Giới Thiệu Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa

GIỚI THIỆU
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Đào Nguyên

Kinh
Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (Phạn ngữ: Mahà-Prajnàpàramità- Sùtra) là bộ kinh
đại nhất của Phật giáo Bắc truyền, xét về số lượng cũng như diệu lý. Kinh gồm
600 quyển, chiếm tới 3 tập với 3.000 trang in khổ lớn của Đại Tạng Kinh Đại
Chính Tân Tu (ĐTK/ĐCTT, No 220, các tập 5,6,7), do Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
(602-664) dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán.

Quần chúngPhật
tử
Việt Nam cũng như giới Phật học phần đông đều đã tiếp cận với kinh Kim Cương
Bát Nhã Tâm kinh, hoặc đọc tụng, hoặc nghiên cứu, học hỏi, nhưng có thể chỉ
một số ít mới biết rằng kinh Kim Cương vốn là một hội ngắn của kinh Đại Bát Nhã
Ba La Mật Đa
(hội thứ 9, quyển 577, ĐTK/ĐCTT, tập 7, trang979C- 985C), còn Bát
Nhã Tâm kinh
(ĐTK/ĐCTT, T8, No 251, trang 848C) cũng do Tam Tạng Pháp sư Huyền
Tráng dịch, chính là sự thâu tóm một số điểm then chốt, tinh túy nhất của kinh
Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa.

Loại bài viết
sau đây, chúng tôi xin bước đầugiới thiệu về bộ kinh ấy.

I. MẤY NÉT VỀ DỊCH CHỦ
VÀ CÔNG VIỆC DỊCH KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Tên tuổi cùng
sự nghiệpcầu pháp của Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng (602-664) đã được sử sách
nói tới khá nhiều, ở đây chúng tôi chỉ xin nhấn mạnh thêm về sự nghiệp dịch thuật
kinh điển của Ngài. Trong lịch sử dịch thuật kinh điển của Phật giáo Trung
Quốc
, ba cái mốc chính được nói tới là Trúc Pháp Hộ (226-304), Cưu Ma La Thập
(344-413) và Huyền Tráng (602-664). Như thế, Huyền Tráng được xem là đỉnh cao,
là sự tập hợp đại thành của quá trình dịch thuật ấy. Các nhà nghiên cứuPhật
học
đã sử dụngtừ ngữ “cựu dịch, tân dịch” để chỉ cho các công trình
và lối dịch thuật kinh điểnPhật giáo trước ngài Huyền Tráng (cựu dịch) và từ
ngài Huyền Tráng trở về sau (tân dịch).

Nhìn chung, sự
nghiệp
dịch thuật kinh điển của ngài Huyền Tráng diễn ra trong thời gian khoảng
20 năm với những thành quảđạt được thật là kì diệu, theo mục lục của ĐTK/ĐCTT,
ngài Huyền Tráng đã dịch trên 70 tên Kinh, Luật, Luận, gồm 1322 quyển, ngoài bộ
Đại Bát Nhã ra, còn có những bộ kinh, Luật, Luận nổi bật sau đây: – Bát Nhã Ba
La Mật Đa Tâm kinh
: 1 quyển, ĐTK/ĐCTT, No 251, T8- Kinh Phật ThuyếtVô Cấu Xưng
(Duy Ma Cật): 6 quyển, ĐTK/ĐCTT, No 476, T14- Kinh Giải Thâm Mật: 5 quyển,
ĐTK/ĐCTT, No 676, T16- A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận: 200 quyển, ĐTK/ĐCTT, No
1545, T27 A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận: 30 quyển, ĐTK/ĐCTT, No 1558, T29- A Tỳ Đạt
Ma Thuận Chính Lý Luận
: 80 quyển, ĐTK/ĐCTT, No 1562, T29… – Bồ Tát GiớiYết
Ma
văn: 1 quyển, ĐTK/ĐCTT, No 1499, T24- Bồ Tát Giới bản: 1 quyển ĐTK/ĐCTT, No
1501, T24- Du Già Sư Địa luận: 100 quyển, ĐTK/ĐCTT, No 1579, T30 v.v…

Ngoài ra, ngài
Huyền Tráng còn trứ thuật bộ sách Đại Đường Tây Vực kí gồm 12 quyển rất nổi
tiếng
(ĐTK/ĐCTT, No 2087, T51).

