn quốc, Thái Lan và Nhật Bổn.
Những quốc gia này chiếm ưu thế đặc biệt, vì vừa là nước theo Phật giáo
vừa tiên tiến về kinh tế và khoa kỹ. Những quốc gia này đều phú cường,
đồng thời họ cũng bảo tồn thông điệp của Đức Phật. Phần lớn thế giới
Phật giáo bao gồm những nước nghèo nàn về kinh tế. Vì thiếu sức mạnh
kinh tế và chánh trị, cho nên Phật giáo và phương thức sinh hoạt Phật
giáo tại những nước nghèo này không thể phát huy. Nhưng trong bốn quốc
gia Phật giáo nói trên lại có nền khoa kỹ phát triển nhất, đây là nguồn
tài nguyên lớn nhất để phát triển Phật giáo ở thế kỷ 21.
Trong tương lai, khái niệm và sự tu
trì của Phật giáo thế giới cần được truyền bá từ những quốc gia đó. Với
sự lãnh đạo của họ, họ nên thành lập “Hội Đồng Tối Cao” để truyền bá
thông điệp Phật giáo đến toàn thế giới. Những Phật tử bần cùng trong các
quốc gia nghèo khó cần được hội đồng này trợ giúp để khỏi thành con mồi
đối với những tín đồ cuồng nhiệt của các tôn giáo đi truyền đạo, những
người này dùng những số tiền lớn mà họ có để dẫn dụ người nghèo cải đạo.
Trong nước tôi (Tích Lan) đã có số lớn Phật tử nghèo khó cải đạo như vậy,
vì bị những người đó khai thác cảnh nghèo và sự dốt nát của họ bằng cách
ban tiền bạc, tài vật, nhà cửa và công việc làm. Đây hoàn toàn là những
nguỵ trang dưới hình thức phục vụ xã hội và giúp người nghèo phát triển.
Phật giáo dành cho thế giới ngày mai
không cần phải bao gồm quá nhiều tiểu tiết thuộc về triết lý và tu trì,
mà những người thông thường không thể hiểu. Hãy nên dành những điều đó
cho những cuộc bàn cãi và đối thoại ở trình độ học giả, giữa các Phật tử
với nhau hoặc với những người thuộc các tôn giáo khác. Không nên “tiếp
thị” Phật giáo với những “nhãn hiệu” như Thượng Tọa Bộ, Đại Thừa, hoặc
Kim Cang Thừa, v.v… Chỉ cần niềm tin đơn giản vào Phật Pháp Tăng, Ngũ
Giới, Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo cũng đủ để tạo thành một mô thức Phật
giáo đơn giản mà tất cả mọi người đều có thể chấp nhận. Phần thiết yếu
của loại Phật giáo đại chúng đơn giản này là nội dung của những giáo lý
mà tất cả mọi Phật tử nên biết để tụng niệm thuộc lòng và hiểu rõ ý
nghĩa. Một mặt, mọi người có thể sử dụng ngôn ngữ nguyên thủy của Đức
Phật, là Pa-Li ngữ, để tụng niệm; mặt khác, cũng có thể sử dụng ngôn ngữ
của người bản xứ để tụng niệm. Một câu chuyện đơn giản về cuộc đời Đức
Phật, cộng thêm một số kinh văn đơn giản và trọng yếu, rút ra từ tất cả
những tông phái Phật giáo, là có thể thỏa mãn cho sự cần thiết cơ bản.
Tương tự như vậy, trong địa hạt tọa thiền cũng cần phải đạt tới sự đồng
thuận để cùng nhau chấp nhận khoảng hai hay ba hình thức tọa thiền căn
bản. Ở địa hạt này, tôi đề nghị chúng ta hãy coi như giới Phật tử đối
tượng để truyền giảng có trình độ giáo dục ở bậc trung học đệ nhất cấp.
