TẠI GIABỒ
TÁT GIỚI BỔN
Thích Pháp Chánh
dịch
I. Lư hương tán
Lư hương vừa
ngún chiên đàn,
Khói thơm ngào
ngạt muôn vàn cõi xa,
Lòng con kính
ngưỡng thiết tha,
Ngưỡng mong chư
Phật thương mà chứng minh.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát
Ma ha tát (Ba lần)
II. Sám hối [1]
Vãng tích sở
tạo chư ác nghiệp,
Giai do vô thỉ
tham sân si,
Tùng thân ngữ ý
chi sở sanh,
Kim đối Phật tiền
cầu sám hối. (Một lạy)
Vãng tích sở tạo
chư ác nghiệp,
Giai do vô thỉ
tham sân si,
Tùng thân ngữ ý
chi sở sanh,
Nhất thiếttội
chướng giai sám hối. (Một lạy)
Vãng tích sở tạo
chư ác nghiệp,
Giai do vô thỉ
tham sân si,
Tùng thân ngữ ý
chi sở sanh,
Nhất thiếttội căn
giai sám hối. (Một lạy)
(Đại chúngđứng
yên. Người tụng giới lên pháp tòa xong, bèn mời đại chúng cùng an tọa. Kế đến,
người tụng giới đọc bài kệkhai kinh. Người tụng giới đọc trước, đại chúng họa
theo.)
III Khai
kinh kệ
Phật phápvi
diệu rất rộng sâu,
Trăm ngàn muôn
kiếp khó tìm cầu,
Con nay nghe thấy
chuyên trì tụng,
Nguyện giải Như
Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam mô Bổn sư
Thích Ca Mâu Ni Phật (Ba lần)
(Người tụng
giới bắt đầu đọc giới văn, đại chúngim lặng lắng nghe.)
IV. Tụng
kinh tự
Chúng thọ giớiBồ tát lắng nghe:
Quy mạng Lô Xá Na,
Mười phươngKim
Cương Phật,
Đảnh lễđức Di
Lặc,
Sẽ hạ sanh thành
Phật.
Nay tụng ba tụ
giới,
Bồ tát đều cùng
nghe,
Giới như đèn sáng
lớn,
Soi sáng đêm tối
tăm.
Giới như gương báu
sáng,
Chiếu rõ tất cả
pháp,
Giới như ngọc Ma
ni,
Rưới của giúp kẻ
nghèo.
Thoát khổ mau
thành Phật,
Chỉ giới này hơn
cả,
Vì thế nên Bồ tát,
Phải tinh tấn giữ
gìn.
Các vị Bồ tát
tại gia! Sau khi Đức Phậtdiệt độ, trong thời mạt pháp, phải nên tôn kínhBa la
đề mộc xoa . Ba la đề mộc xoa chính là giới pháp này. Trì giới này thời như đi đêm
tối gặp đèn sáng, như người nghèo được của báu, như người bệnh được bình phục,
như người tù được tự do, như kẻ đi xa được trở về. Nên biết rằng giới pháp này
là đức Thầy sáng suốt của chúng ta, không khác khi Đức Phật còn ở thế gian.
Nếu không có
lòng sợ tội, thì tâm lành khó nẩy sanh. Cho nên trong kinh có lời dạy:
“Chớ xem thường lỗi nhỏ mà cho là không hại, giọt nước dầu nhỏ mà lần lần
đầy cả chum lớn. Lúc tạo tội chừng trong giây phút, mà phải nghìn muôn năm chịu
khổ nơi địa ngục. Một phen bị đọa lạc mất thân người, thì muôn đời khó đặng
lại.”
Sắc trẻ không
dừng, dường như ngựa chạy. Mạng người vô thường, mau hơn nước dốc. Ngày nay dầu
còn, khó bảo đảm được ngày mai.
Đại chúng! Mỗi
người nên nhất tâmcần cầutinh tấn. Chớ biếng nhác trễ lười, phóng túng ngủ
nghỉ. Ban đêm phải nhiếp tâmniệm Phậttham thiền, chớ để thời gian luống qua
vô ích, mà sau này phải ăn năn.
