TOÁT YẾU
KINH TRUNG BỘ
(MAJJHIMA NIKĀYA)
Dịch Giả: Hòa Thượng Thích Minh Châu
Tóm Tắt & Chú Giải: Ni sưThích NữTrí Hải
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội 2002
LỜI GIỚI THIỆU
Công trìnhtóm tắt kinh Trung Bộ do cố Ni trưởngThích NữTrí Hảithực hiện bằng thể văn vần là một công trìnhPhật họcđáp ứng nhu cầu học Phật cho những ai muốn tìm hiểu và thực hànhgiáo pháp của Đức Phật, đặc biệt là cho những ai yêu thích thơ văn.
Tuyển tập Trung Bộ kinh gồm 152 bài kinh chứa trọn tinh túy những lời dạy hết sứccăn bản của Đức Phật cho mục tiêugiải thoát khổ đau. Mỗi bài kinh của Ngài là một thông điệp thoát khổ mà Đức Phật mong muốn gởi trao cho các học trò của mình và cho nhân loại. Lời Phật dạy là lời chân thật, hữu ích đặt trọng tâm vào mục tiêugiải thoát khổ đau cho con người và cuộc đời, nên luôn luôn mới mẻ và bổ ích cho mọi người trong mọi thời đại. Phải học tập, thực hành và chiêm nghiệm cho thật nhiều rồi mới thấy giá trịlợi lạc to lớn nằm đằng sau những lời dạy của Đức Phật.
Ni trưởngTrí Hải học sâu giáo lý của đức Bổn sư, có tấm lòng tha thiết với giáo pháp của đức Từ phụ, có lối diễn dịchchính xác và dễ hiểu những lời dạy của bậc Đạo sư, nên chúng tôi tin công trinh tóm tắt này chính là một phẩn tâm huyết của Ni trưởng trong sứ mạnghoằng pháp của người con Phật.
Trân trọnggiới thiệucông trình này đến quý Phật tử và quý độc giả.
TP. HCM ngày 20/5/2009
Tỳ-kheo THÍCH MINH CHÂU
Viện trưởng thiền việnVạn Hạnh
LỜI ĐẦU SÁCH
Ba tập Toát yếu Kinh Trung Bộ I, II và III này, tôi đã làm ít nhất ba lần, và mỗi lần đều làm sau khi đã đọc kỹ bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu. Thế nhưng mỗi lần tôi đều toát yếu một cách khác, nhất là sau khi được đọc bản phiên dịch và chú thích bằng Anh ngữ của Đại đức Ñaṇamoli và Đại đức Bodhi. Như vậy đủ biết, những lời Phật dạy như núi cao, biển cả, mà sự học hiểu của mình chỉ như một cái xẻng đào đất hay cái muỗng múc canh, mỗi lúc chỉ lấy được một ít và rất phiến diện. Bởi thế mà Hòa thượng thường dạy, ngài không bao giờ “giải thích” lời Phật dạy, mà chỉ cố gắng dịch cho đúng nguyên văn của Người xưa dù có tối nghĩa đến đâu. Đấy là cái đức khiêm cung của ngài, trong vô số đức tính mà tôi ngưỡng mộ.
Mình là ai mà dám toát yếu lời Phật dạy? Lỡ mình để tuột mất cái điểm cốt yếu trong lời Ngài dạy thì sao? Như vậy sẽ mang tội lớn với Phật, với Thầy, Tổ. Bởi vậy, càng ngày tôi càng miễn cưỡng trong việc phổ biến ba tập toát yếu này, vì sợ công ít mà tội nhiều. Khi làm xong tập thứ hai, đem khoe Thầy Chơn Thiện, Thầy phán rằng: “Kinh không bao giờ nên tóm tắt”. Tôi giật mình, và bỏ dở công việc gần hai năm trời, mặc dù đã gần xong tập cuối, đến kinh Nhất Dạ Hiền Giả. Sau đó, anh Hồ Hồng Phước ở Luân Đôn, người thường gửi cho tôi những sách Phật học bằng Anh ngữ mới xuất bản tại nước ngoài, thúc giục tôi gởi sang tiếp vì có người đã hào hứng in ra biếu không hai tập đầu. Thế là tôi lại hăng hái tiếp tục!