Tài liệu trong
Phật Quangđại từ điển (Phật Quang Xuất bản xã, 1995, tr 839 trung- 839 hạ) cho
biết
việc tổ chức để dịch thuật bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa rất là chu đáo,
với sự hỗ trợ đắc lực của triều đình nhà Đường thời bấy giờ. Các vị sư: Gia
Thượng
, Đại Thừa Khâm, Đại Thừa Quang, Huệ Lãng, Khuy Cơ… giữ nhiệm vụbút
thọ
. Các vị như Huyền Tắc, Thần Phưởng… giữ nhiệm vụbiên tập, sửa văn (Huyền
Tắc
còn là người đã viết 16 bài tựa cho 16 hội trong bộ kinh này), còn các vị
sư Huệ Quý, Thần Thái, Huệ Cảnh thì lo việc chứng nghĩa. Toàn bộ công việc được
tiến hành thuận hợp trong hơn ba năm rưỡi, từ tháng giêng năm 660 tới tháng
Mười năm 663 thì hoàn thành, và đó là công trình lớn sau cùng của ngài Huyền
Tráng, vì tháng Hai năm sau (664) thì ngài viên tịch. Vì là một bộ phận quan
trọng trong tư tưởng của Phật giáoĐại thừa, nên các kinh thuộc văn hệ Bát Nhã
đã được đưa vào đất Trung Hoa và được dịch ra Hán văn rất sớm (đời Đông Hán). Trước
ngài Huyền Tráng, các kinh thuộc văn hệ Bát Nhã được dịch gồm:

1. Kinh ĐạoHành Bát Nhã: 10 quyển, Chi Lâu Ca Sấm dịch (đời Hậu Hán, ĐTK/ĐCTT, No 224, T8)

2- Kinh Đại
Minh
Độ: 6 quyển, Chi Khiêm dịch (đời Đông Ngô, ĐTK/ĐCTT, No 225, T8)

3- Kinh Phóng
Quang
Bát Nhã: 20 quyển, Vô La Xoa dịch, (đời Tây Tấn, ĐTK/ĐCTT, No 221, T8)

4- Kinh Quang
Tán Bát Nhã: 10 quyển, Trúc Pháp Hộ dịch (đời Tây Tấn, ĐTK/ĐCTT, No 22, T8)

5- Kinh Ma Ha Bát
Nhã
Sao: 5 quyển, Đàm Ma Bì và Trúc Phật Niệm dịch (đời Tiền Tấn, ĐTK/ĐCTT, No
226, T8)

6- Kinh Ma Ha
Bát Nhã Ba La Mật
: 27 quyển, Cưu Ma La Thập dịch (đời Hậu Tần, ĐTK/ĐCTT, No
223, T8)

7- Kinh Tiểu
Phẩm
Bát Nhã Ba La Mật: 10 quyển, Cưu Ma La Thập dịch (đời Hậu Tần, ĐTK/ĐCTT,
No 227, T8)

Toàn bộ các
kinh ấy đều có trong Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa và đã được Ngài Huyền Tráng dịch
lại (sẽ nói rõ thêm khi giới thiệu các hội trong Đại Bát Nhã). Điều này đã giúp
cho các nhà nghiên cứuPhật họcnhận thấy rõ hơn về quá trình sử dụng các thuật
ngữ
Phật học, phương hướng dịch, cũng như cách lí giải và diễn đạt các vấn đề
cơ bản của tư tưởngBát Nhã.

II. GIỚI THIỆU TỒNG
QUÁT VỀ KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

A/- Bốn xứ,
mười sáu hội:

Kinh Đại Bát
Nhã Ba La Mật Đa
được thuyết giảng ở 4 nơi là:

– Núi Linh Thứu
thuộc thành Vương Xá (gồm các hội 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 15)
Khu lâm viên Kì
Đà- Cấp Cô Độc (gồm các hội 7, 8, 9, 12, 13 và 14)

– Cung trời Tha
Hóa
Tự Tại (hội thứ 10)

– Gần ao Bạch
Lộ trong tinh xáTrúc Lâm, thành Vương Xá (hội thứ 16)
Kinh gồm 600
quyển, thuyết giảng qua 16 hội: trong ấy, so với các bản kinh đã được dịch từ
trước thì:

– Các hội 1, 3,
5, 11, 12, 13, 14, 15 và 16 (9 hội) là ngài Huyền Tráng dịch mới, gồm 481
quyển.