Sau khi đã đặt nền móng vững vàng
bằng cách đó, mỗi đoàn thể Phật giáo sẽ tự phát triển những trình độ học
tập và tu trì cao hơn.
Sau khi thực hiện bước này, các học
giả Phật giáo có thể tiến tới bước kế tiếp khó hơn để đi tới sự đồng
thuận về việc truyền giảng những giáo lý cao hơn và có triết học tánh
hơn, như thuyết Duyên Khởi, v.v… Đồng thời, chúng ta cũng cần khích lệ
và hỗ trợ những trung tâm nghiên cứu Phật giáo cao cấp và những trung
tâm tu thiền cao hơn, như Nội Quán (Vipassana) hoặc Thiền (Zen), như tôi
đã nói. Lời kêu gọi của tôi là những đoàn thể Phật giáo đơn giản nhất
cho tới giới học giả, hoặc các nhà lãnh đạo Phật giáo ở cấp bậc cao nhất
trên thế giới, cần phải có một dây liên lạc và sự thừa nhận chung. Đây
là một sợi dây kim tuyến xuyên qua họ và kết hợp họ với nhau. Chỉ bằng
cách đó, ảnh hưởng Phật giáo mới có thể thi triển hữu hiệu đối với văn
minh nhân loại khi bước sang thế kỷ mới.
Khi bàn đến một hình thức Phật giáo
đơn giản, chúng ta không nên quên những vấn đề khẩn khiết về kinh tế,
chánh trị, xã hội và môi sinh hiện nay, đồng thời đưa ra phương thức
Phật giáo để giải quyết những vấn đề này. Đại Hiến Chương Phổ Quát cho
sự Thực Hành Phật Giáo mà trên đây đã đề cập rất thích ứng với việc này.
Trong hiến chương chúng ta hãy thuyết minh rõ ràng ý nghĩa của chữ “phát
triển” mà Phật tử muốn nói, phương thức sinh hoạt Phật giáo mà chúng ta
muốn phát triển là gì, chúng ta đang làm gì, chúng ta làm cách nào để sử
dụng tài nguyên thiên nhiên và nhân lực, chỉ tiêu phát triển của Phật
giáo v.v…
Chúng ta đừng bỏ qua bất cứ phương
diện phát triển nào. Thí dụ như tại mỗi cuộc hội họp ở cấp độ thế giới
đều sẽ bàn đến vấn đề nhân quyền. Đức Phật không những coi trọng nhân
quyền và trách nhiệm của con người, ngài còn
tiến xa hơn và bàn đến quyền của tất cả chúng sanh, bao gồm tất cả các
loài động vật. Quan niệm từ bi của ngài vượt ra khỏi nhân loại, trải
rộng khắp các loài động vật cho đến cả các loài thực vật và gồm cả các
loài phi nhân. Có lẽ ở thế kỷ 21 chúng ta có thể phát hiện trong thái
dương hệ có thế giới khác mà các loài phi nhân, không giống loài người,
cư trú. Ở đây chúng ta không cần phải đi sâu vào vấn đề này trong tư duy
Phật giáo.
Ngày nay, người ta thờ ơ đối với môi
sinh của họ, cả trên phương diện vật lý lẫn phương diện xã hội.
Các tổ chức bảo vệ môi sinh trong mỗi
xã hội đều đang cố gắng đẩy mạnh sự đề cao cảnh giác này, thậm chí họ
còn mở những chiến dịch để tích cực tranh đấu, yêu cầu các chánh phủ để
tích cực tranh đấu, yêu cầu các chánh phủ nhiều thế lực và các xí nghiệp
kỹ nghệ hãy bảo vệ môi sinh. Đức Phật từng nói “sống trong môi trường
hài hòa là một trong những phước báu trên đời.” Theo tôi, toàn thể
“Tam Bảo Kinh” (Ratana Sutra) chính là sự khai thị của Đức Phật đối với
việc bảo vệ sinh thái. Ngài đã đi xa hơn môi sinh vật lý và xã hội, khi
ngài còn nói tới cả phương diện tâm lý hoặc tinh thần của môi sinh.