Mỗi kinh do Tôn giả Ānanda trùng tuyên đều bắt đầu với câu “Tôi nghe như vầy”, mà không nói “Đức Phật đã dạy như vầy”, điều ấy rất đáng bắt chước. Vì tôi là ai mà dám làm phát ngôn nhân cho Phật? Lỡ Phật nói một đường, tôi nghe một nẻo thì sao? Cho nên đây chỉ là theo như tôi được nghe, chứ không phải theo nhưlời Phật dạy.
Bản toát yếu này cũng thế. Đây chỉ là những gì do tôi hiểu được qua lời kinh, vào một thời điểm nào đó mà thôi. Và tôi đã toát yếu để cho tự mình nhớ được chút ít những lời vàng ngọc của đức Thế Tôn, để tự tu tập cho bản thân mình. Bởi thế người đọc hoàn toàn không thể bỏ qua bản gốc của Hòa thượng Thích Minh Châu đã dày côngphiên dịch. Nếu đọc toát yếu này mà bỏ qua Kinh gốc thì cũng như bỏ đại dương để lấy vài giọt nước muối.
Vậy, sau hết và trước hết, bản toát yếu này chỉ là một tập sách giúp trí nhớ cho những ai đã nhiều lần nghiền ngẫm Kinh Trung Bộ, và có thể họ đã toát yếu một cách khác, thì sách này sẽ bổ túc cho trí nhớ của họ. Những người mới đọc KinhTrung Bộ lần đầu, thì qua Toát yếu này sẽ nắm được vài ý để hướng dẫn mình trên đường tu tập chứ không chỉ là “chuyên ký danh ngôn” vì kỳ thực Phật không dạy điều gì nếu không phải để đưa người đến chuyển mê khai ngộ. Xin dâng lên Hòa thượng lòng tri ân vô bờ bến.
Thích NữTrí Hải
Thành phố Hồ Chí Minh, 2001.
MỤC LỤC
- Pháp môncăn bản
- Tất cà lậu hoặc
- Thừa tự Pháp
- Sợ hãi và khiếp đảm
- Không uế nhiễm
- Ước nguyện
- Ví dụ tấm vải
- Đoạn giảm
- Chính tri kiến
- Niệm xứ
- Tiểu kinh sư tử hống
- Đại kinh sư tử hống
- Đại kinh khổ uẩn
- Tiểu kinh khổ uẩn
- Tư lượng
- Tâm hoang vu
- Khu rừng
- Mật hoàn
- Song tầm
- An trú tầm
- Ví dụ cái cưa
- Ví dụ con rắn
- Gò mối
- Trạm xe
- Bẫy mồi
- Thánh cầu
- Tiểu kinh dụ dấu chân voi
- Đại kinh dụ dâu chân voi
- Thí dụ lõi cây
- Thí dụ lõi cây
- Tiểu kinh rừng sừng bò
- Đại kinh rừng sừng bò
- Đại kinh người chăn bò
- Tiểu kinh người chăn bò
- Tiểu kinh Saccaka
- Đại kinh Saccaka
- Tiểu kinh đoạn tận ái
- Đại kinh đoạn tận ái
- Đại kinh xóm ngựa
- Tiểu kinh xóm ngựa
- Bà la môn ở Sàla và Veranja
- Bà la môn ở Sàla và Veranja
- Đại kinh Phương Quảng
- Tiểu kinh Phương Quảng
- Tiểu kinh pháp hành
- Đại kinh pháp hành
- Tư sát
- Kosambiya
- Phạm thiêncầu thỉnh
- Hàng ma
51) Kinh Kandaraka
52) Kinh Bát thành
53) Kinh Hữu học
54) Kinh Potaliya
55) Kinh Jivaka
56) Kinh Ưu-ba-ly
57) Kinh Hạnh con chó
58) Kinh Vương tử Vô-úy