– Các hội còn
lại: 2, 4, 6, 7, 8, 9, 10 (7 hội) đã có các vị đi trước dịch rồi và ngài Huyền
Tráng đã dịch lại, gồm 119 quyển.

B/- Giới
thiệu
từng hội:

Số lượng kinh
văn hàm chứa trong mỗi hội không đều nhau: hội ngắn nhất: 1 quyển; hội dài
nhất: 400 quyển.

1) Hội thứ
nhất: Đây là hội dài nhất, gồm 400 quyển (quyển 1-400) chiếm trọn hai tập ĐTK 5
và 6 với hơn 2147 trang, gồm 79 phẩm chính, phân thành 461 phần, mỗi phần dài
ngắn không đều; phần dài có thể là một quyển, phần ngắn thì khoảng một trang
hoặc nửa trang v.v… Ở hội này có những phẩm rất dài, như phẩm “Hiệu
lượng công đức” gồm 66 phần (ĐTK/ĐCTT, T5, tr 570C-906B), phẩm “Nan tín giải” gồm đến 103 phần (ĐTK/ĐCTT, T5, tr
979A-1074C; T6, tr 1-448A).

2) Hội thứ nhì:
Hội này gồm 78 quyển, từ quyển 401-478 (ĐTK/ĐCTT, T7, tr 1-426A), với 85 phẩm
chính, chia thành 142 phần; phẩm dài nhất ở hội này chỉ gồm bốn phần, như các
phẩm thứ 3 (Quán chiếu), phẩm thứ 23 (Vô biên tế), phẩm thứ 68 (Xảo tiện), phẩm
thứ 76 (Chúng đức tướng)…
Các kinh sau đây,
đã được dịch trước ngài Huyền Tráng, thuộc về hội này:- Kinh Phóng QuangBát
Nhã
: 20 quyển, Vô La Xoa dịch (đời Tây Tấn, No 222, T8).- Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba
La Mật
: 27 quyển, Cưu Ma La Thập dịch (đời Hậu Tần, No 223, T8).

3) Hội thứ ba:
Gồm 59 quyển, từ quyển 479- 537 (ĐTK/ĐCTT, T7, tr 427-761B) với 31 phẩm, chia
thành 80 phần. Phẩm dài nhất ở hội này là phẩm Thiện Hiện gồm 17 phần (tr
446C-526B).

4) Hội thứ tư:
Gồm 18 quyển (từ quyển 538-555, ĐTK/ĐCTT, T7, tr 763A-865A) với 29 phẩm, chia
làm 32 phần; phẩm dài nhất ở hội này là phẩm thứ ba (Cúng dườngTốt đổ ba), gồm
ba phần.

4 kinh sau đây,
đã được dịch trước ngài Huyền Tráng, thuộc về hội này:- Kinh ĐạoHành Bát Nhã:
10 quyển, Chi Lâu Ca Sấm dịch, đời Hậu Hán, No 224, T8- Kinh Đại Minh Độ: 6 quyển,
Chi Khiêm dịch, đời Đông Ngô, No 225, T8- Kinh Ma Ha Bát Nhã Sao: 5 quyển, Đàm
Ma
Bì và Trúc Phật Niệm dịch, đời Tiền Tần, No 226, T8- Kinh Tiểu PhẩmBát Nhã
Ba La Mật
: 10 quyển, Cưu Ma La Thập dịch, đời Hậu Tần, No 227, T8.

Còn hai kinh
này thì được dịch sau ngài Huyền Tráng- vào đời Tống- cũng thuộc hội thứ tư của
Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa: Kinh Phật Mậu Xuất SinhTam Pháp Tạng Bát Nhã Ba La
Mật
: 3 quyển, Pháp Hiền dịch (ĐTK/ĐCTT,, No 229, T8).

5) Hội thứ năm:
hội này gồm 10 quyển, từ quyển 556-565, T7, tr 865B-920B, với 24 phẩm, 28 phần
(phẩm dài chỉ có hai phần).

6) Hội thứ sáu:
Gồm 8 quyển, từ quyển 566-573, T7, tr 921A-963C, với 17 phẩm, 26 phần. Kinh
Thắng Thiên VươngBát Nhã Ba La Mật, 7 quyển, do Nguyệt Bà Thủ Na dịch, vào đời
Trần (giữa thế kỉ thứ 6 TL), thuộc về hội này (ĐTK/ĐCTT, No 231, T8).