Ngũ Pháp trong giáo pháp của Đức Phật,
tức là Chủng Nhân Pháp, Thời Tiết Pháp, Nhân Duyên Pháp, Sắc Pháp và
Tâm Pháp, bao gồm mọi phương diện của môi sinh.
Về sự xem trọng phương diện này, hạnh
từ bi mà Phật tử tuân thủ là triệt để nhất. Phật giáo nhấn mạnh chúng ta
phải sống như người mẹ thương yêu đứa con một của bà, chúng ta phải tập
thương yêu tất cả chúng sanh, bất kể chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch,
giai cấp của họ là gì. Đây là quá trình bắt đầu từ chính mình, chúng ta
thương yêu những người hàng xóm láng giềng, trong cộng đồng, trong quốc
gia, thế giới, trên những hành tinh khác, cho tới vũ trụ vô biên. Bạn
dâng hiến lòng từ bi hoặc tình thương yêu vào môi sinh tức là bạn khiến
cho nó phong phú hơn, vượt qua tầng diệt vật lý và xã hội. Ảnh hưởng xấu
của “vô từ bi” hoặc sự thù hận, thậm chí còn tai hại hơn cả ảnh hưởng do
bụi phóng xạ của vũ khí hạch tâm có sức hủy diệt rất lớn gây ra.
Trong “Đại Hiến Chương” cần phải dùng
phương thức quan sát và nhìn thẳng vào những vấn đề toàn cầu hiện thời,
để nói lên quan hệ của Phật giáo đối với thế giới hiện đại. Sự sản xuất
vũ khí không ngừng để bán bừa bãi là lòng tham kim tiền vô tận. Các quốc
gia Phật giáo có thể đoàn kết lại, ít nhất là để cứu vãn được quốc gia
của họ, khỏi bị bọn con buôn vũ khí quốc tế nhẫn tâm tìm cách gây ra
những bất hòa đưa tới chiến tranh để chúng trục lợi. Một hội đồng Phật
giáo thế giới do Đài Loan, Nhận Bổn, Hàn quốc lãnh đạo, với sự hỗ trợ
của sức mạnh kinh tế và khoa kỹ thông tin, có thể giúp giải quyết nan đề
này một cách thực tiễn bằng cách cổ võ bất bạo động và hòa bình.
Chúng ta cần phải làm mọi cách để
ngăn chặn mô thức phát triển sai lầm áp đặt lên các cộng đồng Phật giáo
vẫn còn sống trong loại xã hội tiền kỹ-nghệ. Khi chúng ta vì xã hội
nghèo khổ ngày nay thiết lập những kế hoạch phát triển mới, cần phải
tránh những sai lầm mà xã hội công nghiệp ngày nay phạm phải để chận
đứng những tội ác cá nhân, sự đổ vỡ của nếp sống gia đình và ý thức cộng
đồng, tham nhũng hủ hóa, phí phạm những loại tài nguyên không thể thu
hồi. Chúng ta nên quan tâm toàn diện tới những quốc gia như Việt Nam,
Cao Miên, Lào, Miến Điện, Nepal, Bhutan, Tích Lan, v.v… là những nơi mà
chúng ta có thể thực thi phương án phát triển mới, đặt cơ sở trên những
giá trị xứng đáng. “Đại hiến chương” mà chúng tôi để nghị có thể là một
phương thức chỉ đạo có giá trị cho những quốc gia này, giúp họ tránh
khỏi sa vào những cạm bẫy.
Vấn đề sản xuất và tiêu thụ dược chất
ma túy toàn cầu là một vấn đề khác mà Phật tử phải tư khảo. Kẻ sản xuất
ma túy là những người nghèo bị những người nhiều tiền nhiều thế lực khai
thác. Phần lớn họ là bá tánh của các quốc gia Phật giáo, sự viện trợ
kinh tế cho những người đó ít ra có thể tương đối làm giảm tệ nạn này.
