TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIỚI LUẬT
Tác giả: Thích
Nữ Đồng Phúc
Đạo
Phậtsở dĩ được quảng bá và truyền thừalâu dài trên thế gian này, thật ra
không chỉ vì tự nó chứa đựng một kho tàng đồ sộ giáo lý cao thâm – văn học luận
lý như nhiều người thường nhận định, mà điều tiên quyết và thiết yếu chính là
Giới luật. Do vậy, đức Thế Tôn hơn bốn mươi năm hoằng hóa lợi sanh đến lúc sắp
nhập Niết bàn, Ngài dạy: “Giới luật là mạng mạch của Phật pháp, Giới luật còn
là Phật pháp còn; Giới luật mất là Phật pháp mất”.
Ngày nay trong
bối cảnh xã hộixao động, từng bước chuyển mình tương thích với sự phát triển
và trổi nhịp của văn minhthời đại; Phật giáo được xem là “chân lý thực tại”, mà
cốt lỗi chính là Đạo đức và Giới luật làm nền tảng. Chính vì thế hôm nay tôi
xin một lần mạo muội đem những suy nghĩ nhỏ bé của mình đem ra trao đổi và giao
lưu cùng pháp lữ với những tháng ngày tu tập bên nhau.
Giới (Sila) có
nghĩa tổng quát là “phòngphi chỉ ác”, nghĩa là đề phòng điều sai quấy và dừng
chỉ mọi điều ác, cũng có nghĩa là “chỉ ác tác thiện” tức là ngăn các điều xấu,
thực hành mọi hạnh lành.
Chữ Giới trong
Giới BổnBa La Đề Mộc Xoa có nghĩa là biệt giải thoát, cũng gọi là xứ xứ giải
thoát, hay tùy thuận giải thoát. Biệt giải thoát tức là giữ Giới phần nào thì
giải thoát phần đó, giữ Giới nhiều thì giải thoát nhiều, giữ giới ít thì giải
thoát ít. Chữ Pàtimokkha cũng có nghĩa trói buộc, giữ gìn, thúc liễm những hành
động của thân khẩu ý để tạo ác nghiệp.
Ngoài ra, Giới
còn có nghĩa là điều phục, chế ngự bằng sự tỉnh giác, chế ngự bằng tri kiến,
bằng kham nhẫn, bằng tinh tấn… để cho ba nghiệpthanh tịnh, và Giới luật cũng đồng
nghĩa vớinếp sống có luân lýđạo đức, nếp sốnghướng thượng.
Luật là pháp
luật, là những quy tắc đem ra cân xử, phán xét đúng sai, nặng nhẹ…
Phân loại
Giới
Giới của Đức
Phật chế gồm có hai loại: Biệt giải thoát Giới và Bồ tát Giới. Biệt giải Thoát
đã định nghĩa ở trên, ở đây ta tìm hiểu về Bồ tát Giới. Bồ tát Giới còn gọi là
thông Giới, để phân biệt với Biệt Giải Thoát của hàng xuất gia, Giới của hàng
Thanh Văn. Bồ Tát dịch từ chữ Buddhisattva, tức là một chúng sanh có thể giác
ngộthành Phật. Giới Bồ tát được nói trong kinh Phạm Võng là những hành vi,
giới hạnh, những học pháp đưa đến thành tựuBồ Đề tâm.
Theo quan điểmĐại Thừagồm có ba loại giới: Nhiếp Luật Nghi Giới, Nhiếp thiện Pháp Giới, và
Nhiêu Ích Hữu Tình Giới.
Nhiếp Luật Nghi
Giới là những giới điều cụ thể dành cho các bậc tu hành khác nhau, bao gồm giới
của Tại gia và Xuất gia. Tại gia có Ngũ giới, Bát Quan Trai giới, Thập Thiện. Xuất
gia có: Sa di, Sa di ni có mười giới, Thức Xoa Ma Na Ni có thêm sáu học giới.
Tỳ kheo hai trăm năm mươi giới, Tỳ kheo Ni ba trăm bốn tám giới. Bồ Tát có mười
giới trọng, bốn mươi tám giới khinh.
Nhiếp Thiện
Pháp giới nghĩa là người tu hànhchuyên tâmthực hành những hành vitoàn thiện
và xem đó cũng là một hình thứcthực hànhgiới không còn bị rơi rớt trong trong
sinh tử luân hồi.
