Tôn kính Đức Phật Dược Sư – Kinh Dược Sư Phạn bản tân dịch

TÔN KÍNHĐỨC PHẬTDƯỢC SƯ
****
KINH  DƯỢC  SƯ  PHẠN  BẢN  TÂN  DỊCH[1]    Bản dịch đầu tiên từ Phạn văn
ẤN BẢN ĐIỆN TỬ: 12-02-2019

Tỷ-khưu  Thích  Phước  Nguyên 

dịch  từ  nguyên  tác  Phạn  ngữ

TÌNH HÌNH VĂN BẢN:
PHẠN:
– Nguyên bản Sanskrit của kinh Dược Sư, nhan đề là: Bhaiṣajyaguruvaidūryaprabharājasūtram, được lưu giữ trong Buddhist Sanskrit Texts No. 17Mahāyāna-sūtra-saṁgrahaḥ (part 1)[1]; bản Sanskrit này cũng được tìm thấy ở trong Gilgit Manuscript do Dutta và Nalinaksa biên tập[2].

– Bản Sanskrit thứ 2 của kinh Dược Sư, nhan đề là Bhaiṣajyagrurvaiḍūryaprabhātathāgata-sūtra, trong bản này pha tạp nhiều thổ ngữ sogdian, thường được gọi là tiếng Xôcđiana, được sử dụng bởi người Iran, và một bận phận người Xôcđiana ở Trung á; bản này do Benveniste biên tập, xuất bản lần đầu năm 1940[3], có tham khảo tư liệu của David A. Utz[4].

TẠNG:
Bản dịch tương đương bằng tiếng Tây Tạng của kinh Dược sư, tựa đề là: འཕགས་པ་བཅོམ་ལྡན་འདས་སྨན་གྱི་བླ་བེེ་ཌཱུརྱའི་འོད་ཀྱི་སྔོན་གྱི་སྨོན་ལམ་གྱི་ཁྱད་པར་རྒྱས་པ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ Ḥphags-pa bcom-ldan-ḥdas sman-gyi bla-bai-ḍūryaḥi ḥod-kyi sṅon-gyi smon-lam-gyi khyad-par rgyas-pa shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdoThánh Bạc-già-phạm Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Sai Biệt Quảng Đại Đại Thừa Kinh (聖薄伽梵藥師毗琉璃光本願差別廣大大乘經), được lưu trữ trong Đại Tạng Kinh Tây Tạng, thông trật đệ 87Da, No.504, trang 274a1-283b7[5]. Được dịch bởi dịch sư Tây Tạng: Ye-śes sde  và  các dịch sư Ấn độ: Jinamitra, Dānasīla, và Śīlendrabodhi. Căn cứ theo đề kinh trong bản dịch Tây Tạng, có thể khôi phục đề kinh Sanskrit như sau: ‘Ārya-bhagavato bhaiṣajyaguruvaiḍūryaprabhasya pūrvapraṇidhānaviśeṣavistāra-nāma-mahāyānasūtra’.
HÁN:

Hán văn của Kinh Dược Sư, hiện còn bảo tồn trong Taishō Tripiṭaka (Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh), hiện có bốn bản dịch:

– Taisho14, số hiệu 449: Phật thuyết Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện kinh 佛說藥師如來本願經, đời Tuỳ, ngài Dharmagupta (Đạt-ma Cấp-đa) dịch năm 615 Tây lịch[6].

Taisho 14, số hiệu 450: Phật thuyết Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức kinh藥師琉璃光如來本願功德經, Đại Đường, Huyền Trang dịch năm 650 Tây lịch[7].

– Taisho 14, số hiệu 451: Dược Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức kinh 藥師琉璃光七佛本願功德經2 quyển, Đại Đường, Nghĩa Tịnh dịch vào năm 707, tại nội tự Phật Quang[8].

Taisho 21, số hiệu 1331: Phật thuyết Quán Đảnh Bạt Trừ Quá Tội Sanh Tử Đắc Độ Kinh quyển đệ thập nhị 佛說灌頂拔除過罪 生死得度經卷第十 二 , Đông Tấn, Thiên Trúc Tam Tạng Bạch-thi-lê-mật-đa-la dịch, tức quyển thứ 12 của Phật thuyết Quán Đảnh kinh 佛說灌頂經.[9]

NGOẠI VĂN KHÁC:
Kinh Dược Sư, cũng được dịch qua tiếng Anh và tiếng Pháp. Có thể thấy các bản dịch tiếng Anh như sau:

– Liebenthal, Walter dịch từ bản Hán của Huyền Trang (T14n0450), tựa đề: The Sutra of the Lord of Healing (Bhaishajyaguru Vaiduryaprabha Tathagata): Kinh Chúa tể chữa lành vết thương[10].

– Sen, S. dịch tựa đề: Two medical texts in Chinese translationsHai văn bản Dược Sư Trong các bản dịch Trung Quốc[11].

– Birnbaum, Raoul, nhan đề: The Lapis Lazuli Radiance Buddha, Master of Healing: A Study in Iconography and MeaningĐức Dược Sư Lưu Ly Quang Phật, Vị Thầy Chữa Bệnh: Một nghiên cứu mô tả bằng tranh vẽ và ý nghĩaLuận án Ph.D. (tiến sĩ) của Columbia University (New York), 1976. Trong luận án đó dịch đầy đủ các bản T14n0450, T14n0451, T20n1161 và Tự phần của T14n0449 sau đó được xuất bản với tựa đề Birnbaum, Raoul:The Healing Buddha, Shambala, 1979. (Luận văn này cũng được dịch sang tiếng Đức: Birnbaum, Raoul: Der heilende Buddha – Heilung und Selbstheilung im Buddhismus. Bern/München/Wien: Otto Wilhelm Barth, 1982.)

– Hsing Yun, tựa đề: The Sutra of the Medicine Buddha with an Introduction, Comments and Prayers, Kinh đức Phật Dược Sưgiới thiệuchú giải và cầu nguyện[12].

– Bản dịch tiếp theo được hiệu đính bởi Shen Shou-Liang, dịch bởi các vị: Chow Su-Chia, v.v.. tựa đề: The Sutra of the Master of Healing.

-Bản dịch được chú ý hơn hết, vì dịch từ nguyên bản Sanskrit, là bản dịch của Dutt, Nalinaksha (ed.), tồn trữ trong Gilgit Manuscripts. Vol. I.[13]

Ngoài ra hiện tìm thấy một bản dịch tiếng Pháp có thể là duy nhất và sớm nhất của Kinh Dược Sư, tựa đề: Le Bhaiṣajyaguru, dịch bởi Pelliot, Paul[14].
________________________________


GHI SAU KHI DỊCH:

Kinh Dược Sư có những điểm độc đáo như sau:
-Đặc điểm 1: Bản nguyệnDược sưxây dựng trên Bồ-tát nguyện và Bồ-tát hành, rất thực tiễn, hoạt dụng thiết thực. Có thể mượn hai câu thơ để diễn tả: “Hiện thân các bụi vào muôn nẻo, chữa bị trầm kha khắp mọi loại” (Ôn Trí Thủ).
Đặc điểm 2: Tịnh độ công thông, dẫu phát nguyện sinh về thế giớiTịnh độ của đức Phật A-di-đà, nhưng được nghe hay niệm danh hiệu của đức Dược Sư thì ngài vẫn dẫn đạo cho về Thế giớiTịnh độ ấy, nên bản nguyệnTịnh độ không có phân biệt cao thấp, đông tây, đồng đẳng không khác.
Đặc điểm 3: Phạn bản được dùng ở đây không có thần chú, cho thấy Phạn bản này có thể được biên tập sớm hơn Phạn bản mà Huyền Tráng đã dùng. Vì vậy muốn đọc hiểu Pháp thoạiDược Sư một cách nghiêm túc, cần phải làm, là đọc đủ bản Phạn, Tạng, Hán dịch: Huyền Tráng và Nghĩa Tịnh. Có thể tham khảo thêm bản của Đạt-ma Cấp-đa.
-Đặc điểm 4: bản dịch này, phân thành 21 tiết mục, trừ tiết mục 1 và 21, còn lại các tiết mục khác, tiêu đề đã nói lên mục đích của Pháp thoại này.
Đọc kinhDược Sư, không phải đọc với một tâm trạng hoài nghi mà có thể tiếp nhận, Dược Sưthể tínhthuần khiết, vô bệnh vô nhiễm.

Duyên khởi của bản dịch này, bắt nguồn từ cảm hứng sau khi cách đây trên 15 năm, sau khi đọc được tác phẩmDƯỢC SƯ KINH SÁM của Trưởng lãoTrí Quang, ân đứcphiên dịch này là nhờ năng lựcsoi sáng của tác phẩm ấy, từ khi đọc xong Dược sư kinh sám, đức tinDược sư trong người dịch như dần được lớn lên theo thời gian. Nên trong bản dịch này, có được lợi ích gì đó toàn là do được nương nhờ vào công hạnh của chư vị Trưởng lão, còn có gì sai sót thảy đều vì sự hạn chế của dịch giả.

Vậy cúi mong các bậc Thánh tríDược Sư, mở rộng lòng thương từ bi mà chỉ giáo cho.

Kính cẩn,
Phước Nguyên
_________________________________________
*CHÁNH KINH:

Kính  lễ  bậc  Nhất  thiết  chủng  trí.  

Kính  lễ  đức  Thế  Tôn  Dược  Sư  Lưu  Ly  Quang  Vương  Như  Lai[2].  

1.  MỞ  ĐẦU  PHÁP  HỘI

Tôi  nghe  như  vậy:  

Một  thời,  Thế  Tôn  đi  đến  xóm  dân  du  mục,  nằm  ngoài  rìa  hướng  đông  của  đại  thành  Vaiśālī  (Tì-xá-ly)[3].  

Bấy  giờ,  đức  Thế  Tôn  ngồi  dưới  cội  cây  Vādyasvara  (Nhạc  Âm),  thuộc  thành  Vaiśālī,  hiện  diện  cùng  với  đại  Bí-sô  Tăng  gồm  tám  ngàn  vị,  ba  mươi  sáu  ngàn  Bồ-tát,  và  quốc  vương, đại  thần,  Bà-la-môn  và  trưởng  giả  nhóm  họp.  

Khi  ấy,  ngài  Mañjuśrīr  –  Pháp  vương  tử  (Văn-thù-sư-lợi/Mạn-thù-thất-lợi)  nương  oai  thần  đức  Phật,  từ  chỗ  ngồi  đứng  dậy,  vắt  thượng y[4]  qua  một  bên  vai,  đầu  gối  chân  phải  sát  đất,  phủ  phục,  chắp  tay  mà  bạch  Phật  rằng:  

“Cúi  xin  đức  Thế  Tôn  tuyên  thuyết  danh  hiệu,  bản  nguyện  tu  hành,  phân  tích  phẩm  tính  ưu  việt  của  chư  vị  Như  Lai  trong  thời  quá  khứ,  khiến  các  hữu  tình  khi  nghe  đến  thì  tịnh  hóa  được  tất  cả  nghiệp chướng,  luôn  luôn  an  trụ  Thánh  Pháp  trong  mọi  thời  điểm,  không  có  tật  bệnh,  viễn  ly  vọng  tưởng”.    