Đại chúng! Mỗi
người nên nhất tâmcung kính, y theo giới này, như pháptu hành, chuyên cần học
tập.
Đại chúng! Hôm nay
là ngày mười lăm (mười bốn) có trăng (không trăng) , làm phép bố táttụng giới
Bồ tát. Đại chúng nên nhất tâm nghe kỹ. Ai có tội thời phát lồ, người không tội
thời im lặng. Nếu mọi ngườiim lặng, nên hiểu là đại chúngthanh tịnh có thể
tụng giới. Tôi đã tụng lời tựa của giới Bồ tát rồi.
Nay xin hỏi trong
đại chúng đây được thanh tịnh không? (Hỏi ba lần)
Thưa đại chúng!
Trong đây thanh tịnh vì im lặng. Việc này xin nhận biết như vậy.
V. Sáu giới
trọng:
(1) Giới giết
hại:
Chư Phật tử! Sau
khi thọ giớiBồ tát tại gia, dù cho mất thân mạng, ngay đến loài trùng kiến,
cũng không được giết hại. Nếu phạm giới giết hại, hoặc bảo người giết, hoặc tự
mình giết, sẽ lập tức mất giới Bồ tát; trong hiện đời, không thể chứng được
noãn pháp, huống hồ là thánh quảTu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm. Kẻ đó là Bồ
tátphá giới, Bồ tátxú uế, Bồ tátcấu ô, Bồ tátchiên đà la, Bồ tát bị triền
phược. Đây là giới trọng thứ nhất.
(2) Giới Trộm
Cắp:
Chư Phật tử! Sau
khi thọ giớiBồ tát tại gia, dù cho mất thân mạng, ngay đến một đồng tiền, cũng
không được trộm cắp. Nếu phạm giớitrộm cắp sẽ lập tức mất giới Bồ tát; trong
hiện đời, không thể chứng được noãn pháp, huống hồ là thánh quảTu đà hoàn, Tư
đà hàm, A na hàm. Kẻ đó là Bồ tátphá giới, Bồ tátxú uế, Bồ tátcấu ô, Bồ tátchiên đà la, Bồ tát bị triền phược. Đây là giới trọng thứ hai.
(3) Giới đại
vọng ngữ:
Chư Phật tử! Sau
khi thọ giớiBồ tát tại gia, dù cho mất thân mạng, cũng không được đại vọng
ngữ: “Tôi đã chứng được pháp quán bất tịnh”, hoặc: “Tôi đã chứng
được thánh quảA na hàm”, vân vân … Nếu phạm giới đại vọng ngữ sẽ lập
tức mất giới Bồ tát; trong hiện đời, không thể chứng được noãn pháp, huống hồ
là thánh quảTu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm. Kẻ đó là Bồ tátphá giới, Bồ tátxú uế, Bồ tátcấu ô, Bồ tátchiên đà la, Bồ tát bị triền phược. Đây là giới
trọng thứ ba.
(4) Giới tà
dâm:
Chư Phật tử! Sau
khi thọ giớiBồ tát tại gia, dù cho mất thân mạng, cũng không được tà dâm. Nếu
phạm giớità dâm sẽ lập tức mất giới Bồ tát; trong hiện đời, không thể chứng được
noãn pháp, huống hồ là thánh quảTu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm. Kẻ đó là Bồ
tátphá giới, Bồ tátxú uế, Bồ tátcấu ô, Bồ tátchiên đà la, Bồ tát bị triền phược.
Đây là giới trọng thứ tư.
(5) Giới rao
nói tội lỗi của bốn chúng:
Chư Phật tử! Sau
khi thọ giớiBồ tát tại gia, dù cho mất thân mạng, cũng không được rao nói tội
lỗi của bốn chúng: tỳ khưu, tỳ khưu ni, ưu bà tắc, ưu bà di. Nếu phạm giới rao
nói tội lỗi của bốn chúng sẽ lập tức mất giới Bồ tát; trong hiện đời, không thể
chứng được noãn pháp, huống hồ là thánh quảTu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm. Kẻ
đó là Bồ tátphá giới, Bồ tátxú uế, Bồ tátcấu ô, Bồ tátchiên đà la, Bồ tát
bị triền phược. Đây là giới trọng thứ năm.