Dựa vào động cơ
và nghiệp lực của chúng sanh, người ta có thể chia thành ba loại giới đó là bậc
hạ, bậc trung, bậc thương. Giới bậc hạ là thọ trì giới do mưu cầu danh lợi, vì
động lựctham ái, do vậy còn tái sinh. Giới bậc trung là thọ trì giới mong muốn
được công đức, còn chấp nhận tướng, chấp phước báo hay giữ giới để lợi lạc
riêng mình. Giới bậc thượng là thực hành giới vì cung kính giới, có niềm tin
vào giới, vì mục đíchlợi tha, không chấp ngã và cầu giới ý nghĩaba la mật.
Nguyên nhân
và mục đíchĐức phậtchế giới
Một hôm, tôn
giả Xá Lợi phấtbạch Phật: Bạch Thế Tôn làm sao để chánh phápNhư Lai sau khi
Như Laidiệt độ rồi, chánh pháp ấy vẫn được tồn tại lâu dài? Thế Tôn dạy: Đức Phật
nào mà có chế giới, nói pháp thì chúng đệ tử nhờ đó để tu hành, làm cho chánh
pháp được cửu trụ sau khi Như Laidiệt độ. Khi ấy Tôn giả Xá Lợi Phất thưa với Ngài
rằng: Bạch Thế Tôn tại sao con không thấy Thế Tônchế giới mà chỉ nói pháp?
Ngài dạy: này Tôn giả, ta biết thời phải làm gì, nay chưa tới thời nên ta chưa
chế giới. Vì thế mười hai năm đầu chưa xảy ra chuyện gì cấu uế Ngài chưa chế
giới.
Đến năm thứ
mười ba, người đầu tiên phạm giới là Tôn giả Na-đề-tử. Tôn giả là con nhà giàu
có, lại là con một, nhưng lại từ bỏgia đình xin Phật xuất gia. Sau đó vì sự nài
nỉ của mẹ, xin cho một đứa con để nối dòng; không cầm lòng được và nghĩ đơn
giản nên đã chấp nhận và cùng với vợ cũ ân ái một chút có sao đâu! Xong chuyện
thì Tôn giả ra đi, thậm chí sau đó sinh con Tôn giả cũng chẳng hay. Thời gian
sau thấy các vị tỳ kheo không có chuyện ân ái, tại sao mình lại bị vợ cũ ràng
buộc? Tôn giảbức rức trong lòng và tỏ ra khó chịu, ân hận.
Các vị tỳ kheo
hỏi: Tại sao thời gian đầu hiền giảhoan hỷ, sắc diện tươi tốt mà nay thấy ủ rũ
quá vậy? Tôn giả đem chuyện đó kể cho các vị tỳ kheo hay, các vị tỳ kheo đem
chuyện của tôn giả bạch lên đức Thế Tôn, Thế Tôn kêu lên quở trách. Bắt đầu từ
đó Phật mới chế giới, nên giới đứng đầu là hàng đệ tửxuất gia không được dâm
dục, dây là nguyên nhân Phật chế giới.
Mục đích
Phật chế giới là muốn cho tỳ kheotu tậpthanh tịnh:
Để tăng già
được mỹ mãn.
Để tăng già được
ổn định.
Để kiềm chế các tỳ
kheo khó kiềm giữ.
Để thiện tỳ kheo
được an ổn.
Đề chế ngự các lậu
hoặc trong hiện tại.
Để ngăn ngừalậu
hoặcđời sau.
Để tạo tin tưởng
cho những người tin tưởng.
Để xác tín cho
những người có lòng tin.
Để chánh pháp được
bền vững.
Để phụ trợ cho
luật.
Chúng ta thấy
Đức Phật không muốn đặt ra nhiều giới luật bắt buộc đệ tử phải hành trì. Ngài
giảng giới, dạy giáo lýđơn giản và thực tiễn cho sự chứng ngộtâm linh, và đa
số Phật chỉ chế giới khi có trường hợpvi phạm của chư tăng mà thôi. Như vậy,
giới là phương tiện để hành giảgạn lọcthân tâm, tận trừ mọi lậu hoặc, ngăn
chặn nghiệp bất thiện và tiến về chân hạnh phúc. Giới luậtPhật giáo mang đậm
tính nhân văn, nhân bản và linh động trong sự phân biệt từng loại: khinh,
trọng, tánh tướng và trong mỗi trường hợp mà có cách ứng xử phù hợp như khai, giá,
trì, phạm. Căn bản của việc giữ giới vẫn là tâm tự nguyện, với tâm thanh tịnhgiữ gìngiới luật thì sẽ mang lại an lạc cho mình và cho người khác ngay trong
đời sống hiện tại.