Lúc  bấy  giờ,  Thế  Tôn  tán  thán  Mañjuśrīr đồng  tử  rằng:  

Tốt  lắm!  Tốt  lắm,  Mañjuśrīr! Đại  từ  bi  thay,  Mañjuśrīr! Chỉ  những  ai  an  trú  trong  tam-ma-địa  từ  bi  mới  thỉnh  nguyện  được  như  thế,  giúp  cho  hữu  tình  trừ  khử  vô  số  nghiệp chướng,  chấm  dứt  bệnh  tật,  thọ  hưởng  an  vui  nghĩa  lợi  nhân  thiên.  

Thế  Tôn  tán  thán  như  thế.  Lúc  này,  ngài  Mañjuśrīr kính  vâng Thánh  giáo  của  Phật.    

2.  QUỐC  ĐỘ  &  BẢN  NGUYỆN

Thế  Tôn  dạy:  

Này  Mañjuśrīr!  Từ  chỗ  này,  hướng  về  phương đông, cách  mười  hằng  hà  sa  quốc  độ  Phật,  có  đất  nước  Phật  gọi  là  Lưu  Ly  Quang[5].  Tại  đó,  có  đức  Phật  danh  hiệu  Dược  Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai,  Ứng,  Chánh  đẳng  giác,  Minh  hành  viên  mãn,  Thiện  thệ,  Thế  gian  giải,  Vô  thượng  trượng phu,  Điều  ngự  sĩ,  Thiên  nhân  sư,  Phật  Bạc-già-phạm.    

Này  Mañjuśrīr!  Đức  Phật  Dược  Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai  ấy  trước  đây,  khi  còn  tu  tập  Bồ-tát  hành[6],  có  phát  khởi  mười  hai  đại  nguyện[7].  Những  gì  là  mười  hai?  

Đại  nguyện  thứ  nhất:  khi  ta  hiện  chứng  Vô  thượng  Chánh  đẳng  bồ-đề,  quang  minh  trên  thân  ta  lúc  đó  phổ  khắp  vô  lượng  vô  biên  a-tăng-kỳ  thế  giới,  thành  tựu  ba  mươi  hai  đặc  tính  chính  của  bậc  đại  sĩ,  tám  mươi  đặc  tính  phụ  trang  nghiêm  thân  hình,  tất  cả  hữu  tình  đồng  như  ta  không  khác[8].  

Đại  nguyện  thứ  hai:  khi  ta  hiện  chứng  Vô  thượng Chánh  đẳng  bồ-đề,  thân  thể  ta  trong  suốt  như  ngọc  lưu-ly  vô  giá,  trong  ngoài  đều  tinh  diệu,  quang  minh  thanh  tịnh,  thân  thể  nhu  nhuyến,  lông  tóc  mịn  màng,  sức  lực,  an  vui,  quang  minh  của  ta  sáng  tỏ  hơn  vầng  nhật  nguyệt,  chiếu  soi  phổ  quát  tất  cả  thế  giới  hữu  tình.  Nếu  có  hữu  tình  nào,  sống  trong  chỗ  mờ  tối,  tâm  tính  tạp  loạn,  kiến  giải  đa  thù,  thì  quang  minh  này  đều  phổ  cập.  Những  ai  được  quang  minh  phổ  cập  đều  đắc  chánh  hành  thiện  nghiệp[9].  

Đại  nguyện  thứ  ba: khi  ta  hiện  chứng  Vô  thượng Chánh  đẳng  bồ-đề, hữu  tình  được an  trụ  năng  lực bát-nhã  vô  biên  không  giới  hạn, hữu  tình  trong  tam  giới  thường  trú  an  lạc,  tất  cả hữu  tình  thành  tựu  sự  toàn  hảo[10].  

Đại  nguyện  thứ  tư: khi  ta  hiện  chứng  Vô  thượng Chánh  đẳng  bồ-đề, hữu  tình  đang  đi  theo  tà  đạo,  ta  khai  thị  đường  lối  Thanh  văn,  Độc  giác,  nếu  hữu  tình  nào  muốn  hướng  đến  tối  thượng  Bồ-đề,  thì  ta  sẽ  khai  thị  Đại  thừa[11].  

Đại  nguyện  thứ  năm: khi  ta  hiện  chứng  Vô  thượng Chánh  đẳng  bồ-đề, nếu  có  hữu  tình  nào  tu  tập  phạm  hạnh  thuần  tịnh,  ta  làm  cho  tất  cả  đều  hành  trì  đúng  đắn  chánh giới.  Nếu  có  ai  hủy  phạm  học  giới,  khi  nghe  được danh  hiệu  của  ta  thì  thoát  khỏi  tất  cả  phiền não[12].  

Đại  nguyện  thứ  sáu: khi  ta  hiện  chứng  Vô  thượng Chánh  đẳng  bồ-đề, nếu  có  hữu  tình  thân  hình  thấp  kém,  giác  quan  không  đủ,  xấu  xí  bất  tịnh, ngu  si,  mù  mờ,  câm  ngọng,  lưng  gù,  lác  hủi,  tàn  tật,  mắt  tối,  tai  điếc,  tâm  trí điên  loạn,  thân  thể  khiếm khuyết,  bần  cùng  hạ  tiện,  khi  nghe  được  danh  hiệu  của  ta,  liền  được an  lạc, tái  sanh  thân  thể  đoan  chánh,  hình  hài đầy  đủ[13].  

Đại  nguyện  thứ  bảy: khi  ta  hiện  chứng  Vô  thượng Chánh  đẳng  bồ-đề,  nếu  có  hữu  tình  nào  bị  nhiều  thứ  bệnh  tật  trói  buộc, không  được  cứu  hộ,  không được  trị  liệu,  các  thứ  dược  liệu  trong  thế  gian  đều  không  chữa  khỏi,  không  gặp lương  y,  nghèo nàn  khổ  sở,  khi  nghe  danh  hiệu  của  ta,  dầu  chỉ  một  lần  lướt  qua  thính  giác,  thì  tất  cả  bệnh  khổ  đều  được tiêu  trừ, thoát  khỏi  tật  bệnh,  chấm  dứt  đau  đớn,  hiểm  nguy,  đều  được  an  trụ  trong  Chánh  đẳng  giác[14].  

Đại  nguyện  thứ  tám: khi  ta  hiện  chứng  Vô  thượng Chánh  đẳng  bồ-đề, nếu  có  người  nữ  nào  phải  chịu  đựng  đủ  thứ  trăm  điều  khổ  sở, khổ  do  thân  hình  người  nữ,  khổ  do  làm  vợ  của  người khác,  khổ  do  hoài  thai  sinh  sản,  muốn  cầu  thoát khỏi,  khi  thọ  trì  danh  hiệu  của  ta,  thì  người  nữ  đó, sau  khi  tái  sanh  không còn  mang  thân  nữ,  đều  được  an  trụ  trong  Chánh  đẳng  giác[15].  

Đại  nguyện  thứ  chín: khi  ta  hiện  chứng  Vô  thượng Chánh  đẳng  bồ-đề, tất  cả  hữu  tình  bị  cuốn  chặt  trong  cảnh  giới  ma,  có  đa  dạng  kiến  chấp  cố  hủ,  hạn  hẹp,  hành  theo  toàn  thể  chủ  trương  của  cảnh  giới  ma,  ta  đều  khai  thị cách  đoạn  trừ, hiển  hiện  toàn  diện, thấu  suốt  Bồ-tát  đạo[16].  

Đại  nguyện  thứ  mười:  khi  ta  hiện  chứng  Vô  thượng Chánh  đẳng  bồ-đề, nếu  có  hữu  tình  nào  gặp  phải  tai hoạ  từ  vua  quan,  khiếp  sợ,  bị  gông  cùm,  xiềng  xích, tù  ngục,  phải  bị  tử  hình,  bị  tra  tấn,  hành  hạ  thân  thể,  không được  coi  trọng,  thân  thể  sắp  bị  tra  hình,  phát  ngôn,  tâm  tưởng  bị  các  thứ  khổ  não  bức bách,  khi  nghe  danh  hiệu  của  ta  thì  liền  được  tôn  trọng,  tất  cả  khiếp  đãm  tạm  thời  được  đình  diệt,  giải  thoát[17].  

Đại  nguyện  mười  một:  khi  ta  hiện  chứng  Vô  thượng Chánh  đẳng  bồ-đề, nếu  có  hữu  tình  nào  bị  đói  khát, bị  đói  khát  thiêu  đốt,  vì  tìm  cầu  thực  phẩm mà  phải  tạo  tác rất  nhiều  ác  nghiệp,  không biết  tu tập  bố thí;  nhưng khi  thọ  trì  danh  hiệu  của  ta,  thì  sẽ  được  người chu  cấp các  thứ  thực  phẩm  thơm  ngon, thân  thể  phục  hồi,  không  còn  đói  khổ[18].  

Đại  nguyện  mười hai:  khi ta  hiện  chứng  Vô  thượng  Chánh  đẳng  bồ-đề, nếu  có  hữu  tình  nào  thiếu  thốn  y  phục,  nghèo khổ,  đói  khát  xin  ăn,  thân  chịu  nóng  lạnh,  bị  muỗi  mòng, côn  trùng  cắn  đốt,  ngày  đêm  ưu  khổ trong  tâm  tái  diễn  không ngừng,  nhưng  khi  thọ  trì  danh  hiệu  của  ta,  thì  sẽ  được người  chu  cấp  y  phục  như  ý, màu  sắc  tươi  đẹp, thích  ý  vô  cùng, đủ  loại  chuỗi  hạt, dầu  thơm,  âm  nhạc,  trú  xứ  tốt  đẹp,  tất  cả  hữu  tình  đều  được  thành  tựu đầy  đủ[19].  

Này Mañjuśrīr!  Đây  là  mười  hai  đại  nguyện của  đức  Phật  Dược  Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai,  Ứng,  Chánh  đẳng  giác,  lúc  xưa  khi  còn tu  hành  Bồ-tát đạo  đã  phát  thệ.

3.  TRANG  NGHIÊM  TỊNH  ĐỘ

Lại nữa,  Mañjuśrīr! Đức  Phật  Dược Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai  đã  phát  thệ  trang  nghiêm  đất  nước  Phật, phát  thệ  ấy  dù  trong  một  kiếp  hoặc  dưới  một  kiếp  cũng  không  thể  diễn  nói  cùng  tận.  Đất  nước  Phật  ấy  tinh  khiết  thuần  tịnh, không  có  gò  bãi,  đất  đá sỏi  cát,  không phân  đêm  ngày, không  có  tiếng khổ,  không  có  phụ  mẫu,  không  có nam  nữ  giao  hội, đất  bằng  lưu  ly, tường  vách,  lầu  các,  đường  lối,  cửa  sổ,  màn  lưới,  lan  can  đều  do  bảy  báu  tác  thành,  đồng  như  thế  giới  Cực  Lạc  trang  nghiêm  ở  phương  Tây  vậy[20].  