Phương thức Phật giáo đối với những nan đề trầm trọng, như bệnh liệt
kháng AIDS, v.v..., là một đề mục khác nên liệt vào nghị trình của chúng
ta.
Đề xướng một “Triết Học Kinh Tế”
và sự hợp tác theo mô thức Phật giáo giữa các quốc gia Phật giáo đặt căn
bản trên Đại Hiến Chương Phổ Quát cho sự Thực Hành Phật Giáo sẽ là điều
thiết yếu cho thế kỷ 21. Việc phát triển trong tương lai của thế giới
Phật giáo còn có thể bao gồm sự thống nhất kinh tế theo hình thức nào đó,
với tiền tệ chung, tự do mậu dịch, tự do du lịch, hệ thống xuất nhập
cảng mật thiết hơn, và một hệ thống phòng thủ chung, v.v…Tuy rằng đối
với chúng ta hiện nay, điều này có vẻ như là chuyện thiếu thực tế, nhưng
với tư cách là Phật tử trong thế kỷ tới, chúng ta phải nghĩ đến những
phương án và phương tiện để đáp ứng với những tiến triển như vậy. Nhưng
chúng ta đừng chờ đợi tới lúc đó, mà, hãy bắt đầu ngay bây giờ!
Thông điệp của Đức Phật cần phải
truyền bá đến mọi người trong mọi quốc gia trên thế giới. Như trên đây
đã nói, chúng ta cần phải hoạch định một thông điệp đơn giản mà người ta
có thể hiểu được, rút ra những tinh nghĩa Phật giáo, không phân biệt
tông phái Nó phải là giáo lý của Đức Thế Tôn trong bất cứ ngôn ngữ nào,
do một nhóm học giả Phật giáo trên thế giới dịch sang các loại văn tự.
Chúng ta hãy đến với các anh chị em không phải là Phật tử, chúng ta cần
phải sống chung trong sự cảm thông, hài hòa và tôn trọng lẫn nhau.
Phật giáo luôn luôn tôn trọng những
quan điểm của người khác. Vì thế, chung sống với các đoàn thể tôn giáo
khác sẽ không thành vấn đề đối với Phật tử. Chúng ta nên làm sáng tỏ lập
trường này của Phật pháp cho người khác thấy, để tránh sanh ra hiểu lầm.
Đối với những người sống hòa bình, không những sự khác biệt tôn giáo mà
kể cả những khác biệt xã hội, văn hóa, chánh trị, và ý thức hệ chẳng
phải là những chướng ngại vật.
Ở điểm này, tôi xin nói sơ qua về
ngót bốn thập niên mà tôi đã cùng các đạo hữu nỗ lực khiến cho Phật pháp
trở thành một một thức hữu hiệu để phát triển sự tu trì ở Tích Lan. Tôi
muốn nói tới phong trào “Sarvodaya Shramadana” của Tích Lan. Chữ
Sarvodaya có nghĩa là “đánh thức chúng sanh qua sự chia sẽ.” Ở Tích Lan,
Sarvodaya xuất phát từ hứng khởi của Phật giáo và khai triển cho phù hợp
với hoàn cảnh. Tuy chúng tôi chịu ơn rất lớn từ Thánh Gandhi và môn đồ
của ông là Acharya Vinoba Bhave, vì tấm gương mà họ đã nêu ra khi cố
gắng xây dựng một xã hội bất bạo động và tự túc ở Ấn Độ, với sự hưởng
ứng của dân chúng. “Sarvodaya” ở Tích Lan theo kinh nghiệm của chúng tôi.