7) Hội thứ 7:
Gồm hai quyển, từ quyển 574-575, T7 tr 963C-964B, được gọi là Mạn Thù Thất Ly
Phần (2 phần), hội này cũng được thu vào kinh Đại Bảo Tích, hội thứ 46
(ĐTK/ĐCTT, No 310, tập 11, quyển 115-116, tr 650-657)
Hai kinh lược dịch
vào đời Lương (tiền bán thế kỉ thứ 6 TL) cũng thuộc về hội thứ 7 này:- Kinh Văn
Thù Sư Lợi
Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật: 2 quyển, Mạn Đà La Tiên dịch (ĐTK/ĐCTT,
No 232, T8)- Kinh Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Bát Nhã Ba La Mật: 1 quyển, Tăng Già
Ba La
dịch (ĐTK/ĐCTT, No 233, T8)

8) Hội thứ tám:
Gồm 1 quyển (576, T7, tr 974B-979B), được gọi là Na GiàThất Lợi Phần.

Kinh Phật
Thuyết
Nhu Thủ Bồ TátVô Lượng Thanh TịnhPhân Vệ, 2 quyển, do Tường Công dịch
(đời Lưu Tống, thế kỉ thứ 5 TL, No 234, T8) là thuộc hội này.

9) Hội thứ 9:
Gồm 1 quyển, tức quyển 577 (T7, tr 979C-985C), được gọi là Năng Đoạn Kim Cương
Phần, chính là kinh Kim Cương mà phần đông người Phật tử đã biết và trở nên
quen thuộc.

Tưởng nên nhắc
lại, trước và sau ngài Huyền Tráng, chúng ta có tới 5 bản dịch kinhKim Cương
sau đây (4 trước, 1 sau):- Kinh Kim CươngBát Nhã Ba La Mật: 1 quyển, Cưu Ma La
Thập
dịch (đầu thế kỉ thứ 5 TL), ĐTK/ĐCTT, No 235, T8, tr 748C-752C – Kinh Kim
Cương
Bát Nhã Ba La Mật: 1 quyển, Bồ Đề Lưu Chi dịch (đời Nguyên Ngụy, đầu thế
kỉ 6) ĐTK/ĐCTT, No 236, T8, tr 752C-757A – Kinh Kim CươngBát Nhã Ba La Mật: 1
quyển, Chân Đế dịch (đời Trần, giữa thế kỉ thứ 6), ĐTK/ĐCTT, No 237, T8, tr
762A- 766C – Kinh Kim Cương Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật: 1 quyển, Cấp Đa dịch
(đời Tùy, cuối thế kỉ thứ 6), ĐTK/ĐCTT, No 238, T8, tr 766C-771C – Kinh Phật
Thuyết
Năng Đoạn Kim CươngBát Nhã Ba La Mật Đa: 1 quyển, Nghĩa Tịnh dịch (đời
Đường, đầu thế kỉ thứ 8, sau ngài Huyền Tráng), ĐTK/ĐCTT No 239, T8, tr 771C-775B.

Trong số này,
bản dịch ra đời trước nhất và được phổ biếnrộng rãi nhất là bản dịch của ngài
Cưu Ma La Thập
. Xin nêu một so sánh:

Bài kệ ở cuối
pháp thoại ấy, ngài Huyền Tráng dịch:

“Chư hòa
hợp
sở vi
Như tinh, ế, đăng,
ảo
Lộ, bào, mộng, điện,
vân
Ưng tác như thị
quán”
(ĐTK/ĐCTT, T7, tr
985C)

Bốn bản dịch
của các ngài: Bồ Đề Lưu Chi, Chân Đế, Cấp Đa và Nghĩa Tịnh, nơi bày kệ này,
cũng giống như ngài Huyền Tráng, tức là sử dụng 9 thí dụ: Tinh (tinh tú), Ế (ảo
ảnh
của mắt bị bệnh), Đăng (đèn), Ảo (ảo thuật), Lộ (sương mai), Bào (bóng
nước), Mộng (chiêm bao), Điện (ánh chớp) và Vân (đám mây) để thâu tóm và khái
quát hóa về tính chấtvô thường của toàn bộ các pháp hữu vi nơi thế gian. Tham
khảo
bản dịch tiếng Anh của Edward Conze, chúng ta thấy nơi bài kệ ấy cũng nêu
đủ 9 thí dụ như 5 bản dịch kể trên. Điều đó chứng tỏ nơi nguyên bản tiếng Phạn
hẳn đã dùng tới 9 thí dụ như thế. Nhưng ở bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập thì
nơi bài kệ đó chỉ sử dụng 6 thí dụ mà thôi: “Nhứt thiết hữu vi pháp