4.  THƯỢNG THỦ  BỒ-TÁT

Thế giới  Lưu  Ly  Quang  Chiếu đó  có  vô  lượng  vô  biên  A-tăng-kì  Bồ-tát Đại  sĩ.  Trong  đó, có  hai  Bồ-tát Đại  sĩ thượng  thủ,  vị  thứ  nhất  danh  hiệu  Nhật  Quang  Biến  Chiếu[21],  vị  thứ  hai  danh  hiệu  Nguyệt Quang  Biến  Chiếu[22],  duy  trì kho  tàng  Chánh  pháp[23]  của  đức  Phật  Dược  Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai.

5.  NGUYỆN SINH  TỊNH  ĐỘ

Này Mañjuśrīr!  Các thiện  gia  nam  tử,  thiện  gia  nữ  nhân  nên  chí  thành phát  nguyện  sanh  về  quốc  độ  Phật  Dược  Sư ấy.  

6.  CHUYỂN HOÁ  ÁC  NGHIỆP

Khi  ấy,  đức  Thế  Tôn  bảo  Mañjuśrīr đồng  tử  rằng: 

Này Mañjuśrīr!  Phàm  phu  hữu tình  không  có  đạo  sư,  không biết  đâu  là  nghiệp  thiện, đâu  là  nghiệp  bất  thiện,  bị  hoài  nghi  tác  hại,  không biết  bố  thí  và  kết  quả lớn  lao  của  bố  thí,  si  ám  vô  trí,  khuyến  khuyết  tín  tâm,  tích  luỹ tài  sản,  nhưng không  muốn  thí  xả.  Các  hữu  tình  này, vì  không  có  tín  tâm,  thấy  ai  đến  xin,  thì  tâm  tư  tiếc  khổ, như  lóc  thịt  trên  thân  mà  cho.  

Lại có  vô  lượng hữu  tình  bản  tính  tham  lẫn,  chính mình  không  dám  thọ  dụng  tài  vật,  cũng  chẳng cho  tặng  cha  mẹ,  vợ  con,  kẻ  dưới,  nên  gieo  trồng  nghiệp  nhân  quỷ giới,  thường  phải  xin  ăn.  Những hữu  tình  này,  sau  khi  thân  hoại  mạng  chung phải  sinh  vào  quỷ  giới,  hoặc  phải  đoạ  vào bàng  sinh.  

Nhưng  nếu  trong  quá  khứ,  lúc  còn  thân  người,  những  vị ấy  đã  từng  nghe  qua  danh  hiệu  của  đức  Phật  Dược Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai,  mà  bấy giờ  chỉ  tạm  thời  nhớ  lại  danh  hiệu  của  đức  Như  Lai  ấy,  thì  dẫu  đang  sống  trong  quỷ  giới  hoặc  trong  bàng  sinh,  cũng liền  mạng  chung  tại  trú  xứ  ấy  rồi  tái sinh  lại  trong  nhân  loại, hồi  tưởng  được  đời  trước,  sợ  hãi  ác  đạo,  không  nghiện  đắm  các  dục, thực  hành bố  thí,  tán  dương  những  vị  hành  bố  thí.  Toàn  bộ  những gì  bản  thân  đang  sở  hữu  đều  đem  bố  thí  hết  thảy,  thậm  chí  đầu  mắt,  tay  chân,  xương thịt,  máu  tủy,  nếu  có  ai  đến  xin, cũng  đều  thí  xả.  Bất  cứ gì  liên  hệ  đến  năm  uẩn  cũng  đều  huệ  thí.

7.  TRƯỞNG DƯỠNG  PHẨM  CHẤT

Lại nữa  Mañjuśrīr!  Có  những  hữu  tình  nào,  tôn  kính  Như  Lai,  thọ  trì  các  học  xứ,  nhưng lại  phá  giới  pháp,  phá  chánh  kiến, phá  phạm  hạnh, hoặc  hủy  phạm  học giới;  hoặc  tuy  trì  giới, thủ  hộ  giới  cấm, nhưng  không  tinh  cầu  đa  văn,  không  biết  nghĩa  lý  Như  Lai  thuyết  giảng;  hoặc  tuy  đa  văn,  nhưng tăng  thượng mạn;  hoặc  tật  đố;  hoặc  bài  xích  Chánh  pháp; kết  giao  với  chúng  ma,  đi  theo  tà  đạo.  Những kẻ  si  ám  này,  đồng  với  vô  lượng  hàng  trăm,  hàng  ngàn,  hàng  triệu,  hàng  tỷ  hữu  tình  hành  theo  tà  đạo  sẽ  đọa  vào  Địa  ngục  lớn  nhất.  Các  hữu  tình  đó  trong  lúc  tái  sanh  trôi  lăn vô  định  trong  các  cảnh  giới địa  ngục,  nhưng  hễ  nghe  được  danh  hiệu  của  đức  Phật  Dược  Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai,  thì  dẫu ở  trong  địa  ngục  nhờ  Phật  lực  gia  trì, tuỳ  niệm phẩm  hiệu  của  đức  Như  Lai,  thì  trong  địa  ngục  liền  mạng  chung,  tái  sanh  vào  trong  nhân  loại,  lại  tinh  cần,  chánh kiến,  tinh  chuyên  dũng  mãnh,  tâm  ý  thuần  thiện, xuất  gia  trong  giáo  pháp  đức  Như  Lai,  trở  thành  vị  xuất  gia,  lần  lượt  tu  tập  Bồ-tát  hành. 

8.  ĐẬP  VỠ  TỰ  NGÃ

Lại này  Mañjuśrīr!  Có  những  hữu  tình  thổi  phòng  tự  ngã,  tâm  tư đố  kỵ,  tuyệt  chẳng  khen  người.  Các  hữu  tình  này  tâm  tính  lạm  phát,  khinh  khi  người  khác, nên  bị  đoạ  đầy  trong  ba  định  hướng  tái  sinh  xấu  ác,  trong  vô lượng  nghìn  năm  chịu  các  thống  khổ. Trải  qua  vô  lượng  nghìn  năm  rồi,  tại  trú  xứ  đó  thân  hoại  mạng  chung,  tái  sanh  vào  bàng  sinh, làm  thân  trâu,  ngựa, lạc  đà,  lừa,  bị  roi  gậy  đánh  đập,  hành  hạ trói  buộc,  đói  khát  khổ  não,  thân  thường  chở  nặng, truy  lùng  săn  bắn.  Nếu  có  ai  sanh  trong  nhân  loại,  thì  sống  trong  tầng  lớp  thấp  hèn,  làm  thân  nô  bọc,  thay  người  làm  nặng.  

Nếu trong  quá  khứ,  lúc  còn  thân  người,  nghe  được  danh  hiệu  của  đức  Phật  Dược  Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai,  nhờ  thiện  căn  này  mà  được giải  thoát  toàn  bộ  thống  khổ,  giác  quan  bén  nhạy,  trí  tuệ  thông suốt,  tri  thức  quảng  bác,  tầm  cầu  thiện căn,  thường  gặp  thiện  hữu,  thoát khỏi  lưới  ma,  đập  tan  vỏ vô  minh,  tát  cạn sông  phiền  não,  giải  thoát tất  cả  sanh  già  bệnh  chết,  sầu  – thán  –  ưu  –  bi  –  khổ  –  não. 

9.  VUN  ĐẮP  HOÀ  BÌNH

Này Mañjuśrīr!  Lại  có  hữu  tình  ưa  thích  thi  hành  ác  tính,  thích tạo  xung  động,  tranh  chấp,  căng  thẳng  bất hòa  giữa  các  hữu  tình.  Các  hữu  tình  có  tâm  đối  kháng  lẫn  nhau  này,  tạo  tác  vô  số  nghiệp bất  thiện  từ  thân  ngữ  ý,  mong  cầu  các  điều  bất  lợi xảy  đến  cho  người,  làm  những  điều  không  có  nghĩa  lợi  cho  nhau, yêu  thích  chiến  tranh; hoặc  triệu  thỉnh  thần  rừng,  thần  cây,  thần  núi,  thần  chết  và  rất  nhiều  vị  thần  khác nhau,  sát  hại  sinh  vật,  dùng  máu  thịt  cúng  tế  cho  Dạ-xoa,  cho  quỷ  La-sát  thọ  hưởng;  hoặc  thư  ếm  danh  tính  kẻ  thù,  hoặc  trù  rủa  thân  họ,  hoặc  dùng  đủ  thứ  độc  hại,  các  loại  bùa  thuật,  thần  chú,  ma  quỷ,  các  vật  hại  người,  chú  quỷ  khởi  thi,  để  đoạt  mạng  sống  hoặc  tổn  hại  người  khác. Nếu  ai  bị  mắc  phải  các  loại  tà  độc  như  vậy  mà  nghe  được danh  hiệu  của  đức  Phật  Dược  Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai,  thì  các  điều  ác  như  thế  chẳng thể  làm  thương tổn  họ, còn  phát khởi  tâm  từ,  tâm  nghĩa  lợi,  tâm  không  thù  oán,  hoan  hỷ như  bạn  tốt, gia  đình,  thân  hữu.  

10.  TỊNH  ĐỘ  CỘNG  THÔNG

Lại này  Mañjuśrīr!  Bốn  chúng  Bí-sô,  Bí-sô-ni, Cận  sự  nam,  Cận  sự nữ,  cùng  các  thiện  gia  nam  tử,  thiện gia  nữ nhân  thọ trì  Tám  trai  giới, hoặc  một  năm,  hoặc  ba  tháng,  hoặc  thọ  trì  các  học  giới,  mà  được  tùy  ý  tự  tại,  tùy  ý  mong  cầu;  do  thiện  căn  này,  nếu  phát  nguyện  vãng  sanh  về  thế  giới  Cực  Lạc  của  đức  A-di-đà  Như  Lai,  nếu  nghe  được  danh  hiệu  của  đức  Dược  Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai,  lúc  mạng  chung  sẽ  có  tám  vị  Bồ-tát[24]  từ  hư  không xuất  hiện  tiếp  dẫn  sanh  vào  hoa  sen  đa  dạng  màu  sắc.  

11.  PHƯỚC  BÁU  AN  VUI

Nếu có  người  sinh  trên  thiên giới,  thì  được sanh  thiên,  các  thiện  căn  quá  khứ  không có  giới  hạn,  chẳng còn  tái  sanh  trong  ác  thú  nữ.  Khi  mạng  căn  thiên  giới  đã  tận, được  tái  sanh  vào  trong  nhân  loại,  làm  Chuyển  luân  vương,  tự  tại  an  lập  bốn  châu  thiên hạ;  hoặc  có  vô  lượng  hàng  trăm,  hàng  ngàn,  hàng  triệu,  hàng  tỷ  hữu  tình,  an  trụ  trong  mười thiện  nghiệp,  hoặc  sanh  trong  chủng  tính  Sát-đế-lợi,  chủng  tính  Bà-la-môn,  nhà  đại  phú  quý,  tài  vật,  vàng  bạc,  lúa  gạo,  vải  vóc,  ngân  khố  tràn  đậy,  dung  nhan  tươi  đẹp,  thư  thái,  quyến thuộc  đông  đảo,  sự  nghiệp  thành  tựu.  

12.  VĨNH  LY  THÂN  NỮ

Nếu có  người  nữ  nghe  được danh  hiệu  của  đức  Dược Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai,  tôn  kính  thọ  trì,  thì  người  nữ  ấy, đời  sau  vĩnh  thoát  thân  nữ[25].  