Tinh túy của Phật giáo mà Sarvodaya thi hành đã được những người không
phải tín đồ Phật giáo ở Tích Lan chấp nhận, và ngay cả Phật tử lần phi
Phật tử ở Tích Lan và ở nước ngoài vẫn cố gắng thực hành theo triết lý
này. Với tư cách cá nhân, tôi xin mời tất cả những ai quan tâm và muốn
làm những việc để tạo một trật tự mới trên thế giới, đặt cơ sở trên
triết lý và những giá trị Phật giáo mà những người phi Phật tử cũng có
thể chấp nhận, hãy tới Tích Lan để quan sát trực tiếp những gì mà Phong
Trào Sarvodaya Shramadana đã cố gắng thực hiện trong gần 40 năm qua.
Tích Lan là một quốc gia vùng Nam Á
Châu, nơi mà hàng ngàn năm qua hai truyền thống tôn giáo đã phát triển
và đã đan kết những người thuộc sắc dân đa số Sinhala theo Phật giáo với
những người thuộc sắc dân thiểu số Tamil theo Ấn Độ giáo. Những mô thức
phát triển khởi sự tận gốc rễ của xã hội, để giải quyết sự mất niềm tin
và lo âu của nhân loại, cần có những cái nhìn sáng suốt để khai triển và
động viên tới gia đình và các cộng đồng, làng mạc. Nói cách khác, cần
đạt tới tận gốc rễ của nền văn hóa địa phương, cũng như trí huệ và nếp
sống tinh thần của bất cứ tôn giáo và tín ngưỡng nào trong nền văn hoá
Phật giáo và Ấn Độ của chúng tôi.
Đây là con đường chúng tôi đã đi, một
con đường mà chúng tôi đi vì lý do cần thiết và tín ngưỡng thân thiết.
Con đường này chứng tỏ nó rất thành công, dưới sự cố gắng suốt 40 năm
nay, xã khu, hương thôn đã từ cảnh nghèo sơ xác tiến bộ đến cá nhân giác
tỉnh, có tôn nghiêm, tự tin và sức sống dồi dào. Trong thời gian này,
chúng tôi đã cố gắng hết sức để vượt qua thiên nan vạn nan, để đạt thành
công trong việc giúp đỡ và truyền bá thông điệp đến gần 10,000 cộng đồng
xã thôn trong tổng số 24,000 thôn làng ở Tích Lan, để họ có thể thăng
tiến trên một con đường tự phát triển đặt căn bản trên sự tự túc và tham
gia cộng đồng.
Trong một khu vực mà những cách biệt
về xã hội, kinh tế và khoa kỹ cách nhau rất lớn, những cộng đồng đó cần
có trợ giúp từ bên ngoài để bổ sung cho sự tự trợ của họ. Trước tiên,
loại viện trợ này tuy không nhiều, chủ yếu là đến từ các cơ quan từ
thiện Tây phương. Lúc đầu, họ không có ý mang giá trị hoặc phương pháp
phát triển áp đặt lên chúng tôi, và chúng tôi có thể đề ra các chương
trình cho mọi phương diện phát triển, cho phúc lợi cũng như tuyên truyền,
và chứng tỏ những hệ thống văn hóa và giá trị tinh thần trong xã hội
truyền thông của chúng tôi có thể bảo tồn trong khi chúng tôi cải thiện
kinh tế. Nói cách khác, chúng tôi thấy rằng triết lý Phật giáo có thể
hội nhập vào hành động phát triển hiện đại. Chúng tôi thấy có những
đường lối bất bạo động và xây dựng, theo như Phật Pháp, để chuyển hóa
xã hội.
Tuy nhiên, chúng tôi đã gặp khó khăn
khi những cơ quan viện trợ quan trọng nhất cắt bỏ những khoản viện trợ,
vì họ nêu những lý do như cắt giảm ngân sách và sự viện trợ của họ
chuyển hướng sang Phi Châu và Đông Âu. Nhưng chúng tôi tin rằng lý do
đích thực sâu xa hơn thế. Có lẽ chúng tôi đã có những xung khắc với
những người viện trợ về các hệ thống giá trị.