(6) Giới bán
rượu:
Chư Phật tử! Sau
khi thọ giớiBồ tát tại gia, dù cho mất thân mạng, cũng không được bán rượu.
Nếu phạm giới bán rượu sẽ lập tức mất giới Bồ tát; trong hiện đời, không thể chứng
được noãn pháp, huống hồ là thánh quảTu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm. Kẻ đó là
Bồ tátphá giới, Bồ tátxú uế, Bồ tátcấu ô, Bồ tátchiên đà la, Bồ tát bị triền
phược. Đây là giới trọng thứ sáu.
Chư Phật tử!
Nếu Bồ tát tại gia sau khi thọ giới có thể hết lònggiữ gìn không cho hủy phạm
thì sẽ đắc được thánh quả như trên.
Chư Phật tử!
Giới Bồ tát tại gia là ngọc anh lạctrang nghiêm; là hương thơm vi diệu xông
khắp mọi nơi; là quỹ luật cho pháp thiện, ngăn chận các pháp bất thiện; là kho
tàng diệu bảo vô thượng; là chủng tính của dòng dõitôn quí; là nơi đại tịch
tĩnh; là vị cam lộ; là đất sanh thiện pháp. Chỉ cần chân thựcphát tâmthọ giới
đã được vô lượngvô biênlợi ích như vậy, huống chi là nhất tâmgiữ gìn không
cho hủy phạm.
VI. Hai mươi
tám giới khinh:
(1) Giới khôngcúng dườngcha mẹ, sư trưởng:
Chư Phật tử! Đức
Phật đã dạy: Nếu Bồ tát tại gia, sau khi thọ giới, không cúng dườngcha mẹ, sư
trưởng, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là
kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
(2) Giới uống
rượu:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, ham mê uống rượu, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu khôngkhởi
tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
(3) Giới không
chăm sóc người bệnh:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, gặp người bệnh khổ, sinh khởiác tâm, bỏ phế không chăm
sóc, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ
nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
(4) Giới khôngbố thí người đến xin:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, thấy người đến xin, không tùy sức mình mà bố thí ít
nhiều, để cho người đến xin ra về tay không, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
(5) Giới không
chào hỏi lễ lạy các bậc tôn trưởng:
Nếu Bồ tát tại gia,
sau khi thọ giới, gặp các vị tỳ khưu, tỳ khưu ni, hoặc các vị Bồ tát tại giathọ giới trước, không đứng dậytiếp đón, lễ lạy, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu
khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử
luân hồi.
(6) Giới khinh
mạn người phá giới:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, thấy tỳ khưu, tỳ khưu ni, ưu bà tắc, ưu bà diphạm giới,
bèn sinh tâm kiêu mạn, cho rằng mình hơn họ, họ không bằng mình, thì phạm vào tội
sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp
sinh tử luân hồi.
(7) Giới không
thọ sáu ngày bát quan trai giới mỗi tháng:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, mỗi tháng không thọ sáu ngày bát quan trai giới, không
cúng dườngTam bảo, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị
đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
(8) Giới không
đi nghe pháp:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, trong vòng bốn mươi dặm có chỗ giảng kinhthuyết pháp mà
không đến nghe, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc.
Đó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
(9) Giới thọ
dụng đồ dùng của chư Tăng:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, thọ dụng đồ dùng của chư tăng, như ngọa cụ, giường, ghế,
v.v…, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là
kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
(10) Giới uống
nước có trùng:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, nghi nước có trùng mà vẫn cố ý uống, thì phạm vào tội sơ
ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh
tử luân hồi.
(11) Giới đi
một mình trong chổ nguy hiểm:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, đi một mình trong chỗ nguy hiểm, thì phạm vào tội sơ ý.
Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử
luân hồi.
(12) Giới một
mình ngủ đêm tại chùa ni (tăng):
Nếu Bồ tát tại gia
nam (nữ), sau khi thọ giới, một mình ngủ đêm tại chùa ni (tăng), thì phạm vào
tội sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô, tạo
nghiệp sinh tử luân hồi.
(13) Giới vì
của đánh người:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, vì tiền của mà đánh đập chửi rủa tôi tớ, hoặc người
ngoài, thì sẽ phạm vào tội sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó
là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
(14) Giới bố
thíthức ăn thừa cho bốn chúng:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, đem thức ăn thừa bố thí cho tỳ khưu, tỳ khưu ni, hoặc ưu
bà tắc, ưu bà di khác, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị
đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
(15) Giới nuôi
mèo, chồn:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, nuôi dưỡng mèo, chồn, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
(16) Giới nuôi
súc vật:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, nuôi dưỡng voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà, hoặc các loạisúc vật khác, không chịu tịnh thí cho người chưa thọ giới, thì phạm vào tội sơ ý.
Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử
luân hồi.
(17) Giới không
chứa ba y, bình bát, tích trượng:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, không chứa sẳn ba y, bình bát, tích trượng để cúng dườngchúng tăng, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó
là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
(18) Giới không
lựa chỗ nước sạch, đất cao ráo để trồng trọt:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, làm nghề canh tác sinh sống, không tìm chỗ nước sạch,
đất cao ráo để trồng trọt, thì sẽ phạm vào tội sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám
hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
(19) Giới buôn
bán không chân chánh:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, làm nghề mua bán: lúc bán hàng, một khi đã đồng ý giá
cả, không được lật lọng, đem bán cho kẻ trả giá đắt hơn; lúc mua hàng, nếu thấy
người bán cân lường gian lận, phải nói lỗi họ, để họ sửa đổi. Nếu không làm như
thế, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ
nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
(20) Giới hành
dâm không đúng thời, không đúng chỗ:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, hành dâm không đúng chỗ, không đúng thời, thì phạm vào
tội sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp
sinh tử luân hồi.
(21) Giới gian
lận thuế:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, làm nghề thương mại, công nghiệp, v.v…, không chịu nộp
thuế, hoặc khai thuế gian lận, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối,
sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
(22) Giới vi
phạm luật phápquốc gia:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, vi phạm luật phápquốc gia, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu
khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân
hồi.
(23) Giới được
thực phẩm mới mà không dâng cúng Tam bảo trước:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, lúc lúa, trái cây, rau cải được mùa, không dâng cúng Tam
bảo trước, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó
là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
(24) Giới Tăng
già không cho thuyết pháp mà tự chuyên:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, Tăng già không cho phépthuyết pháp, mà vẫn cứ làm, thì
phạm vào tội sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô,
tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
(25) Giới đi
trước năm chúng xuất gia:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, ra đường đi trước các tỳ khưu, sa di, v.v…, thì phạm
vào tội sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô, tạo
nghiệp sinh tử luân hồi.
(26) Giới phân
phối thức ăn cho chư Tăng không bình đẳng:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, trong lúc phân phối thức ăn cho chư Tăng, sinh tâm thiên
vị, lựa những món ngon, nhiều hơn phần người khác, để cúng dường thầy mình, thì
phạm vào tội sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô,
tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
(27) Giới nuôi
tằm:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, nuôi tằm lấy tơ, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu khôngkhởi
tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
(28) Giới đi
đường gặp người bệnh không chăm sóc:
Nếu Bồ tát tại
gia, sau khi thọ giới, đi đường gặp người bệnh, không tìm phương tiện chăm sóc,
hoặc gửi gắm cho người khác chăm sóc, thì phạm vào tội sơ ý. Nếu khôngkhởi tâmsám hối, sẽ bị đọa lạc. Đó là kẻ nhiễm ô, tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
Chư Phật tử!