13.  ĐỨC  VĂN-THÙ  KHUYẾN  PHÁT

Lúc bấy  giờ,  Mañjuśrīr đồng  tử  bạch  đức  Phật  rằng:  

Bạch đức  Thế  Tôn!  Con  sẽ  tùy  thuận  trú xứ,  tuỳ  thuận  thời  gian, bất  cứ  thiện  gia  nam  tử,  thiện  gia  nữ  nhân  nào  có  tín  tâm  thanh  tịnh, làm  cho  họ  được  nghe  danh  hiệu  của  đức  Phật  Dược Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai;  thậm  chí  trong  lúc  họ  ngủ,  con  cũng  dùng  danh  hiệu  đức  Phật  ấy  cho  lọt  vào  thính  giác  của  họ.  

Hoặc có  người  thọ  trì,  độc  tụng, luận  giải, thực  hành, hoặc  thuyết  giảng  chi  tiết  cho  người  khác, tự  mình  biên  chép  hoặc  nhờ  người biên  chép,  in  ấn bản  kinh  hoặc  cung  kính  hiến  cúng  bằng  vô  số  hoa  thơm, các  loại  hương  báu,  tràng  hoa,  hương  xoa,  tràng  phan,  bảo  cái,  dùng  chỉ  ngũ  sắc  quấn  quanh,  rưới  nước  làm  sạch  chỗ  phụng  hiến.  Khi  vị  ấy  hiến  cúng  bản  kinh  như  thế,  có  bốn  đại  vương  chúng  thiên cùng  các  tuỳ  tùng  và  vô  lượng vô  biên  hàng  trăm,  hàng  ngàn,  hàng  triệu,  hàng  tỷ  chư  thiên đi  đến  chỗ  đó.  Nếu  có  chỗ  nào  lưu  truyền  bản  kinh  này,  hoặc  có  ai  độc  tụng  bản  kinh  tôn  quý  này  của  đức  Thế  Tôn,  thệ  thọ các  đại  nguyện,  tu  hành  quảng  bác,  diễn  giảng  đạo  ưu  việt  và  danh  hiệu  của  đức  Dược Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai,  thì  không  bị  chết  yểu,  tuyệt  đối  không  bị  các  loại  quỷ giam  giữ  hay  chiếm  đoạt  tinh  khí,  hoặc  đã  bị  đoạt  mất  cũng  đều  được  hoàn  lại  như  cũ.  

14.  HIỆU  LỰC  PHÁP  BẢN  DƯỢC  SƯ

i.  Thoả  mãn  ước  nguyện

Đức  Phật  day:

Thật  như vậy,  thật  như  vậy,  này  Mañjuśrīr!  Thật  như  ông  nói,  Mañjuśrīr! Thiện  gia  nam  tử,  thiện gia  nữ nhơn  có tín  tâm thanh  tịnh,  muốn  cung  kính  hiến  cúng  đức  Như  Lai  ấy,  người này  phải  tôn  tạo  hình  tượng  của  đức  Như  Lai,  suốt  thời  gian  bảy ngày  đêm  ăn  uống  thanh  tịnh,  thọ  trì  tám  trai  giới, dùng  các  thứ  hương  thơm, đa  dạng  vải  lụa, thiết  trí  nhiều  loại tràng  phan  để  trang  nghiêm trú  xứ  ấy,  tắm  rửa  sạch  sẽ,  mặc  y  phục  tinh  tươm,  giữ  tâm  tịnh,  không có  vẩn  đục,  tâm  không  sân  nhuế,  não  hại  người khác,  đối  với  tất  cả  hữu  tình  thường  khởi  tâm  từ  bi,  tâm  nghĩa  lợi, tâm  hỷ  xả,  bình  đẳng  với  các  hữu  tình,  dùng  nhiều  loại  âm  nhạc  hiến  cúng đức  Như  Lai,  nhiễu  quanh  hình  tượng  đức Như  Lai,  ghi  nhớ bản  nguyện  lâu  xưa  của đức  Như  Lai  ấy,  chuyên  cần giải  nghĩa  bản  kinh  này,  thì  điều  người  ấy  suy  niệm, mong  cầu, tất  cả  ý  nguyện đều  được  viên  mãn,  cầu  trường  thọ  được  trường  thọ, cầu  phước  báu  thì  được  phước báu,  cầu  tự  tại  thì  được  tự  tại,  cầu  con  trai  thì  sanh  con  trai,  cầu  con  gái  thì  sanh  con  gái.  

ii.  Vượt  thoát  tai  nạn

Hoặc lại  có  người  trong  giấc  chiêm  bao  bỗng  nhiên  thấy  các  ác  cảnh, hoặc  thấy  các  loài  chim  quái  dị  đậu  quanh,  chỗ  ở  có  trăm  loại  quỷ quái  xuất  hiện, người  ấy  nếu  có  thể  đem  nhiều loại  vật  dụng  hiến  cúng  đức  Phật  Dược Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai,  thì  tất  cả  ác  mộng, ác  cảnh,  điều  không  cát  tường  thảy  đều  biến  mất.  

Hoặc nếu  sợ  hãi  nạn nước,  sợ  nạn  lửa  đốt,  sợ  nạn  gươm  đao,  sợ  nạn  độc  dược,  sợ  hãi  độ  cao,  sợ  di  chuyển  trên  con  đường núi  hiểm  trở,  sợ  hãi  các  loài  voi  dữ,  sư  tử,  hổ  sói,  gấu  dữ,  rắn  độc,  bò  cạp,  trùng  rết,  sâu  độc,  nếu  nghĩ  đến  phụng  hiến  đức  Như  Lai  ấy,  thì  tất  cả  sợ  hãi  kia  đều  được thoát  ly. 

Hoặc nếu  sợ  bị  nạn  giặc  ngoại  quốc  xâm  lăng,  đạo  tặc  phản  loạn  tung  hoành,  thì  cần  cung  kính  hiến  cúng  đức Như  Lai  ấy.  

iii.  Không  đoạ  ác  thú

Lại nữa  Mañjuśrīr!  Có  thiện  gia  nam  tử,  thiện gia  nữ nhơn  có đức  tin  thuần  tịnh, trọn  đời  tiếp  thọ Tam  quy,  tuyệt  không  quy  y  bất  kỳ  chư  thiên  nào  khác; hoặc  thọ  trì  năm  học  giới  tại  gia,  hoặc  thọ  trì  một  trăm  lẻ  bốn  học  giới  của  Bồ-tát;  hoặc  xuất  gia  thọ  Bí-sô,  hai  trăm  năm  mươi  giới;  hoặc  thọ  trì  năm  trăm  giới  của  Bí-sô  ni[26],  mà  trong  lúc  thọ  trì  học  giới  lại  phạm  giới, hủy  phá  giới  cấm,  sợ  đọa  vào  ác  thú,  nếu  ai  có  thể  thọ  trì  danh  hiệu  của  đức  Phật  Dược  Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai,  thì  quyết  định  sẽ  không bị  quả  báo  trong  ba  ác thú.  

iv.  Sinh  nở  vuông  tròn

Hoặc  có  người nữ,  trong lúc  sắp  sinh  sản,  phải  chịu  thống  khổ,  đau  đớn  muôn  phần,  mà  nếu  có  thể  xưng  niệm  danh  hiệu, hiến  cúng đức  Phật  Dược Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai,  thì  lập  tức  được giải  thoát,  nội  tâm  an  ổn,  hài  nhi  hình  hài đầy  đủ,  sắc  diện  đoan  chánh,  mọi  người  thích  nhìn,  giác  quan  nhạy  bén,  thông  huệ  đĩnh  đạc, an  vui  ít  bệnh,  không  bị phi  nhân  chiếm  đoạt  tinh  chất.

15.  KHAI  THỊ  TÔN  GIẢ  A-NAN

Khi  ấy,  đức  Thế  Tôn  bảo  Cụ  thọ  A-nan-đà:  

Này A-nan-đà!  Hôm  nay,  Như  Lai  ca  ngợi  phẩm  tính  siêu  việt  của  đức  Phật  Dược  Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai,  Ứng,  Chánh  đẳng  giác. Ông  có  tin  tưởng  chăng? Khi  ông  nghe  giáo  huấn  thâm  diệu  của  chư  Phật  có  khởi  do  dự  hoài  nghi,  sinh  quan  niệm  trái  nghịch chăng?  

Bấy  giờ,  Cụ  thọ  A-nan-đà  bạch  đức  Phật  rằng: 

Bạch đức  Thế  Tôn!  Đối  với  khế  kinh  mà  đức  Như  Lai  tuyên  thuyết,  tâm  con  không có  hoài  nghi,  không có  quan  niệm  trái  nghịch.  Tại  sao vậy?  Bởi  vì  tất cả  thân  ngữ  ý  của  đức  Như  Lai  hoàn  toàn  thanh  tịnh.  Bạch  Thế  Tôn!  Mặt  trời, mặt  trăng  kia  có  đại  thần  lực,  có  đại  uy thế  như  vậy,  mà  vẫn  có  thể  ném  chúng bay  qua  phương khác;  hay  như  núi  chúa  Tu-di bất  động  kiên  cố mà  vẫn  có  thể  làm  cho  nó  lay  chuyển; phát  biểu, tư  duy của  chư  Phật  không  có  khuyết  điểm,  tịch  nhiên  bất  động.  Nếu  có  hữu  tình  nào,  tín  tâm  không  đủ,  nghe  nói  đến  cảnh  giới  của  chư  Phật, tự  nghĩ  thế  này:  “Do  đâu chỉ  trì  niệm  danh  hiệu  Như  Lai  mà  được  công  đức  như  thế?”  Tâm  họ  hoài  nghi,  sanh  lòng  huỷ  báng.  Kẻ  ấy  trong  đêm  trường  sinh  tử, sống  đời  vô  ích, không  có  nghĩa  lợi, sẽ  đoạ  lạc  ác  thú,  không  được  an  ổn.  

Đức Phật  dạy:  

Này A-nan-đà!  Giả  sử  có  hữu  tình  nào nghe  được  danh  hiệu  của  đức  Như  Lai  ấy,  mà  vị  ấy phải  bị  đọa  vào  ác  thú,  thì  không  có  trường  hợp  này  xảy  ra.  

Này A-nan-đà!  Cảnh  giới  của  chư  Phật  Thế  Tôn, cực  kỳ khó  tin.  Nhưng  hôm nay,  A-nan-đà  sinh  tâm  tịnh  tín,  thì  phải  biết  rằng,  đó  đều  nhờ  oai  lực  của  Như  Lai.  Đây  chẳng phải  cảnh  vực  của  tất  cả  Thanh  văn  và  Độc  giác  có  thể  tín  thọ,  ngoại  trừ  Bồ-tát Đại  sĩ  nhất  sinh  sở  hệ. 

Này A-nan-đà!  Thành  tựu thân  người  là  hiếm  có,  phát  khởi  tịnh  tín tôn  kín  Tam  Bảo  lại  hiếm  có  hơn,  mà  nghe  được danh  hiệu  của  đức  Như  Lai  ấy  lại  cực  kì hiếm  có.  