Một điều bất hạnh đối với chúng ta -
những người sống trong những vùng nghèo khó ở Á Châu – là các cơ quan
viện trợ Tây phương không ý thức được rằng những chiều hướng văn hóa và
tinh thần sâu đậm là cần thiết để thực sự phát triển, và chúng có ý
nghĩa đối với chúng ta như thế nào. Trên cơ bản, những người Tây phương
ban viện trợ không cho phép đối tượng nhận viện trợ xa lìa hẳn cái gọi
là mô thức phát triển theo chủ nghĩa vật chất; họ cho rằng như vậy là
không xứng đáng để họ viện trợ. Vả lại, có nhiều ngân khoản viện trợ đi
kèm với những động cơ tiềm ẩn, mà tôi đã đề cập ở phần trên, ban cho
những cộng đồng nghèo khó với ẩn ý làm lũng đoạn văn hóa và giá trị
truyền thống của họ. Đó là sự kiện đáng buồn mà chúng tôi đã gặp.
Vì vậy, chúng tôi cần phải quay về
Đông phương, chuyển hướng về mô thức văn hóa mà chúng tôi hiểu biết và
được người ta hiểu biết. Thật vậy, chúng tôi muốn quay về Đông phương,
hướng về những nước Đông phương đã phát triển và giàu hơn, mời họ đến
xem Mô Hình Sarvodaya xây dựng trên truyền thống và giáo lý Phật giáo,
và trên văn hóa bản thổ. Có lẽ những bài học từ Sarvodaya sẽ rất hữu ích
cho việc chấn hưng vùng Á Châu Phật giáo.
Trong Phật giáo, chúng ta coi trọng
sự rộng lượng, coi hạnh bố thí (Dana) như là pháp môn tu trì chủ yếu và
tích cực. Bố Thí có nghĩa là ban cho tha nhân sự trợ giúp về vật chất,
tinh thần, tâm lý, văn hóa, xã hội. Chúng ta có thể diễn dịch đúng nghĩa
chữ bố thí là “chia sẽ những tài nguyên,” từ tài nguyên kinh tế đến xã
hội, giáo dục, văn hoá, tinh thần và bất cứ tài nguyên nào khác của nhân
loại. Khi bạn giáo dục người khác, đây là một loại bố thí phẩm chất cao
nhất. Khi bạn cố vấn cho người nào đó, tức là bố thí. Phật tử ở thế kỷ
21 cần phải tái giải thích những giá trị tích cực của Phật giáo trong
khung cảnh hiện đại, hữu dụng ngay lúc này, và dễ dàng thích ứng với đời
sống nhân loại trong thời đại này.
Ngày nay, chúng ta nhận thấy thế giới
đang đi tìm lý thuyết và sự thực hành để phát triển một cách có ý nghĩa.
Sự phát triển hoàn toàn dựa theo những đường hướng kinh tế, đã không thể
thanh toán được những vùng nghèo khó thê thảm nhất ở khắp nơi trên thế
giới
Những cơ cấu quốc tế như Ngân Hàng
Thế Giới, Qũi Tiền Tệ Quốc Tế, Chương Trình Phát Triển Liên Hiệp Quốc,
đã thất bại thảm thương. Sau khi Liên Xô sụp đổ, bộ mặt chủ nghĩa xã hội
đã hầu như tan rã cùng với nó. Thế giới tư bản do các cường quốc Tây
phương lãnh đạo đang dần dần tiến tới bản chất mâu thuẫn của chính lý
thuyết phát triển của họ. Thiểu số người Tây phương biết suy tư đang
hoài nghi và đặt câu hỏi rằng lý thuyết phát triển của chính họ có đúng
hay không.
