Giới Thiệu Kinh Hoa Nghiêm

GIỚI THIỆUKINH HOA NGHIÊM
Cao Quán Như ; CS. Định Huệ dịch
(Trích từ TRUNG QUỐC PHẬT GIÁO tập 3)

Kinh
Hoa Nghiêm
, gọi đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, là bộ kinh điển
trọng yếuhiển bàyý nghĩatuyệt vời về nhân hạnh quả đức của Phật-đà như tạp
hoa
trang nghiêm rộng lớn viên mãn, vô tậnvô ngại, qua các vị Bồ-tát lớn Phổ
Hiền
, Văn-thù, sau khi Phật thành đạo tại các nơi như Bồ Đề Tràng v.v…

Bản Hán dịch
kinh
này có 3 :

  • Bản dịch của Phật-đà-bạt-đà-la, đời Đông
    Tấn, nhan đề ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH, 60 quyển, vì để phân
    biệt
    với bản dịch đời Đường nên được gọi là Cựu dịchHoa Nghiêm, hoặc Lục
    thập Hoa Nghiêm
    .
  • Bản dịch của Thật-xoa-nan-đà vào đời Đường
    Võ Chu, nhan đề ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH, 80 quyển, còn gọi Tân
    dịch Hoa Nghiêm
    , hoặc Bát thậpHoa Nghiêm.
  • Bản dịch của Bát-nhã vào niên hiệu Trinh
    Quán đời Đường, cũng mang tên ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM KINH, 40
    quyển, gọi đủ tên là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Nhập Bất Tư
    Nghị
    Giải ThoátCảnh GiớiPhổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, gọi tắt là Phổ Hiền
    Hạnh Nguyện
    Phẩm, hoặc Tứ thập Hoa Nghiêm.

Nguyên
bản Phạn văn của bản dịch thứ nhất của kinh này có 36.000 bài kệ, do đệ tử của
ngài Huệ ViễnPháp Lĩnh mang về từ Vu Điền (nay là vùng Hòa Điền, Tân
Cương
), được Tam tạng Phật-đà-bạt-đà-la, người Thiên Trúc dịch ra chữ Hán
tại chùa Đạo TràngDương Châu (nay là Nam Kinh) vào ngày mùng 10 tháng
03, niên hiệu Nghĩa Hy thứ 14 đời Tấn (418). Tam tạng tay cầm bản Phạn dịch ra
chữ Hán, Pháp Nghiệp bút thọ, Huệ Nghiêm, Huệ Quán … nhuận văn, quan Nội Sử ở
Ngô quận tên Mạnh Khải, Hữu vệ tướng quân Chử Thúc Độ làm đàn việt, dịch xong
ngày mùng 10 tháng 06, niên hiệu Nguyên Hy thứ 2 (420), hiệu đínhhoàn tất vào niên
hiệu Vĩnh Sơ thứ 2 đời Lưu Tống (421) (Xem XUẤT TAM TẠNG KÝ TẬP quyển 9). Lúc
mới dịch thì chia làm 50 quyển, sau chia lại thành 60 quyển, gồm 34 phẩm trình
bày việc thuyết pháp tại 8 hội, 7 chỗ. Về sau, vào tháng 03 niên hiệu Vĩnh Long
nguyên niên (680) đời Đường, ngài Tam tạng Địa-bà-ha-la, người Thiên Trúc
ngài Pháp Tạng hiệu khám kinh này, thấy trong Phẩm Nhập Pháp Giới còn thiếu
sót
, Ngài từ bản Phạn dịch thêm một đoạn văn từ “Ma-da Phu Nhân …”
đến “Di-lặc Bồ-tát” bổ sung vào (Xem HOA NGHIÊM KINH THÁM HUYỀN KÝ
quyển 1), thành ra bộ KinhHoa Nghiêm 60 quyển đang hiện hành.