Lợi ích của
việc hành trìgiới luật
Là đệt tử của
đức Thế Tôn không kể tại gia hay xuất gia, nếu khéo giữ gìngiới luật sẽ được
những lợi ích sau đây:
Được hưởng gia
tàipháp bảo nhờ tinh cần.
Tiếng lành đồn xa.
Không sợ hãi, rụt
rè khi đến trước hội chúng đông đảo.
Khi chết tâm khôngrối loạn.
Sau khi mạng chung
được sanh vào thiện trú thiên giới.
Trong các bộ
luận: Tập thập cú nghĩa, dĩ thập lợi cố, thập sự lợi ích… đều nói lên mười lợi
ích sau:
Nhiếp thủ ư
Tăng: vì kiện toàn Tăng già thành chúng thanh tịnh.
Linh Tăng hoan hỷ:
nhờ tu hànhphạm hạnh khiến chúng Tăng được hoan hỷ.
Linh Tăng an lạc:
vì hoan hỷ được an lạc nơi thiền định trong tư tâm.
Linh vị tín giả
tín: khiến người chưa có lòng tinTam bảo, thấy chư Tăngtu hànhphạm hạnhthanh tịnh mà sanh lòng tin.
Dĩ tín giả linh
tăng trưởng: đối với người đã tin rồi khiến lòng tin thêm tăng trưởng.
Nan điều giả linh
điều thuận: làm cho người khó điều phục khiến họ được điều thuận.
Tàm quý giả đắc an
lạc: khiến người biết hổ thẹn được an lạc.
Đoạn hiện tạihữu
lậu: vì đoạn hết phiền nãohiện tại.
Đoạn vị laihữu
lậu: vì đoạn hết phiền não ở vị lai.
Linh chánh phápcửu trụ: vì tu hànhphạm hạnh mà chánh pháp được trường tồnlâu dài.
Mười điều lợi
ích trên được đức Thế Tôn mỗi khi thiết lập một điều giới, ngay cả khi sắp sửa
nhập Niết Bàn, đức Thế Tôn đã ân cầndạy bảo: “Này các Tỳ kheo, sau khi ta diệt
độ, các vị phải tôn trọng trân quý Ba La Đề Mộc Xoa như người đi trong đêm tối
gặp đèn sáng, như người nghèo được của quý, dù ta có trụ ở đời cũng không có gì
khác.” (Kinh Di Giáo, SG Thích Hoàn Quan, trang 10, Hoa Đạo 1970)
Tầm quan trọng
của giới luậttrong đời sống tu tập
Tất cả Giới
luậtđức Thế Tôn đều là những chuẩn mực đạo đức làm nền tảng cho sự giải thoát
mọi khổ đau, cắt đức mọi tham áiràng buộc. Vì thế Giới luật đóng vai trò quan
trọng trong việc tu tậpgiải thoát. Hành trìGiới luật là làm theo những lời
đức Phật dạy, luôn luôn sống với sự chế ngự của Giới Bổn như Ngài từng khuyên
cáo: “Này các Tỳ kheo, ta khuyến cáo các người hướng đến Sa môn hạnh, chớ có từ
bỏmục đích này, khi đang còn công việc phải làm hơn nữa? Thân mạng của chúng
ta phải được thanh tịnh, phải hộ trì các căn, biết tiếc độ trong ăn uống, chú
tâm cảnh giác, chánh niệm tỉnh giác…” (Trung bộ I, P.593, 1992).
Lại nữa, đức
Thế Tôn dạy: “Nhơn Giới sanh Định, nhơn Định phát Tuệ”, muốn cầu được trí tuệ
tất phải tu Thiền định và trước hết phải giữ gìnGiới luật. Nếu Giới luật mà
khuyết thì Thiền định sẽ khó thành. Thiền định không thành thì Trí tuệ cũng
không do đâu mà phát sinh. Bởi thế, Tam vô lậu học là pháp môncăn bản của
người học Phật, cũng như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một chân thì không thể đứng
được. Cũng vậy trên đường đi đến giải thoát, nếu thiếu một trong ba yếu tố trên
đạo quả sẽ khó thàh tựu được.