Ở phương diện này, Phật tử chúng ta
cần phải đưa ra luận thuyết phát triển thế giới của Phật giáo. Vì Đài
Loan, Hàn Quốc, Nhật Bổn là những quốc gia này nên quay nhìn lại và phê
phán kinh nghiệm quá khứ của họ, rút tỉa những điều tốt đẹp, và cố gắng
toạ lợi ích cho các quốc gia Phật giáo khác qua kinh nghiệm của họ. Sự
lãnh đạo của các bạn trong lãnh vực này, với tư cách như học giả, xí
nghiệp gia, kỹ thuật gia, v.v…, đều sẽ nhận được sự tri ân của thế giới
Phật giáo. Ở buổi bình minh của thế kỷ 21, các bạn là những ngọn đèn dẫn
đạo đối với các nước kinh tế lạc hậu ở Á Châu chúng tôi. Quyết định của
các bạn không những sẽ sẽ ảnh hưởng đến các Phật tử, mà sẽ ảnh hưởng tới
tất cả mọi người khác trên hành tinh nhỏ bé này của chúng ta, và không
chừng còn ảnh hưởng đến cả chúng sanh trên các hành tinh khác.
Để kết luận và tóm lược, tôi xin đề
nghị rằng nghị trình của Phật giáo cho thế kỷ 21 cần bao gồm những điểm
sau đây:
1- Vì tất cả Phật tử trên thế giới, hãy kiến tập một sự thừa nhận Phật
giáo phổ quát, với sự Bản Tuyên Ngôn chung về luận thuyết và tu trì cơ
bản của Phật giáo mà tất cả Phật tử đều có thể tiếp nhận.
2- Khích lệ những cơ quan nghiên cứu Phật giáo hiện hữu của các học giả,
của các trường đại học, các trung tâm tu thiền, và thúc đẩy việc thành
lập những cơ cấu mới
3- Thảo hoạch và tiếp nhận một Đại Hiến Chương Phổ Quát cho Phật tử, bao
gồm tất cả mọi phương diện và hãy phổ biến nó một cách sâu rộng nhất.
4- Khởi thảo Luận Thuyết của Phật Giáo về Phát Triển và Kế Hoạch Hành
Động, và tích cực vận động để cho nó được thực thi tại các nước Phật
giáo, để đương đầu vói nạn nghèo khó, mất quyền lực, bệnh tật, bạo hành
cá nhân và xã hội, chủ nghĩa khủng bố, ma túy, nội chiến, những xung đột
đẫm máu trên thế giới, sự bại hoại của những tiêu chuẩn tinh thần và đạo
đức trong xã hội nói chung.
5- Kêu gọi các quốc gia Phật giáo mới trở thành thịnh vượng của Đông
phương hãy dẫn đạo để thực thi những chính sách này, có thể là tiến tới
sự thiết lập một Hội Đồng Phật Giáo Tối Cao, để nhắm tới Sự Chấn Hưng
Phật Giáo Thế Giới.
Chúng ta đang đứng trên ngưỡng cửa
của những phát kiến vĩ đại. Trong số những phát kiến này, sự “tái phát
kiến” tín ngưỡng của chúng ta (tức là giáo lý nhà Phật) để áp ứng với
những cao vọng nà những thực tế của một thế giới mới, sẽ là thử thách
cam go nhất. Chúng ta hãy chấp nhận sự thử thách này! Chúng ta có thể
tạo một khối sức mạnh tâm thức cần thiết để xây dựng một trật tự thế
giới mới trong thế kỷ 21, bằng cách vận động, tổ chức, và làm thức tỉnh
các cộng đồng Phật giáo trên thế giới. Vậy chúng ta hãy lên đường thi
hành sứ mạng với sự quyết tâm và hy sinh.
|
|
Chùa Diệu Pháp - DIEU PHAP TEMPLE - TĐGHPGVNTN
Chùa Diệu Pháp - DIEU PHAP TEMPLE - TĐGHPGVNTN
|
|