Nếu Bồ tát tại gia nào, có thể chí tâmthọ trìgiới pháp này, kẻ ấy là hoa phân
đà lợi trong hàng Bồ tát tại gia, là hương thơm vi diệu trong hàng Bồ tát tại
gia, là hoa sentrong sạch trong hàng Bồ tát tại gia, là trân báu chân thực
trong hàng Bồ tát tại gia, là bậc đại trượng phu trong hàng Bồ tát tại gia.
Chư Phật tử!
Đức Phật có dạy: Bồ tát có hai hạng, một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát
xuất gia gọi là tỳ khưu, hay tỳ khưu ni, Bồ tát tại gia gọi là ưu bà tắc, hay
ưu bà di. Bồ tát xuất giatrì giớixuất gia, điều này không khó. Bồ tát tại giatrì giớitại gia, điều này mới khó. Tại sao như vậy? Bởi vì Bồ tát tại gia bị
nhiều ác duyênràng buộc.
VII: Bài kệkết thúc
Người trí nhiều
nhẫn, tuệ,
Thọ trìgiới pháp
này,
Lúc chưa thành
Phật đạo,
Được hưởng năm
điều lợi:
Một là thập phương
Phật,
Thương tưởng hộ
trì luôn;
Hai là lúc lâm
chung,
Chánh niệm lòng an
vui;
Ba là sanh chỗ
nào,
Cùng Bồ tát làm
bạn;
Bốn là những công
đức,
Giới độ đều thành
tựu;
Năm, đời này, đời
sau,
Đủ giới và phước
tuệ.
Đây là hạnh chư
Phật,
Chỗ người trí quán
xét.
Kẻ trước tướng
chấp ngã ,
Không thể được
pháp này,
Người trầm không
trệ tịch ,
Cũng không gieo
giống được.
Muốn phát tâmBồ
đề,
Trí tuệ chiếu thế
gian,
Phải nên quán sát
kỹ,
Thật tướng của các
pháp:
Không sanh cũng
không diệt,
Không thường cũng
không đoạn,
Chẳng đồng cũng
chẳng khác,
Chẳng đến cũng
chẳng đi.
Trong thể nhất tâm
ấy,
Siêng tu tậptrang
nghiêm.
Phải tuần tự học
tập,
Công hạnh của Bồ
tát,
Đối với Học, Vô
học,
Chớ mống tâm phân
biệt,
Đây là Đệ nhất
đạo,
Cũng gọi pháp Đại
thừa.
Hết thảy lỗi hí
luận,
Từ đây đều dứt
sạch.
Vô thượng trí của
Phật,
Đều do đây mà
thành.
Vì thế nên Phật
tử,
Phải phát tâmdũng
mãnh,
Nghiêm trì giới
của Phật,
Tròn sạch như minh
châu.
Chư Bồ tátquá
khứ,
Đã từng học giới
này,
Hàng vị lai sẽ
học,
Hàng hiện tại đang
học,
Đây là đường Phật
đi,
Là chỗ Phật khen
ngợi,
Tôi đã tụng giới
rồi,
Nguyện phước đứcvô lượng,
Hồi hướng cho
chúng sanh,
Đồng đến Nhất
thiết trí,
Nguyện ai nghe
pháp này,
Đều được thành
Phật đạo.
Chú
thích:
Ba la đề mộc
xoa: Tiếng Hán dịch là “Biệt biệt giải thoát”, hoặc dịch là “Xứ
xứ giải thoát”. Đây là giới pháp do đức Như Lai chế định mà bảy chúng (Tỳ
kheo, tỳ kheo ni, thức xoa ma na, sa di, sa di ni, ưu bà tắc, ưu bà di) thọ
trì, có công năng đem đến sự giải thoát khỏi bảy điều ác của thân và miệng
(Thân: dâm dục, giết hại, trộm cắp; miệng: nói dối, nói lời ác, nói đâm thọc,
nói lời vô nghĩa). Vì muốn phân biệtgiới pháp của đức Như Lai với Định cộng
giới (do tu định mà phát sanh) và Đạo cộng giới (do chứng thánh quả mà phát
sanh) cho nên gọi tên là “Biệt biệt giải thoát giới”, nghĩa là mỗi
điều giới (biệt biệt) đều có công năng đem đến sự giải thoát cho hành giả.