Trong đời sống
tu tập của mỗi hành giả, Giới luật được xem là thức ăn, nước uồng để bổ dưỡng
cho pháp thân, Giới luật như tròng con mắt của chính mình hãy thận trọnggiữ
gìn, nên đức Thế Tôn luôn nhắc nhở rằng: “Giới luật là mạng mạch của Phật pháp,
Giới luật còn là Phật pháp còn, Giới luật mất là Phật pháp mất”. Như trong kinh
Phạm VõngBồ Tát giới có câu:
“Giới như đèn
sáng lớn
Soi sáng đêm tăm
tối
Giới như gương báu
sáng
Chiếu rõ tất cả
pháp”.
Giới luậttrong
đời sống hiện tại
Trải qua nhiều
thời kỳ, có nhiều vấn đề được đưa ra bàn thảo, nhưng giới luật vẫn là tiền đề,
vì sao vậy? Vì rằng: nó có thể đem lại sự hưng hay phế cho cộng đồngtăng
chúng, quyết định cho sự tồn vong của Phật giáo. Vấn đề đặc ra không chỉ giải
minh trên bình diện lý luậnvăn chương, mà thực sự chúng ta phải tư duy, xác
quyết và trắc nghiệm thế nào để mỗi thành viên Tăng trong tự viện, tịnh xá,
tĩnh thất… từng bước hoàn thiện nhân cách phẩm hạnh cho chính bản thân mình,
nhằm đem lại đời sốngan lạchiện tại, giải thoát trong tương lai.
Là Tăng sĩ,
việc “thượng cầu hạ hóa” đưa đạo vào đời là hoài bảo, song việc dụng tâmgiữ
gìnphạm hạnh không bị đồng hóa bởi thế tục là điều luôn luôn canh cánh bên
lòng. Hai chữ “tùy duyên” được chúng tathực hiện sao cho nó có ý nghĩatích
cực: “tùy thuận chúng sanh, dĩ văn tải đạo” đừng để nó bị biểu thị theo nghĩa
“phan duyên trần cảnh, ô nhiễm thân tâm”.
Tuy nhiên với
một xã hộihiện đại hóa, văn minh và phát triển, thì chúng ta cũng dùng chút
phương tiệngiáo hóathế gian, mới hòa nhập vào cuộc sống của mỗi cá nhân, gia
đình và xã hội một cách hợp lý và đầy trí tuệ.
Nhưng với hình
thức nào, phương tiện ra sao, cái căn bản của người xuất gia thì không thể
phương tiện được, nói rõ hơn cái gì thuộc về giới tánh, giới thể cái đó không thể
phương tiện được.
Nhưng người
xuất gia có quyền hòa nhập vào cuộc đời bởi vì “Phật pháp bất ly thế gian giác”.
Nhưng không cho nó hòa hợp và hòa tan một cách dễ dàng, ta không nên phương
tiện quá khiến mình trở nên thế tục hóa lúc nào không hay.
Với người xuất
gia trẻ thời nay có đầy đủ khả năng làm cho Phật pháp hưng thịnh và phát triển
mạnh, song bên cạnh đó cũng không ít thành phầntham giaphá hoại làm cho Phật pháp
ngày một giảm đi. Mặc dù Phật giáo chú trọng về tâm, về tánh không đặt nặng về
tướng lắm, nhưng một con sâu làm rầu nồi canh, một đống phân nhỏ có thể làm ô
uế căn nhà rộng, do đó ta không thể xem thường được.
Nhiều người
xuất gia trẻ thời bây giờ dễ rơi vào trường hợp này, nhưng họ không hề hay biết
vì cho rằng phương tiện hóa. Ở đây tôi không tiện nói rõ ra, nhưng hy vọng rằng
họ sẽ tỉnh thức trong một mai, cho dù hành vi đó trong giới điều của Phật không
có nhưng nó rất nguy hiểm cho Phật giáochúng ta.
Sống trong một
cộng đồng, thường thường cái gì được cho là tốt đẹp thì tập trung phát triển
mạnh, điều đó cũng xảy ra không ít phiền toái. Phật giáo đang phát triển trên khắp
năm châu bốn bể, nhưng chúng ta đừng sớm hãnh diện và chủ quan mà phải nỗ lực,
phấn đấu để bảo vệPhật pháp ngày càng trong sáng và lành mạnh hơn, vì Phật
giáochúng ta là đạo trí tuệ, đạo bình đẳng, là đạo sống cho nhân loại, không
để cho một vết nhơ mà nhòa cả trang giấy trắng.