Như mộng ảo bào
ảnh

Như lộ diệc như
điện
Ưng tác như thị
quán”
(ĐTK/ĐCTT, T8, tr
752B)

“Trong 6
ví dụ của bản dịch ngài La Thập, thì chiêm bao (mộng), ảo thuật (ảo), bóng nước
(bào), sương mai (lộ) và ánh chớp (điện) là 5 ví dụ dễ hiểu nhất, và có thể
vậy
mà bản dịch của ngài La Thập đã để nguyên. Còn ảnh tượng (ảnh) thì không có
trong 9 ví dụ nơi các bản kia, rõ ràng ngài La Thập đã dùng chữ này (ảnh) để
tổng quát 4 ví dụ kia toàn là ảnh tượng; đó là: tinh tú (tinh), ảo ảnh do mắc
bệnh (ế), ngọn đèn (đăng) và đám mây…” (HT Trí Quang, Việt dịch KinhKim
Cương
, bản in 1994, tr 261).

Đúng là một sự
thâu tóm thật gọn ghẽ, hợp lýtài tình biết bao! Chính từ 6 ví dụ nơi bản
dịch của ngài La Thập mà kho tàng thuật ngữ về tư tưởng của Trung Hoa đã phong phú
thêm lên với sự có mặt của từ Lục dụ hay Lục như (xem Từ Hải, tập Thượng, Tối
Tân
Tăng đính bản, Đài Loan Trung Hoa thư cục ấn hành, 1994, tr 539B)

10) Hội thứ 10:
Hội này gồm 1 quyển, tức quyển 578 (ĐTK/ĐCTT, T7, tr 986A-991B), được gọi là
Bát NhãLý Thú Phần. Bốn kinh sau đây, được dịch vào đời Đường (3) và Tống (1) là
thuộc về hội này: -Kinh Thật TướngBát Nhã Ba La Mật: 1 quyển, Bồ Đề Lưu Chi
dịch, ĐTK/ĐCTT, T8, No 240 Kinh Kim Cương ĐỉnhDu GiàLý Thú Bát Nhã: 1 quyển,
Kim Cương Trí dịch, ĐTK/ĐCTT, T8, No 241 Kinh Đại LạcKim CươngBất KhôngChân
Thật
Tam Ma Da: 1 quyển, Bất Không dịch, ĐTK/ĐCTT, T8, No 243 Kinh Phật ThuyếtBiến ChiếuBát Nhã Ba La Mật: 1 quyển, Thi Hộ (Tống) dịch, ĐTK/ĐCTT, T8, No
242.

11) Hội thứ 11:
Gồm 5 quyển, từ quyển 579-583, T7, tr 991B-1019A, được gọi là Bố Thí Ba Ma Mật
Phần, có 5 phần, mỗi phần 1 quyển.

12) Hội thứ 12:
Gồm 5 quyển, từ 584-588, T7, tr 1019B-1044A, được gọi là Tịnh GiớiBa La Mật
Phần, chia làm 5 phần nhỏ, mỗi phần 1 quyển.
13) Hội thứ 13:
Chỉ có 1 quyển, quyển thứ 589 (T7, tr 1044A- 1049C), mang tên là An NhẫnBa La
Mật
Phần.

14) Hội thứ 14:
Cũng gồm 1 quyển, quyển 509 (T7, tr 1049-1055), mang tên là Tinh Tấn Ba La Mật
Phần.

15) Hội thứ
mười lăm: Gồm 2 quyển 591 và 592 (T7, tr 1055B-1065B) được gọi là Tĩnh Lự Ba La
Mật
Phần, chia làm 2 phần nhỏ, mỗi phần một quyển.

16) Hội thứ
mười sáu: Gồm 8 quyển, từ quyển 593 đến quyển 600 (T7, tr 1065B-1110B), được
gọi là Bát Nhã Ba La Mật Phần, chia làm 8 phần nhỏ, mỗi phần một quyển.