59) Kinh Nhiều cảm thọ
60) Kinh Không gì chuyển hướng
61) Kinh Giáo giới La-hầu-la ở Am-bà-la
62) Đại kinh Giáo giới La-hầu-la
63) Tiểu kinh Malunkyaputta
64) Đại kinh Malunkyaputta
65) Kinh Bhaddali
66) Kinh Ví dụ con chim cáy
67) Kinh Catuma
68) Kinh Nalakapana
69) Kinh Gulissani
70) Kinh Kitagiri
71) Kinh Vacchagotta về tam minh
72) Kinh Vacchagotta về lửa
73) Đại kinh Vacchagotta
74) Kinh Trường Trảo
75) Kinh Magandiya
76) Kinh Sandaka
77) Đại kinh Sakuludayi
78) Kinh Samanamandika
79) Tiểu kinh Sakuludayi
80) Kinh Vekhanassa
81) Kinh Ghatikara
82) Kinh Ratthapala
83) Kinh Makhadeva
84) Kinh Madhura
85) Kinh Vương tử Bồ-đề
86) Kinh Angulimala
87) Kinh Ái sanh
88) Kinh Bahitika
89) Kinh Pháp trang nghiêm
90) Kinh Kannakatthala
91) Kinh Brahmayu
92) Kinh Sela
93) Kinh Assalayana
94) Kinh Ghotamukha
95) Kinh Canki
96) Kinh Esukari
97) Kinh Dhananjani
98) Kinh Vasettha
99) Kinh Subha
100) Kinh Sangarava
101) Kinh Devadaha
102) Kinh Năm và Ba
103) Kinh Nghĩ như thế nào?
104) Kinh Làng Sama
105) Kinh Thiện tinh
106) Kinh Bất độnglợi ích
107) Kinh Ganaka Moggalana
108) Kinh Gopaka Moggalana
109) Đại kinh Mãn nguyệt
110) Tiểu kinh Mãn nguyệt
111) Kinh Bất đoạn
112) Kinh Sáu thanh tịnh
113) Kinh Chân nhân
114) Kinh Nên hành trì, không nên hành trì
115) Kinh Đa giới
116) Kinh Thôn tiên
117) Đại kinh Bốn mươi
118) Kinh Nhập tức Xuất tức niệm
119) Kinh Thân hành niệm
120) Kinh Hành sanh
121) Kinh Tiểu không
122) Kinh Đại không
123) Kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp
124) Kinh Bạc-câu-la
125) Kinh Điều ngự địa
126) Kinh Phù-di
127) Kinh A-na-luật
128) Kinh Tùy phiền não
129) Kinh Hiền ngu
130) Kinh Thiên sứ
131) Kinh Nhất dạ hiền giả
132) Kinh A-nan nhất dạ hiền giả
133) Kinh Đại Ca-chiên-diên nhất dạ hiền giả
134) Kinh Lomasakangiya nhất dạ hiền giả
135) Tiểu kinh Nghiệp phân biệt
136) Đại kinh Nghiệp phân biệt
137) Kinh Phân biệt sáu xứ
138) Kinh Tổng thuyết và biệt thuyết
139) Kinh Vô tránh phân biệt
140) Kinh Giới phân biệt
141) Kinh Phân biệt về sự thật
142) Kinh Phân biệt cúng dường
143) Kinh Giáo giới Cấp Cô Độc
144) Kinh Giáo giới Channa
145) Kinh Giáo giới Phú-lâu-na
146) Kinh Giáo giới Nandaka
147) Tiểu kinh giáo giới La-hầu-la
148) Kinh Sáu sáu
149) Đại kinh Sáu xứ
150) Kinh Nói cho dân chúng Nagaravinda
151) Kinh Khất thực thanh tịnh
152) Kinh Căn tu tập
Toát Yếu Kinh Trung Bộ – Thích Nữ Trí Hải 2002 (Trọn bộ)