Trong kinh Di
Giáođức Phật dạy rằng: “tất cả các ma vươngngoại đạo, không ai có thể phá
hoại được giáo pháp của ta, chỉ có đệ tử ta mới làm cho giáo pháp ta bị hủy
diệt”. “Chỉ có trùng trong thân sư tử mới ăn được thịt sư tử mà thôi”.
Có người hỏi
tôi rằng: Giới luật đối với một xã hộihiện đại này có còn phù hợp nữa không?
Xin thưa rằng:
Phù hợp hay không phù hợp điều đó còn ở người hành trì. Chẳng hạn khi đức Phật
còn tại thế không cho đệ tử sống gần những nơi đông người, náo nhiệt hoặc không
cho nắm giữ vàng bạc… Nhưng bây giờ phần đông tu sĩ đều cư trú nơi đô thị, đông
đúc, vì sao? Vì để đáp ứng lại nhu cầu mà chúng sanh muốn tham hiểu và học hỏi từ
Phật giáo, do đó những thành viên của Phật giáo phải phương tiệnhọc hỏi và tu
tập với kiến thứcthế gian cùng trí tuệPhật giáo trao truyền một cách thực tế
hơn, dễ hiểu hơn. Đây là mặt tinh thần.
Còn về phần vật
chất, khi Phật còn tại thếđời sống và sinh hoạt của người xuất gia đa phần
được cư sĩtại giahộ trì và cung cấpcúng dường một cách hoàn mãn. Đời sống
thì sống theo Tăng đoàn, mọi vấn đề đều chung, thậm chí tinh xá nơi Phật trú
ngụ đều do cư sĩxây dựng. Ngược lại, bây giờ người tu sĩPhật giáo đa phần
phải sống theo cá nhân và tự lực, theo khả năng và điều kiện của mỗi người, tuy
nhiên cũng có phần đóng góp của cư sĩ. Do vậy, việc cấm nắm giữ vàng bạc bây
giờ không còn phù hợp nữa. Vì muốn xây dựng một vấn đề gì đó nếu không nắm giữ
những điều kiện đó lấy gì làm, đây là thực tế không thể chối cãi. Do vậy, nếu
nhìn về Phật giáo phải nhìn bằng cặp mắt “đa diện” chứ đừng nhìn bằng cặp mắt
“phiến diện”, vì Phật giáo là tùy duyên bất biến, không lệ thuộc bất cứ một mặt
nào cả.
Tóm lại là
người con Phật phải đặt mục tiêutrí tuệ lên hàng đầu. Học thôi chưa đủ mà phải
có thực nghiệm của sự tu đạo. Bằng phương pháphành trìgiới luật để trang nghiêmpháp thân. Như thế mới đủ trí lực, đủ bản lĩnh, đủ nhẫn nhục, đủ từ bi, đủ
khiêm hạ, đủ bất khuất để dấn thân trong sứ mạng: “hành Như Lai sứ, tác Như Lai
sự”. Cho nên đuốc trí tuệ luôn tỏa sáng, đem giới luậtáp dụng vào đời cho tỏ
đạo.
Lại nữa mỗi
hành giảtu tập phải ý thức được rằng: “giới luật là mạng mạch, là nhịp đập của
con tim, là không khí, là thức ăn, nước uống cho đời sốnghằng ngày. Nếu ai không
khéo nỗ lựchành trì một cách nghiêm túc, e rằng đã không đem lại hạnh phúcan
lạc mà ngược lại nó sẽ trở thành sự trói buột cho chính bản thân mình mà còn
ảnh hưởng cho đạo pháp và dân tộc.
Còn nếu ai khéo hộ trìgiới luật, xem giới luật là thầydẫn đường đi
trong đêm tối vô minh thì người đó ngày một thăng hoa trong đời sống của tâm
linh. Sớm cải thiện được mọi hành vi xấu ác, làm cho phẩm hạnh và giá trịđạo đứctăng trưởng một cách trọn vẹn. Bởi đạo đức của một con người theo định nghĩa
đều nằm trong giới luậtPhật giáo mà ra. Do vậy, nếu một con người, một xã hội,
một quốc gia… biết áp dụnggiới luật vào đời sốnghằng ngày thì điều chắc chắncon người đó, xã hội đó, sẽ không còn cảnh đầu rơi máu đổ, ân oánhận thù xảy ra
trong cuộc sống.