Theo phong
tục Ấn Độ, mỗi tháng (âm lịch) được chia là hai giai đoạn, từ ngày mồng một đến
ngày mười lăm thì gọi là tháng trắng (Hán: Bạch nguyệt), hoặc gọi là tháng có trăng;
từ ngày mười sáu đến ngày hai mươi chín (hoặc ba mươi) thì gọi là tháng đen
(Hán: Hắc nguyệt), hoặc gọi là tháng không trăng. Do đây mỗi tháng, khi tụng
giới vào ngày mười lăm, thì nên đọc “Ngày mườiÕ lăm có trăng”, còn
như cuối tháng, nếu là tháng đủ, thì nên đọc “Ngày mười lăm không
trăng”, nếu là tháng thiếu, thì nên đọc “Ngày mười bốn không
trăng”. Có nhiều bản giới bổn dùng ngày “hai mươi chín” hoặc
“ba mươi”, thì đây là không còn theo truyền thốngẤn Độ mà tụng giới
nữa.
Bố tát: là
pháp của hàng xuất gia và hàng Bồ tát tại gia, mỗi nửa tháng tập chúng tụng
giới, giúp cho đại chúng an trụ trong tịnh giới, làm cho thiện pháp được tăng
trưởng (Hán: trưởng tịnh).
Quỹ luật:
tức là quỹ phạm (mô phạm) và quy luật (phép tắc).
Phân đà lợi:
tức là hoa sen trắng, tượng trưng cho sự cao quý.
Hai câu này
dịch từ chữ Hán: “Minh nhân nhẫn tuệ cường, năng trìnhư thị pháp”, ý
muốn nói: Người sáng suốt có nhiều sự kiên nhẫn và trí tuệ thì mới thọ trì được
giới pháp này.
Giới độ: tức
là Trì giới Ba la mật.
Đây là hạnh
chư Phật, người trí thường nghĩ đến: Hai câu này dịch từ chữ Hán “Thị chư
Phật hành xứ, trí giả thiện tư lường”, có nghĩa: Thọ trìgiới pháp này một
cách viên mãn, thì đây là công hạnh của chư Phật, nơi mà người có trí thường
phải suy ngẫm đến.
Trước tướng
chấp ngã: nghĩa là dính mắc vào hình tướng, chấp trước vào cái ngã. Kẻ trước
tướng chấp ngã, tức là những kẻ phàm phu, ngoại đạo.
Người trầm
không trệ tịch: tức là muốn ám chỉ các bậc nhị thừa, chấp vào lý thuyết
“thiên không”, cùng sự an vui của cảnh giới Niết bàntịch tĩnh, không
khởi lên được lòng đại biphổ độ chúng sanh.
Gieo giống:
tức là gieo hạt giốngBồ đề vào tâm của các bậc Nhị thừa.
Muốn phát
tâmBồ đề, trí tuệ chiếu thế gian: dịch từ chữ Hán “Dục trưởng Bồ đề miêu,
quang minh chiếu thế gian”, có nghĩa: Nếu muốn nẩy hạt mầm Bồ đề (phát tâmBồ đề) và dùng trí tuệsoi sángthế gian. (Anh: In order to cultivate the Bodhi
sprout and brighten the world.)
Đối với Học,
Vô học, chớ mống tâm phân biệt: dịch từ chữ Hán “Ư học ư vô học, vật sanh
phân biệt tưởng”, bản tiếng Anh dịch là “Do not differentiate between
the not fully detached and the fully detached ones.” Tạm dịch: Đối với các
bậc hữu học hoặc vô học, chớ nên mống tâm phân biệt; hoặc có thể hiểu: Chớ nên
mống tâm phân biệt giữa pháp hữu học và pháp vô học, vì cả tất cả, chung quy
đều là pháp Đại thừa, là Đệ nhất đạo.