Này A-nan-đà!  Đức  Phật  Dược Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai  đó  thành  tựu  vô  lượng  Bồ-tát  hành,  vô  lượng  phương  tiện  quyền  xảo,  vô  lượng  thệ  nguyện  quảng  đại.  Nếu  ta  muốn  thuyết  minh  Bồ-tát hành  và phân  biệt  đạo  ưu  việt  của đức  Như  Lai  ấy  trong  một  kiếp  hoặc  hơn  một  kiếp,  này  A-nan-đà,  thậm  chí  cùng  tận  các  kiếp, cũng  không  thể  nào phân  biệt được  các  thệ  nguyện  ưu  việt  và  hoạt  dụng  của  đức  Phật  Dược  Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai.  

16.  BỒ-TÁT CỨU  THOÁT  TRÌNH  BÀY

Lúc  bấy  giờ,  ở  trong  hội  chúng  có  một  Bồ-tát  Đại sĩ  danh  hiệu  là  Trāṇamukta  (Cứu  Thoát),  đứng  dậy  khỏi  chỗ  ngồi, vắt  thượng  y  qua  một  bên  vai,  đầu  gối  chân  phải  sát  đất,  chắp  tay  hướng về  đức  Thế  Tôn,  cung  kính  bạch  đức  Phật  rằng:  

Bạch đức  Thế  Tôn!  Trong đời  vị  lai,  có  hữu  tình  nào  thân  thể chịu  nhiều  bệnh  tật,  gầy  mòn yếu  ớt,  ưu  tư kéo  dài,  không  thể ăn  uống,  cơn  khát  cháy  bỏng,  các  dấu hiệu  suy  hao  trước  tử  vong  xuất hiện,  thị  giác  mù  tối;  cha mẹ,  bà  con,  bạn  bè  thân  gần  than  khóc  xung  quanh, hình  thể người  này  vẫn  an  trí  ở  đó,  mà  thần  thức  đã  bị  dẫn  độ  đến  quốc  độ  Diêm-ma[27].  Khi  hội  kiến  Diêm-ma pháp  vương,  hữu  tình  này  phải  quỳ  xuống, căn  cứ  lúc  còn thân  người  đã  làm  các  điều  thiện  hay  điều  ác, hay  điều  tội  lỗi,  thì  đều  phải  khai  nhận  tất  cả  các  điều  ấy  với  Diêm-ma Pháp  vương.  Bấy  giờ,  người  đó phải  đối  chất  với  Diêm-ma Pháp  vương,  kiểm  tính  tội  lỗi,  kê  khai  các điều  tội, điều  ác, rồi  từ  đó  mà  phân  định  xử  lý. Nếu  khi  ấy,  thân  thuộc có  thể  thay  thế  người bệnh  ấy,  phát  tâm quy  y  với  đức  Phật  Dược  Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai,  như  pháp  mà  cúng  kính  hiến  cúng  đức  Như  Lai  đó,  thì  bệnh  nhân  kia liền  được  phục  hồi.  Bệnh  nhân  này  lúc  thần  thức  quay  trở  về, tợ  như  giấc  chiêm  bao, đều  ghi  nhớ  đầy  đủ,  hoặc  trải  qua  bảy  ngày,  hoặc  hai  mươi  mốt  ngày, hoặc  ba  mươi lăm  ngày  hoặc  bốn  mươi chín  ngày,  khi  thần  thức  trở  lại  rồi,  đều  ghi  nhớ  đủ  cả,  các  quả  báo  của  nghiệp thiện,  nghiệp  ác,  do  trực  tiếp  chứng  kiến,  nên  dù  huỷ  mất mạng  sống,  cũng  tuyệt  không  dám  tạo  tác  ác  nghiệp nữa.  Vì  lý  do  đó,  các  thiện  gia  nam tử,  thiện  gia  nữ  nhơn có  tâm  tịnh  tín  cần  cung  kính  hiến  cúng  đức  Phật  Dược Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai  ấy.  

17.  PHƯƠNG THỨC  

HIẾN  CÚNG  ĐỨC  PHẬT  DƯỢC  SƯ

Vào  lúc  ấy,  Cụ  thọ A-nan-đa  hỏi  Bồ-tát Trāṇamukta  rằng: 

Hỡi  Thiện  gia  nam  tử! Cần  phải cung  kính  hiến  cúng đức  Phật  Dược Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai  như  thế  nào?  

Bồ-tát  Trāṇamukta  đáp:  

Bạch đại  đức  A-nan-đà!  Nếu  có  người  gặp  phải  tai nạn,  muốn  thoát  bệnh  nặng,  thân  quyến  phải đại  diện người  này  trong  bảy  ngày  thọ  trì  Tám  trai  giới; dùng  thực  phẩm,  đa  dạng  vật  dụng,  tùy  khả  năng  và điều  kiện,  hiến  cúng  Bí-sô  Tăng;  ngày  ba  thời, đêm  ba  thời, trì  niệm  danh  hiệu,  tôn  kính  hiến  cúng  đức  Phật  Dược Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai;  xưng  tụng  bản  kinh  này đủ  bốn  mươi chín  biến,  thắp  bốn  mươi  chín  ngọn  đèn  đặt  trước bảy  tôn  tượng  đức  Như  Lai,  trước  mỗi  tôn  tượng đặt  bảy  ngọn  đèn,  thiết  trí  chu  vi  của  bảy  ngọn  đèn  theo  kích  thước  như  bánh  xe,  và  duy  trì  đèn  sáng  trọn  trong  bốn  mươi  chín  ngày, không  để  tắt  mất;  tạo  dựng  một  tràng  phan  năm  màu, dài  bốn  mươi  chín  gang  tay. 

Lại  nữa,  bạch  đại  đức  A-nan-đa! Nếu  giai  cấp  Sát  đế  lợi,  các  vị  vua  đã  làm  lễ  quán  đảnh,  phải  chịu  gặp  tai  ách,  như  là  nạn  quốc  dân  bị  dịch  bệnh,  nạn  giặc  ngoại  quốc  xâm  lăng,  nạn  nội  quốc  phản  nghịch,  nạn  tinh  tú  kì  dị,  nạn  nhật  thực,  nguyệt  thực, nạn  mưa  bão  trái  mùa,  nạn  hạn  hán, mất  mùa,  nạn  đói  các  thứ;  thì  giai  cấp  Sát  đế  lợi,  các  vị  vua  đã  làm  lễ  quán  đảnh,  lúc  này  phải  phát  khởi  tâm  từ  bi  nhớ  nghĩ  hết  thảy  hữu  tình,  đặc  xá tù  nhân,  phóng  thích  các  hữu  tình  đang  bị  giam  cầm,  đúng  như pháp  phụng  hiến  đã nói  mà  hiến  cúng  đức Phật  Dược  Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai. 

Bấy  giờ,  giai  cấp  Sát  đế  lợi,  các  vị  vua  đã  làm  lễ  quán  đảnh  đó, bằng  chính  thiện căn  ấy,  nương  nhờ bản  nguyện  ưu  việt  thuở xưa  của  đức  Phật  Dược Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai,  mà  khiến  cho  đất  nước tức  khắc  an  ổn, mưa  thuận  gió  mùa, mùa  màng  thịnh  vượng, đất  đai  tươi  tốt, tất  cả  hữu  tình  cư  trú  trong  đất  nước đó  không  bị  bệnh  tật,  hỷ lạc  an  ổn,  tâm  tư  phấn  khởi.  Các quỷ  Dạ-xoa,  La-sát, quỷ Tất-xá-già[28]  cùng  các  quỷ  thần  chẳng  thể  quấy  nhiễu  được họ;  tất  cả  ác  cảnh  tuyệt  không  còn  hiển  hiện. Giai  cấp  Sát  đế  lợi,  các  vị  vua  đã  làm  lễ  quán  đảnh  đó,  được  thọ  mạng  dài  lâu,  khí  lực sung  mãn,  không bị  bệnh  tật,  tự  tại  vô  nhiễm, đạt  được  mục  đích  nghĩa  lợi. 

18.  CHÍN  LOẠI  HOẠNH  TỬ

Khi  ấy,  Cụ  thọ  A-nan-đà  hỏi  Bồ-tát Trāṇamukta  rằng: 

Hỡi  Thiện  gia  nam  tử! Tại  sao  mạng  sống  đã  sắp hết mà  có  thể  làm  cho  tăng  lên?  

Bồ-tát  Trāṇamukta  đáp:  

Bạch đại  đức  A-nan-đà!  Ngài  không  nghe  đức  Như  Lai  nói  có  chín  loại  chết  ngang  trái  sao?  

(i)  Cách  cho  thuốc  men. Loại  chết  ngang  trái thứ  nhất:  nếu  có  hữu  tình  nào,  không  bị  bệnh  nặng, nhưng  không  có  thuốc và  không  gặp  đúng  lương  y  trị bệnh,  hoặc  thầy  thuốc  chẩn  trị nhầm  sai,  nên  chưa  đáng  chết  mà  phải  chết  một  cách  ngang  trái.

(ii)  Loại  chết  ngang  trái  thứ  hai: Bị  pháp  luật  nhà vua  xử  trị,  tử  hình.  

(iii)  Loại  chết  ngang  trái  thứ  ba:  vui  chơi  thác  loạn,  phóng  túng  buông  tuồng,  tà  hành  bất  chính,  nghiện  đắm các  loại  rượu, bị  phi  nhân  hút  đoạt  tinh  chất.  

(iv)  Loại  chết  ngang  trái  thứ  tư:  bị  lửa  dữ đốt  cháy.  

(v)  Loại  chết  ngang  trái  thứ  năm:  bị  nước lớn  cuốn trôi.  

(vi)  Loại  chết  ngang  trái  thứ  sáu:  bị  các  loài  thú  dữ  như  sư  tử,  hổ  gấu,  trùng  độc  các  thứ  hại  chết.  

(vii)  Loại  chết  ngang  trái  thứ  bảy:  bị  đói  khát  khổ  sở,  ăn  uống  không  đủ, vì  lý  do  này  mà  chết. 

(viii)  Loại  chết  ngang  trái  thứ  tám:  bị  trù  ếm,  độc  dược,  bị  quỷ  khởi  thi  tác  hại. 

(ix)  Loại  chết  ngang  trái  thứ  chín:  bị  tai  hoạ vỡ  đầu,  sa  chân  vực  núi  cao, thân  thể  bị  phương hại,  vì  lý  do  này mà  chết.  

19.  DẠ-XOA ĐẠI  TƯỚNG  HỘ  TRÌ

Đây là  chín  loại  chết  ngang  trái,  do  đức  Như  Lai  đã  tuyên  thuyết,  ngoài ra  còn  có  rất  nhiều  sự  chết  ngang  trái  khác nữa.  

Ngay  lúc này,  trong  đại  hội, có  mười  hai  đại  tướng Dạ-xoa  tập  hội thính  pháp,  đó  là:  

Dạ-xoa  đại  tướng  Cung-tỳ-la,  Dạ-xoa  đại  tướng Phạt-chiết-la,  Dạ-xoa  đại  tướng Mê-xí-la,  Dạ-xoa  đại  tướng An-để-la,  Dạ-xoa  đại  tướng Ngạch-nễ-la,  Dạ-xoa  đại  tướng San-để-la,  Dạ-xoa  đại  tướng Nhân-đạt-la,  Dạ-xoa  đại  tướng Ba-di-la,  Dạ-xoa  đại  tướng Ma-hổ-la,  Dạ-xoa  đại  tướng Chân-đạt-la,  Dạ-xoa  đại  tướng Chiêu-đỗ-la,  Dạ-xoa  đại  tướng Tỳ-yết-la[29].