C/- Một vài
ghi nhận thêm:

Ghi nhận một
cách tổng quát về 16 hội của kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa là như thế, sau đây
là một số ghi nhận thêm:

1. Vị đệ tử
được Đức Thế Tôn gọi đầu tiên để nhân đấy thuyết giảngdiệu phápTôn giả
Lợi Tử
(Xá Lợi Phất).

2. Các vị đại
đệ tử
của Đức Phật có mặt trong kinh, góp phần nêu hỏi sự việc, nhân đấy Đức
Thế Tôn
quảng diễn giáo pháp gồm: Cụ thọXá Lợi Tử, Cụ thọ Đại Mục Liên, Cụ thọĐại Âm Quang (Đại Ca Diếp), Cụ thọ Chấp Đại Tạng, Cụ thọĐại Ca Đa Diễn Na (Đại
Ca Chiên Diên
), Cụ thọ Khánh Hỷ (A Nan), đáng chú ý hơn cả là Cụ thọXá Lợi Tử.

3. Vị đại đệ tửxuất hiện nhiều nhất trong kinh này, không chỉ nêu hỏi, được Đức Thế Tôn nhân
đấy thuyết giảng, mà còn góp phần quảnh diễn diệu lý của kinh, là Tôn giảThiện
Hiện
(Tu Bồ Đề). Chính thông qua kinh này mà Tôn giả Tu Bồ Đề được xem là vị A
La Hán
“giải không đệ nhất” trong số mười vị đại đệ tử của Đức Phật.

4. Các vị Bồ
Tát
có mặt trong kinh, ít nhiều tham gia vào pháp thoại, như: Bồ Tát Từ Thị, Bồ
Tát
Thiện Tư, Bồ TátMạn Thù Thất Lợi, Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh là người được Đức
Thế Tôn
gọi tên để thuyết giảng phần sau cùng của kinh.

5. Chư Thiêntham gia nêu hỏi ý nghĩa và được Đức Thế Tôn nhân đấy thuyết giảng, như: Thiên
vương
Tối Thắng, Thiên vươngQuang Đức, một số vị Thiên tử ở cõi Dục và cõi Sắc.
Xuất hiện nhiều nhất, tham giatích cực vào pháp thoạiThiên Đế Thích (Kiều
Thi Ca
).

6. Một số thuật
ngữ
, tên người, tên đất v.v… được Pháp sư Huyền Tráng sử dụng trong kinh này,
hoặc theo lối nguyên âm, hoặc theo lối dịch ý, có sự khác với các vị dịch giả
đi trước hoặc sau:- Bạc Già Phạm (Thế Tôn), mười tên hiệu của Phật: Như Lai,
Ưng Chánh Đẳng Giác, Minh HànhViên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô ThượngTrượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật – Bạc Già Phạm.- Bốn chúngđệ tử:
Bísô, Bísôni, Ôbasáchca, Ôbatưca.- Tam bộ chúng: Thiên, Long, Dược Xoa, Kiền
Đạt Phược, A Tố Lạc, Yết Lộ Đồ, Khẩn Nai Lạc, Ma Hô Lạc Già.- Sáu độ Ba La Mật:
Bố thí, Tịnh giới, An nhẫn, Tinh tấn, Tĩnh lự, Bát nhã.- Bốn quả Thanh Văn: Dự
Lưu
, Nhất Lai, Bất HoànA La Hán.- Ba nghiệp: Thân, ngữ, ý.- Ba đường ác:
Địa ngục, Quỷ giới, Bàng sinh.- Một vài địa danh: Thệ Đa lâm (rừng Kì Đà), Căng
già
(sông Hằng), Thất La Phiệt (Xá Vệ)… Một số thuật ngữ: Hữu tình (chúng
sinh
), Cụ thọ (Tôn giả), Độc giác (Duyên Giác, Phật Bích Chi), Nhất sinh sở hệ
(Nhất sinh bổ xứ). Đỗ đa (Đầu đà), Tát ca da kiến (Thân kiến), Tốt đổ ba
(tháp), Chế đa (Chi đề- tháp không có thờ xá lợi), Thiết lợi đa (xá lợi), Du
thiện na (do tuần), Dị sinh (phàm phu)…

7. So với một
số bộ kinhtiêu biểu trong Hán tạng, kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa rất ít kệ.
Và vì sự diễn đạt mang tính chất bao quát, toàn diệntriệt để, nên một số điểm
cốt yếu trong kinh đã được lặp lại. Đây là điều mà những người bước đầu tiếp
cận với bộ kinh này cần lưu ý.