Nguyên bản Phạn
văn của bản dịch 80 quyển, gồm 45.000 bài tụng, do Võ Tắc Thiên đời Đường sai
sứ đến Vu Điền mang về, và thỉnh ngài Tam tạng Thật-xoa-nan-đà, người Vu Điền, bắt
đầu dịch tại chùa Đại Biến Không ở Lạc Dương vào ngày 14 tháng 03, niên hiệu
Chứng Thánh nguyên niên (695), đích thân Võ Hậu đến dịch trường đề tên phẩm đầu
tiên, các ngài Bồ-đề-lưu-chí, Nghĩa Tịnh đồng tuyên bản Phạn, các ngài Phục Lễ,
Pháp Tạngtham dựbút thọ, nhuận văn, đến ngày 18 tháng 10, niên hiệu Thánh
Lịch thứ 2 (699) dịch xong tại chùa Phật Thọ Ký (Xem KHAI NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC
quyển 9), thành 80 quyển, chia làm 39 phẩm, gồm việc thuyết pháp tại 7 chỗ (đồng
bản Cựu dịch)
, 9 hội (8 hội đồngCựu dịch, thêm 1 hội Phổ QuangPháp
Đường
)
. Về sau, ngài Pháp Tạng thấy trong Phẩm Nhập Pháp Giới của kinh này
còn có chỗ thiếu sót, Ngài mới cùng với Địa-bà-ha-la hiệu khám Phạn văn, ở đầu
quyển 80 từ “Bồ-tát Di-lặc” cho đến “ở trước tam thiên đại thiên
thế giới
vi trần sốthiện tri thức” bổ sung vào 15 hàng “Văn-thù duỗi
tay xoa đầu Thiện Tài” (Xem HOA NGHIÊM KINH SỚ quyển 3, HOA NGHIÊM LƯỢC
SÁCH), tức là bản 80 quyển đang lưu hành hiện nay.

Nguyên bản Phạn
văn của bản dịch thứ ba, 40 quyển của kinh này gồm 16.700 bài kệ (Xem TRINH
NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC quyển 17) là bản do chính tay nhà vua nước Ô-đồ, Nam
Thiên Trúc
sao chép sai sứ đem tặng vua Đường vào tháng 11 niên hiệu Trinh Quán
thứ 11 (795). Tháng 6 năm sau (796), Đường Đức Tông thỉnh Tam tạng Bát-nhã
phiên dịch tại chùa Sùng Phước ở Trường An, Quảng Tế dịch ngữ, Viên Chiếubút
thọ
, Trí Nhu, Trí Thôngbiên tập, Đạo Hoằng, Giám Linh nhuận văn, Đạo Chương, Đại
Thông chứng nghĩa, Trừng Quán, Linh Thúy … tường định, đến tháng 2 năm thứ 14
(798) dịch xong, thành 40 quyển. Nội dung bộ này đồng với Phẩm Nhập Pháp Giới
của hai bản Cựu dịchTân dịch nói trên, nhưng trên văn tự tăng thêm rất
nhiều, nhất là quyển thứ 40 có mười đại hạnh nguyện và bài Phổ Hiềnquảng đại
nguyện vương thanh tịnh kệ mà trong hai bản dịch KinhHoa Nghiêm trước chưa có.

Ngoài ba bản
dịch kể trên, cũng có không ít một phẩm nào đó hoặc một phần nào đó của kinh
này được truyền dịch ở Trung Quốc. Như trong thế kỷ II, đời Hậu Hán,
Chi-lâu-ca-sấm đã từng dịch KinhĐâu Sa 1 quyển tại Lạc Dương, đây là bản dịch
biệt hành đầu tiên của kinh này. Chi Khiêm đời Ngô, Trúc Pháp Hộ, Nhiếp Đạo
Chân
đời Tây Tấn cho đến các đời Nam Bắc Triều, Tùy, Đường đều có bản dịch biệt
hành
của kinh này, trong HOA NGHIÊM KINH TRUYỆN KÝ quyển 1 của Pháp Tạng
liệt kê 35 bộ của bản dịch biệt hành kinh này.

Nay đem các bản
biệt hành hiện còn đối chiếu với các phẩm trong bản dịch đời Đường như sau :