Mười  hai  vị  đại  tướng  Dạ-xoa ấy,  mỗi  vị  đồng  hành với  rất  nhiều  quyến thuộc  tuỳ  tùng,  đồng thanh  tác  bạch  với  Phật  rằng:

Bạch đức  Thế  Tôn!  Chúng  con  hôm  nay  đều  nương  nhờ  oai  đức  của  chư  Phật  mà  được nghe  về  danh  hiệu  của  đức  Phật  Dược Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai,  nên  không  còn lo  sợ  bị  đọa  lạc  vào  ác  thú  nữa. Hôm  nay  tất  cả  chúng con  thảy  đồng  tâm  phát  nguyện  quy  y  Phật, quy  y  Pháp  và  quy  y  Tăng. Chúng  con  sẽ  vì  hết  thảy  hữu  tình,  khiến  họ  thành  tựu nghĩa  lợi,  không tổn  hại  đến  họ. Bất  cứ  làng  mạc,  thành  thị,  thôn  xóm,  tháp  miếu  thanh  tịnh,  xứ  A-lan-nhã,  bất  cứ  chỗ  thanh  vắng  nào  mà  có  kinh  này  được  truyền  bá, hoặc  tôn  kính  trì  niệm  danh  hiệu  của  đức  Phật  Dược  Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai,  hoặc  chí thành  hiến  cúng  đức  Như  Lai  ấy,  thì  chúng  con  cùng  với  quyến thuộc  sẽ  bảo  hộ  vị  đó, trợ  giúp  họ  vượt  thoát  tai  nạn,  mọi  điều  mong  cầu của  họ  sớm  được  thành  tựu.  

Lúc  này,  đức  Thế  Tôn  khen  ngợi  các  đại  tướng Dạ-xoa  rằng:  

Tốt  lắm!  Tốt  lắm,  các  đại  tướng Dạ-xoa!  Các  vị  đã  nhớ  nghĩ  ân  đức  của  đức  Phật  Dược  Sư  Lưu  Ly  Quang  Như  Lai,  thì  phải  ghi  nhớ  phương  thức  thành  tựu  lợi  ích  cho  tất  cả  hữu  tình.  

20.  LƯU  HÀNH  PHÁP  MÔN

Bấy  giờ,  Cụ  thọ A-nan-đà  bạch  đức  Phật  rằng: 

Bạch  đức  Thế  Tôn!  Pháp  môn  này  mệnh  danh  là  gì?  Cần  thọ gì  như  thế  nào?  

Đức  Phật  dạy:  

Này A-nan-đà!  Pháp  môn  này  mệnh  danh  là: “Dược  sư  Lưu  ly  Quang  Như  Lai  bản  nguyện  công  đức”,  cần  thọ  trì  như  thế,  cũng gọi  là:  “Thuyết  kết  nguyện  của  mười  hai  Đại  tướng  Dạ-xoa”[30],  cần  thọ  trì  như  thế.  

21.  KẾT  THÚC  PHÁP  THOẠI

Lúc  bấy giờ,  khi  đức  Phật  đã tuyên  thuyết  hoàn  tất,  Bồ-tát Mañjuśrīr  đồng  tử,  Cụ  thọ  A-nan-đà,  Bồ-tát  Trāṇamukta,  cùng  chư  vị  Bồ-tát,  các  đại  Thanh  văn  đệ tử,  quốc  vương, đại  thần,  bà-la-môn,  gia  chủ,  cùng  tất  cả  chư  thiên,  nhân  loại,  A-tu-la,  Càn-thác-bà, v.v…  nghe  lời  Phật  dạy  rồi,  hoan  hỷ  phụng hành.

ĐẠI  THỪA  THÁNH  PHÁP
DƯỢC  SƯ  LƯU  LY  QUANG  NHƯ  LAI  BẢN  NGUYỆN  CÔNG  ĐỨC  KINH
Dịch xong, Vô Trụ Xứ Am, ngày mùng 3 tháng Giêng, năm Kỷ Hợi.

Kính dâng đức Bổnsư Thích Mâu Mâu niThế Tôn, là bậc Đạo sư của chúng con, đã tuyên thuyếtpháp thoạiDược Sư.
Kính dâng đức Bổn Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai.
Nguyện kính dâng Thầy Tổ, Ân sư, Sư Trưởng, Giáo thọ sư, Thiện hữu tri thức.
Nguyện hồi hướng công đức đến Phụ mẫu, Thân quyếnhiện tạiquá khứ, người còn người mất đều được lợi lạc.
Nguyện bằng công đức này, sám hốitội lỗisai lầm đã gây tạo trong vô thuỷ đến này, nguyện cắt đứt tương tục của ác duyên, giải trừ oan kết, khổ đau với mọi loài chúng sinh, những vị mà con đã kết tạo phiền muộn, ưu sầu.
Nguyện cầu Chánh pháptrường tồn vời lợi ích nhơn thiên.

Kính cẩn,
Phước Nguyên.


[1] Chánh  kinh:  Bhaiṣajyaguruvaidūryaprabharājasūtram,  Based  on  the  ed.  by  P.L.  Vaidya in:  Mahayana-sutra-samgrahah,  Part  1.  Darbhanga:  The  Mithila Institute  1961  (Buddhist Sanskrit  Texts,  17),  p.  165  –  173.  Jinamitra,  Śīlendrabodhi,  Ye  śes  sde  (9th  century) ‘Phags  pa  bcom  ldan  ‘das  sman  gyi  bla  bai  ḍūrya’i  ‘od  kyi  sṅon  gyi  smon  lam  gyi  khyad  par  rgyas  pa  zhes  bya  ba  theg  pa  chen  po’i  mdo  (D  504),  in  Tg,  vol.  87,  rgyud,  da  274a1-283b7.  Cf.  Schopen,  Gregory (1978),  The  Bhaisajyaguru-Sutra  and  the  Buddhism of  Gilgit,  Doctoral Thesis,  Australian  National Universit.  Tham  khảo:  Dược  Sư  Kinh  Sám,  Trí  Quang  thượng  nhân  dịch.

[2] Oṃ  namaḥ  sarvajñāya –  Namo  bhagavate bhaiṣajyaguruvaidūryaprabharājāya tathāgatāya.  BhG  Kj  D  274a2  –  b4

(2)saṅs  rgyas  daṅ  byaṅ  chub  sems  dpa’  thams  cad  la  phyag  ‘tshal lo  ||  Bản  Đạt-ma-Cấp-đa  (Cđ):  có  phần  tựa.

[3] Ht:  Một  thời, đức  Thế  tôn  du  hóa  các  nước, đến  thành  Quảng nghiêm,  dừng  ở  dưới  cây  Tiếng  nhạc.

[4] uttarāsaṅgaṃ:  uất-đa-la-tăng,  một  trong  ba  y,  chỉ  thượng  y.

[5] Skt.  Vaidūryanir-bhāsā.  Ht:  Phật  dạy  Mạn  thù,  phía  đông, cách  thế  giới  hệ  này  bởi  những thế  giới  hệ  bằng  số  cát  hơn  mười  sông  Hằng,  có  một  thế  giới  hệ  tên  Tịnh  lưu  ly.

[6] Skt.  bodhisattvacārikāṃ  carata: Thực  hành  Bồ-tát hành.  Ht:  行菩薩道Hành  Bồ-tát  đạo.

[7] Skt.  dvādaśa  mahāpraṇidhānāny,  Ht:  十二大願.

[8] Skt.    prathamaṃ tasya  mahāpraṇidhānam  abhūt  yadāham  anāgate ‘dhvany  anuttarāṃ  samyaksaṃbodhim  abhisaṃbudhyeyaṃ  tadā  mama  śarīrābhayāprameyāsaṃkhyeyāparimāṇā  lokadhātavo bhrājeraṃs  tapyeran  viroceran |  yathā  cāhaṃ  dvātriṃśadbhir  mahāpuruṣalakṣaṇaiḥ  samanvāgato ‘śītibhiś  cānuvyañjanair  alaṃkṛtadehaḥ |  tathaiva  sarvasattvā yādṛśā  lakṣaṇānuvyañjanasamalaṃkṛtā  bhaveyuḥ |  idaṃ  prathamaṃ mahāpraṇidhānam  abhūt  ||  BhG  Kj  D  274b4  –  276b3:

de’i smon  lam  chen  (5)  po  daṅ  po  ni  |  gaṅ  gi  tshe  bdag  ma  ‘oṅs  pa’i  dus  na  bla  na  med  pa  yaṅ  dag  par  rdzogs  pa’i  byaṅ  chub  mṅon  par  rdzogs  par  saṅs  rgyas  pa  de’i  tshe  |  bdag gi lus  kyi  ‘od  kyis  ‘jig  rten  gyi  khams  graṅs  med  dpag  tu  med  ciṅ  dpag  gis  mi  laṅ  ba  dag  lham  me  lhan  ne  lhaṅ  ṅer  (6)gyur cig  |  sems  can  thams  cad  skyes  bu  chen  po’i  mtshan sum  cu  rtsa  gñis  daṅ  |  dpe  byad  bzaṅ  po  brgyad cus  legs  par  brgyan  par  gyur  te  |  bdag  ci  ‘dra  ba  de  bźin  du  sems  can  thams  cad  kyaṅ  ‘dra  bar  gyur  cig  ces  btab  bo  ||

[9]    bodhiprāptasya  ca  me  kāyo  bhaved  yathā  vaiḍūryamaṇiratnam  antarbahiḥsupariśuddham  |  nirmalaṃ  prabhāsvaraṃ vipulaṃ  mahāntaṃ  śryā  tejasā  jvalantaṃ supratiṣṭhitaṃ  candrasūryātirekai  raśmijālaiḥ samalaṃkṛtam  |  ye  ca  sattvā lokāntarikāsūpapannāḥ  bhaveyur  ye  ceha  manuṣyaloka andhākāre  timisrāyāṃ  rātrau nānādiśaṃ  gaccheyus  teṣāṃ  yathepsitā  diśo  gacchatāṃ  karmāṇi ca  kurvatām  |  mamābhayā  yatheṣṭā diśā  gaccheran  karmāṇi ca  kurvīran  |  idaṃ  dvitīyaṃ mahāpraṇidhānam  abhūt  ||  

de’i  smon  lam  chen  (7)po  gñis  pa  ni  gaṅ  gi  tshe  bdag  ma  ‘oṅs  pa’i dus na  |  bla  na  med  pa  yaṅ  dag  par  rdzogs  pa’i  byaṅ  chub  mṅon  par  rdzogs  par  saṅs  rgyas  pa  de’i  tshe  bdag  byaṅ  chub  thob  pa  na  |  lus  nor  bu  rin  po  che  bai  ḍū  rya  ci  ‘dra  ba  de  ‘dra  bar  phyi  naṅ  śin  tu  yoṅs  su  dag  pa  daṅ  |  dri  ma  (275a1)med la  ‘hod  gsal  ba  daṅ  |  kho  lag  yaṅs  śiṅ  che  ba  daṅ  |  dpal  daṅ  gzi  brjid  ‘bar  ba  daṅ  |  legs  par  gnas  pa  daṅ  |  ñi  ma  daṅ  zla  ba  bas  lhag  pa’i  ‘od  zer  gyi  dra  ba  rnams  kyis  legs  par  brgyan  par  gyur  cig  |  de  na  sems  can  (2)gaṅ dag  ‘jig  rten  gyi  bar  dag  tu  skyes  pa  dag  daṅ  |  gaṅ  dag  yaṅ  mi’i  ‘jig  rten  ‘di  na  mtshan mo  mun  pa  mun  nag  gi  naṅ  na  phyogs tha  dad  par  ‘gro  ba  de  dag  bdag  gi  ‘od  kyis  phyogs  dga’  mgur  ‘gro  bar  gyur  cig  |  las  rnams  kyaṅ  byed  par  gyur  cig  ces  btab  bo  ||

[10] Skt.  bodhiprāptasya  ca  me  aprameyaprajñopāyabalādhānenāparimāṇāṃ  sattvadhātuṣv akṣayopabhogaparibhogāḥ  syuḥ  |  mā  ca  kasyacid  sattvasya kenacid  vaikalyaṃ  bhavet |  tṛtīyaṃ  tasya  mahāpraṇidhānam  abhūt  ||  Cf.  Tib.

(3)de’i  smon  lam  chen  po  gsum  pa  ni  gaṅ  gi  tshe  bdag  ma  ‘oṅs  pa’i  dus  na  |  bla  na  med  pa  yaṅ  dag  par  rdzogs pa’i  byaṅ  chub  mṅon  par  rdzogs  par  saṅs  rgyas  pa  de’i  tshe  bdag  byaṅ  chub  thob  pa  na  |  bdag  gi  śes  rab  daṅ  thabs  dpag  tu  med  pas  sems  can  gyi  khams  (4)dpag  gis  mi  laṅ  ba  dag  loṅs  spyod  mi  zad  pa  daṅ  ldan  par  gyur  te  |  su  yaṅ  cis  kyaṅ  brel  ba  med  par  gyur  cig  ces  btab  bo  ||

[11] Skt.  bodhiprāpto  ‘haṃ  kumārgapratipannān  sattvāñ chrāvakamārgapratipannān  pratyekabuddhamārgapratipannāṃś  ca  sattvān  sarvān anuttare  mahāyane  niyojyayeyam |  idaṃ  caturthaṃ tasya  mahāpraṇidhānam  abhūt  ||  

Tib.  de’i  smon  lam  chen  po  bźi  pa  ni  gaṅ  gi  tshe  bdag  ma  ‘oṅs  pa’i  dus  na  |  bla  na  med  pa  yaṅ  dag  par  rdzogs  pa’i  byaṅ  chub  mṅon  par  (5)rdzogs  par  saṅs  rgyas  pa  de’i  tshe  bdag  byaṅ  chub  thob  pa  na  |  sems  can  gaṅ  dag  lam  ṅan  par  źugs  pa  de  dag  byaṅ  chub  kyi  lam  la  dgod  par  bya’o  ||  ñan  thos  kyi  lam  du  źugs  pa  daṅ  |  raṅ  saṅs  rgyas  kyi  lam  du  źugs  pa  de  dag  thams  cad  ni  theg  pa  chen  po  la  (6)gzud par  bya’o  źes  btab  bo  ||

[12] Skt.  bodhiprāptasya  ca  me  ye  sattvā  mama  śāsane  brahmacaryaṃ careyus  te  sarve  akhaṇḍaśīlāḥ  syus  trisaṃvarasaṃvṛtāḥ  |  mā  ca  kasyacic  chīlavipannasya  mama  nāmadheyaṃ  śrutvā durgatigamanaṃ  syāt  |  idaṃ  pañcamaṃ tasya  mahāpraṇidhānam  abhūt  ||  

Tib.  de’i  smon  lam  chen  po  lṅa  pa  ni  gaṅ  gi  tshe  bdag  ma  ‘oṅs  pa’i  dus  na  |  bla  na  med  pa  yaṅ  dag  par  rdzogs  pa’i  byaṅ  chub  mṅon  par  rdzogs  par  saṅs  rgyas  pa  de’i  tshe  bdag  byaṅ  chub  thob  pa  na  |  sems  can  gaṅ  dag  bdag  gi  gan  na  (7)tshaṅs  par  spyad  pa  spyod  pa  daṅ  |  de  bźin  du  sems  can  gźan  dpag  tu  med  ciṅ  dpag  gis  mi  laṅ  ba  de  dag  thams  cad  kyaṅ  bdag  gi  miṅ  thos  nas bdag gi  mthus  sdom  pa  gsum  gyis  bsdams pa  daṅ  |  tshul  khrims ñams  pa  med  par  gyur  cig  |  su  yaṅ  (275b1)tshul  khrims log  par  źugs  te  |  ṅan  ‘gror  ‘gro  bar  ma  gyur  cig  ces  btab  bo  ||

[13] Skt.  bodhiprāptasya  ca  me  ye  sattvā  hīnakāyā vikalendriyā  durvarṇā  jaḍaiḍā mūkā  laṅgāḥ  kubjāḥ śvitrāḥ  kuṇḍā  andhā  badhirā  unmattā ye  cānye  śarīravyādhayas  te  mama  nāmadheyaṃ śrutvā  sarva  avikalendriyāḥ  syuḥ  paripūrṇagātrāḥ  |  idaṃ  ṣaṣṭhaṃ mahāpraṇidhānam  abhūt  ||  

Tib.  de’i  smon  lam  chen  po  drug  pa  ni  gaṅ  gi  tshe  bdag  ma  ‘oṅs  pa’i  dus  na  |  bla  na  med  pa  yaṅ  dag  par  rdzogs  pa’i  byaṅ  chub  mṅon  par  rdzogs  par  saṅs  rgyas  pa  de’i  tshe  bdag  (2)byaṅ  chub  thob  pa  na  |  sems  can  gaṅ  su  dag  lus  ṅan  pa  daṅ  |  dbaṅ  po  ma  tshaṅ  ba  daṅ  |  mdog  mi  sdug  pa  daṅ  |  bems  po  daṅ  |  yan  lag  skyon  can  daṅ  |  sgur  po  daṅ  |  śa  bkra  can  daṅ  |  źar  ba  daṅ  |  loṅ  ba  daṅ  |  ‘on  pa  daṅ  |  smyon  par  (3)gyur  pa  daṅ  |  gźan  yaṅ  gaṅ  su  dag  lus  la  nad  kyis  btab  pa  de  dag  gis  bdag  gi  miṅ  thos  nas  thams  cad  dbaṅ  po  tshaṅ  źiṅ  yan  lag  yoṅs  su  rdzogs par  gyur  cig  ces  btab  bo  ||

[14]  Skt.  bodhiprāptasya  ca  me  ye  nānāvyādhiparipīḍitā  atrāṇā aśaraṇā  bhaiṣajyopakaraṇarahitā  anāthā daridrā  duḥkhitāḥ  sacet  teṣāṃ  mama  nāmadheyaṃ  karṇapuṭe nipatet  teṣāṃ  sarvavyādhayaḥ  praśameyur arogāś  ca  nirupadravāś ca  te  syur  yāvad  bodhiparyavasānam  |  idaṃ  saptamaṃ mahāpraṇidhānam  abhūt  ||  

Tib.  de’i  smon  lam  chen  po  bdun  pa  ni  |  gaṅ  gi  tshe  bdag  ma  ‘oṅs  pa’i  dus  (4)na  |  bla  na  med  pa  yaṅ  dag  par  rdzogs pa’i  byaṅ  chub  mṅon  par  rdzogs  par  saṅs  rgyas  pa  de’i  tshe  bdag  byaṅ  chub  thob  pa  na  |  sems  can  gaṅ  su  dag  nad  sna  tshogs kyis  yoṅs  su  gzir  ba  |  skyabs med  pa  |  mgon  med  pa  |  ‘tshog  chas  daṅ  sman  mi  bdog  pa  |  dpuṅ  (5)gñen med  pa  |  dbul  ba  |  sdug  bsṅal  ba  gaṅ  dag  gi  rna  lam  du  bdag  gi  miṅ  grag  pa  de  dag  ni  nad  thams  cad  rab  tu  źi  bar  gyur  cig  |  byaṅ  chub  kyi  mthar  thug  gi  bar  du  nad  med  ciṅ  gnod  pa  med  par  gnas  par  gyur  cig  ces  btab  bo  ||

[15] Skt.  bodhiprāptasya  ca  me  kaścin mātṛgrāmo  nānāstrīdoṣaśataiḥ  saṃkliṣṭaṃ strībhāvaṃ  vijugupsanto  mātṛgrāmayoneḥ  parimoktukāmo mama  nāmadheyaṃ  dhārayet tasya  mātṛgrāmasya  strībhāvo vinivartet  |  puruṣabhāvo bhaved  yāvad  bodhiparyavasānād  |  idam  aṣṭamaṃ tasya  mahāpraṇidhānam  abhūt  ||  

de’i  smon  lam  chen  po  (6)brgyad pa  ni  gaṅ  gi  tshe  bdag  ma  ‘oṅs  pa’i  dus  na  |  bla  na  med  pa  yaṅ  dag  par  rdzogs  pa’i  byaṅ  chub  mṅon  par  rdzogs  par  saṅs  rgyas  pa  de’i  tshe  bdag  byaṅ  chub  thob  pa  na  |  bud  med  gaṅ  la  la  bud  med  kyi  skyon  brgya  dag  gis  kun  nas  ñon  moṅs  par  gyur  pa  |  bud  med  kyi  (7)dṅos po  la  smod  pa  |  bud  med  kyi  skye  gnas  las  yoṅs  su  thar  par  ‘dod  pa  de  dag  bud  med  kyi  dṅos  po  las  log  par  gyur  cig  |  byaṅ  chub  kyi  mthar  thug  gi  bar  du  skyes  pa’i  dbaṅ  po  ‘byuṅ  bar  gyur  cig  ces  btab  po  ||

[16] Skt.  bodhiprāpto  ‘haṃ  sarvasatvān  mārapāśabandhanabaddhān  nānādṛṣṭigahanasaṃkaṭaprāptān  sarvamārapāśadṛṣṭigatibhyo  vinivartya samyagdṛṣṭau  niyojyānupūrveṇa  bodhisatvacāryāṃ  saṃdarśayeyaṃ |  idaṃ  navamaṃ mahāpraṇidhānam  abhūt  ||  

Tib.  de’i  smon  lam  chen  po  dgu  pa  ni  gaṅ  gi  tshe  bdag  (276a1)ma ‘oṅs  pa’i  dus  na  bla  na  med  pa  yaṅ  dag  par  rdzogs  pa’i  byaṅ  chub  mṅon  par  rdzogs  par  saṅs  rgyas  pa  de’i  tshe  bdag  byaṅ  chub  thob  pa  na  |  sems  can  thams  cad  bdud  kyi  źags  pa  rnams  las  yoṅs  su  thar  par  bya’o  ||  lta  ba  tha  dad  pa  mi  mthun  (2)pa  ziṅ  ziṅ  pas  mi  mthun  par  gyur  pa  dag  yaṅ  dag  pa’i  lta  ba  la  dgod  par  bya’o  ||  mthar  gyis  byaṅ  chub  sems  dpa’i  spyod  pa  bstan  par  bya’o  źes  btab  bo  |

[17]Skt.  bodhiprāptasya  ca  me  ye  kecit  sattvā  rājādibhayabhītā  ye  vā  bandhanatāḍanāvaruddhā  vadhyārhā anekamāyābhir  upadrutā  vimānitāś ca  kāyikacaitasikaduḥkhair  abhyāhatās tato  nāmadheyaśravaṇato  te  puṇyānubhāvena  sarvopadravebhyaḥ  parimucyeran |  idaṃ  daśamaṃ tasya  mahāpraṇidhānam  abhūt  ||  

Tib.  de’i  smon  lam  chen  po  bcu  pa  ni  gaṅ  gi  tshe  bdag  ma  ‘oṅs  pa’i  dus  na  |  bla  na  med  pa  yaṅ  dag  par  rdzogs  (3)pa’i byaṅ  chub  mṅon  par  rdzogs par  saṅs  rgyas  pa  de’i  tshe  bdag  byaṅ  chub  thob  pa  na  |  sems  can  su  dag  rgyal  po’i  ‘jigs  pas  skrag  pa  daṅ  |  gaṅ  dag  bciṅ  ba  daṅ  |  brdeg  pa  daṅ  |  go  rar  gźug  pa  daṅ  |  gsad  par  ‘os  pa  |  rgyu  du  mas  gtses  (4)pa  |  ṅa  rgyal  daṅ  bral  ba  |  lus  daṅ  |  ṅag  daṅ  |  sems  sdug  bsṅal  gyis  ñen  pa  de  dag  bdag  gi  bsod  nams  kyi  mthus  gnod  pa  thams  cad  las  yoṅs  su  thar  par  gyur  cig  ces  btab  bo  |

[18] Skt.  bodhiprāptasya  ca  me  ye  sattvāḥ  kṣudhāgnināḥ prajvalitā  āhārapānaparyeṣṭyabhiyuktās  tannidānaṃ pāpaṃ  karma  kurvanti |  sacet  te  mama  nāmadheyaṃ dhārayeyur  ahaṃ  teṣāṃ  varṇagandharasopetenāhāreṇa  śarīraṃ saṃtarpayeyam  |  paścād dharmarasena  saṃtarpyātyantasukhe  pratiṣṭhāpayeyam  |  idam  ekādaśamaṃ tasya  mahāpraṇidhānam  abhūt  ||  

Tib.  de’i  smon  lam  chen  po  bcu  gcig  pa  ni  |  gaṅ  gi  tshe  bdag  ma  ‘oṅs  pa’i  dus  na  bla  na  med  (5)pa  yaṅ  dag  par  rdzogs pa’i  byaṅ  chub  mṅon  par  rdzogs  par  saṅs  rgyas  pa  de’i  tshe  bdag  byaṅ  chub  thob  pa  na  |  sems  can  gaṅ  dag  bkres  pa  daṅ  |  skom  pa’i  me  rab  tu  ‘bar  ba  |  kha  zas  ‘tshol  ba  la  rab  tu  brtson pa  |  sdig  pa’i  las  byed  pa  de  dag  bdag  gis  kha  (6)dog daṅ  |  dri  daṅ  |  ror  ldan  pa’i  kha  zas  kyis  lus  tshim  par  byas  te  ||  phyis  chos  kyi  ros  śin  tu  bde  ba  la  dgod  par  bya’o  źes  btab  bo  ||

[19]   Skt.  bodhiprāptasya  ca  me  ye  kecit  sattvā nagnā  vasanavirahitā  daridrāḥ śītoṣṇadaṃśamaśakair  upadrutā  rātriṃdivaṃ duḥkham  anubhavanti  |  sacet  te  mama  nāmadheyeṃ dhārayeyur  ahaṃ  teṣāṃ  vastrabhogam  upasaṃhareyam nānāraṅgaraktān  yathākāmam  upanāmayeyam vividhaiś  ca  ratnābharaṇagandhamālyavilepanavādyatūryatāḍāvacaraiḥ  sarvasattvānāṃ  sarvābhiprāyān  paripūrayeyam |  idaṃ  dvādaśamaṃ tasya  mahāpraṇidhānam  abhūt  || 

Tib.  de  bźin  gśegs  pa  de’i  smon  lam  chen  po  bcu  gñis  pa  ni  gaṅ  gi  tshe  bdag  ma  ‘oṅs  pa’i  dus  na  |  bla  na  med  pa  yaṅ  (7)dag par  rdzogs  pa’i  byaṅ  chub  mṅon  par  rdzogs  par  saṅs  rgyas  pa  de’i  tshe  |  sems  can  su dag sgren  mo  |  bgo  ba  med  pa  |  dbul  ba  |  sdug  bsṅal  ba  |  graṅ  ba  daṅ  |  tsha  ba  daṅ  |  sbraṅ  bu  daṅ  |  śa  sbraṅ  dag  gis  ñin  mtshan du  sdug  bsṅal  gyi  tshor  ba  myoṅ  ba  dag  la  (276b1)bdag gis  gos  yoṅs  su  spyad  par  ‘os  pa  |  tshon  sna  tshogs  yoṅs  su  kha  bsgyur  ba  dag  sbyin  par  bya’o  ||  ji  ltar  ‘dod  pa  bźin  du  rin  po  che’i  rgyan  sna  tshogs  daṅ  |  spud  pa  daṅ  |  phreṅ  ba  daṅ  |  spos  daṅ  |  byug  pa  daṅ  |  rol  mo’i  sgra  daṅ  |  sil  sñan  daṅ  |  pheg  rdob  pa  (2)rnams  kyis  sems  can  rnams  kyi  bsam  pa  thams  cad  yoṅs  su  rdzogs  par  gyur  cig  ces  btab  bo  ||

[20] Skt.  yādṛśī sukhāvatī  lokadhātus  tādṛśaṃ tatra  vaiḍūryanirbhāsaprabhāyāṃ  lokadhātau guṇavyūham.  Ht:  Y  như  thế  giới  hệ  Cực  lạc  ở  phía  tây,  công  đức  trang  nghiêm  không khác  gì  cả.

[21] Sūryavairocana.

[22] Candravairocana.

[23] saddharmakośaṃ  dhārayanti:  duy  trì  hay  thủ  hộ  kho  tàng  (kośa,  nghĩa  đen:  vỏ  hay  bao  đựng)  hánh  pháp.

[24] aṣṭau  bodhisattvā.  Ht.  tám  vị  đại  bồ  tát,  danh  hiệu  Văn  thù  sư  lợi  bồ  tát,Quan  thế  âm  bồ  tát,  Đắc  đại  thế  bồ  tát,  Vô  tận  ý  bồ  tát,  Bảo  đàn  hoa  bồ  tát,  Dược  vương bồ  tát,  Dược thượng  bồ  tát  và  Di  lạc  bồ  tát.

[25] Skt.  yaś  ca  mātṛgrāmas  tasya  bhagavato  bhaiṣajyaguruvaiḍūryaprabhasya  tathāgatasya nāmadheyaṃ  śrutvodgrahīṣyati  |  tasya  sa  eva  paścimastrībhāvaḥ  pratikāṅkṣitavyaḥ  ||  

Tib.  bud med  gaṅ  gis  de  bźin  gśegs  pa  de’i  mtshan thos  śiṅ  bzuṅ  ba  de’i  bud  (2)med kyi  dṅos  po  de  tha  ma  yin  par  śes  par  bya’o  ||

[26] Skt.  bodhisattvasaṃvaraṃ  caturvaraśikṣāpadaśataṃ  dhārayanti, ye  punar  apiraṃ niṣkrāntagṛhavāsā  bhikṣavaḥ,  pañcādhike dve  śikṣāpadaśate  dhārayanti, yā  bhikṣuṇyaḥ  pañcaśataśikṣāpadāni  dhārayanti;  Theo  bản  Huyền  Tráng:  Bồ-tát, 10  giới  trọng  –  48  giới  khinh; Bí-sô,  250  giới;  Bí-sô  ni,  348  giới.

[27] Yamasya:  thường  phiên  âm  là  Diêm-ma,  có  tên  này  là  do  có  người  em  song  sinh.  Cht.  Xin  xem  Giới  thiệu  nguồn  gốc  Đức  Phật  A-di-đà.

[28] piśāca,  một  loại  quỷ  ăn  thịt  người. Ht.  tất-xá-già  畢舍遮; Cđ.  quỷ  鬼

[29] Skt.  yad  uta  kiṃbhīro  nāma  mahāyakṣasenāpatiḥ  |  vajraś  ca  nāma  mahāyakṣasenāpatiḥ  |  mekhilaś  ca  nāma  |  anantaś  ca  nāma  |

anilaś  ca  nāma  |  saṃnilaś ca  nāma  |  indāla  nāma  |  pāyilaś ca  nāma  |

māhuraś  ca  nāma  |  cindālaś  ca  nāma  |  caudhuraś  ca  nāma  |  vekālaś  ca  nāma  mahāyakṣasenāpatiḥ  |  Cđ.  宮毘羅大將、跋折羅大將、迷佉羅大將、安捺羅大將、安怛羅大將、摩涅羅大將、因陀羅大將、波異羅大將,  摩呼羅大將、真達羅大將、招度羅大將、鼻羯羅大將,Ht:  宮毘羅大將,伐折羅大將,  迷企羅大將,安底羅大將,  頞儞羅大將,珊底羅大將,  因達羅大將,波夷羅大將,  摩虎羅大將,真達羅大將,  招杜羅大將,毘羯羅大將.

[30] Skt.  bhagavān āha  tena  hy  ānanda  dharmaparyāyam  idaṃ  bhaiṣajyaguruvaiḍūryaprabhasya  tathāgatasya pūrvapraṇidhānaviśeṣavistaram  iti  dhāraya dvādaśānāṃ  mahāyakṣasenāpatīnāṃ  praṇidhānam iti  dhāraya.  Ht.  佛告阿難:「此法門名『說藥師琉璃光如來本願功德』,亦名『說十二神將饒益有情結願神呪』,亦名『拔除一切業障』,應如是持。」Phật  dạy  tôn  giả  A  nan,  pháp  môn  này  nên  mệnh  danh  Nói  về  bản  nguyện công  đức  của  đức  Dược sư  lưu  ly  quang  như  lai,  cũng  nên  mệnh  danh  Nói  về  sự  kết  nguyện thần  chú  để  lợi  ích  chúng  sanh  của  mười hai  thần  tướng, lại  nên  mệnh  danh  Bạt  trừ  hết  thảy  nghiệp chướng.  Nên  phụng trì  như  vậy.

PHỤ BẢN: Thần chúDược Sư (Phạn văn phiên âm La-tin)

namo bhagavate bhaiṣajyaguru vaiḍūryaprabharājāya

tathāgatāya arahate samyaksambuddhāya tadyathā:

oṃ bhaiṣajye bhaiṣajye bhaiṣajya-samudgate svāhā

*Bài cần đọc thêm:
Đi vào bản nguyện Dược Sư (Phước Nguyên)