  • Phật ThuyếtĐâu Sa Kinh, 1 quyển (phẩm Như
    Lai
    Danh Hiệu, phẩm Quang Minh Giác), Chi-lâu-ca-sấm dịch vào đời Hậu Hán.
  • Phật Thuyết Bồ-tát Bản Nghiệp Kinh, 1 quyển
    (phẩm Tịnh Hạnh, phẩm Thập Trụ), Chi Khiêm dịch vào đời Ngô.
  • Chư Bồ-tát Cầu Phật Bản Nghiệp Kinh, 1
    quyển (phẩm Tịnh Hạnh), Nhiếp Đạo Chân dịch vào đời Tây Tấn.
  • Bồ-tát Thập TrụHành Đạo Phẩm, 1 quyển
    (phẩm Thập Trụ), Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn.
  • Bồ-tát Thập Trụ Kinh, 1 quyển (phẩm Thập
    Trụ
    ), Kỳ-đa-mật dịch vào đời Đông Tấn.
  • Tiệm Bị Nhất Thiết Trí Đức Kinh, 5 quyển
    (phẩm Thập Địa), Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn.
  • Thập Trụ Kinh, 4 quyển (phẩm Thập Địa),
    Cưu-ma-la-thập dịch vào đời Hậu Tần.
  • Phật ThuyếtThập Địa Kinh, 9 quyển (phẩm
    Thập Địa), Thi-la-đạt-ma dịch vào đời Đường.
  • Đẳng Mục Bồ-tát Sở Vấn Tam-muội Kinh, 3
    quyển (phẩm Thập Định), Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn.
  • Hiển Vô Biên Phật Độ Công Đức Kinh, 1 quyển
    (phẩm Thọ Lượng), Huyền Trang dịch vào đời Đường.
  • Phật ThuyếtGiảo LượngNhất ThiếtPhật SátCông Đức Kinh (phẩm Thọ Lượng), Pháp Hiền dịch vào đời Tống.
  • Phật Thuyết Như Lai Hưng Hiển Kinh, 4 quyển
    (phẩm Như LaiXuất Hiện), Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn.
  • Độ Thế Phẩm Kinh, 6 quyển (phẩm Ly Thế
    Gian
    ), Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn.
  • Phật Thuyết La-ma-ca Kinh, 3 quyển (phẩm
    Nhập Pháp Giới), Thánh Kiên dịch vào đời Tây Tần.
  • Văn-thù-sư-lợi Phát Nguyện Kinh, 1 quyển
    (phẩm Nhập Pháp Giới), Phật-đà-bạt-đà-la dịch vào đời Đông Tấn.
  • Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Nhập
    Pháp Giới Phẩm
    , 1 quyển (phẩm Nhập Pháp Giới), Địa-bà-ha-la dịch vào đời Đường.
  • Phật Hoa Nghiêm Nhập Như Lai Trí Đức Bất Tư
    Nghị
    Kinh, 2 quyển (hội Phổ QuangPháp Đường), Xà-na-quật-đa dịch vào đời
    Tùy.
  • Đại Phương Quảng Nhập Như Lai Trí Đức Bất
    Tư Nghị
    Kinh, 1 quyển (hội Phổ QuangPháp Đường), Thật-xoa-nan-đà dịch vào
    đời Đường.
  • Đại Phương QuảngNhư Lai Bất Tư Nghị Cảnh
    Giới Kinh
    , 1 quyển (biệt bản Hoa Nghiêm), Thật-xoa-nan-đà dịch vào đời
    Đường.
  • Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm KinhBất
    Tư Nghị
    Phật Cảnh Giới Phần, 1 quyển (biệt bản Hoa Nghiêm), Đề Vân Bát-nhã
    dịch vào đời Đường.
  • Đại Phương QuảngPhổ Hiền Sở Thuyết Kinh, 1
    quyển (biệt bản Hoa Nghiêm), Thật-xoa-nan-đà dịch vào đời Đường.

Đến
như Kinh Hoa Nghiêm 40 quyển do ngài Bát-nhã dịch vào đời Đường cùng đồng dạng
là bản biệt hành của phẩm Nhập Pháp Giới trong toàn bộKinh Hoa Nghiêm.

Bản dịch Tạng
văn của kinh này do các ngài Thắng Hữu, Thiên Vương Bồ-đề người Ấn Độ và ngài
Trí Quân người Tây Tạngcộng tácphiên dịch từ Phạn văn, ngài Biến Chiếu Hộ
hiệu đính thành 115 quyển (Nại Đường Mục Lục ghi 130 quyển, Đức Cách Mục Lục
ghi 116 quyển, thật ra là 115 quyển
), chia làm 45 phẩm; 44 phẩm đầu tương
đương với 38 phẩm đầu của bản dịch đời Đường, phẩm thứ 45 tương đương với phẩm
Nhập Pháp Giới thứ 39 của bản dịch đời Đường. Bản Tạng dịch so với bản Hán
dịch, có thêm phẩm thứ 11 và phẩm thứ 32, ngoài ra, văn cú trong các phẩm khác cũng
thêm bớt chút ít.

Về bản Phạn của
kinh này, như NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH q. 15, bản dịch đời Lương ghi : Kinh
Hoa Nghiêm
có 100.000 bài kệ, nên gọi là Bách Thiên Kinh. Còn HOA NGHIÊM KINH
TRUYỆN KÝ q. 1 nói : Theo truyền thuyết, Hoa Nghiêm Kinh Đại Bất Tư NghịGiải
Thoát
này có ba bản, hai bản Thượng và Trung ẩn giấu chẳng truyền, bản Hạ có
100.000 bài kệ, 48 phẩm, hiện đang lưu truyền tại Thiên Trúc. Ở đây nói bản Hạ
100.000 bài kệ hiện đang lưu hành tại Thiên Trúc rất phù hợp với Kinh Bất Tư
Nghị
Giải Thoát có 100.000 bài kệ được ghi trong Luận Đại Trí Độ q.100, và Kinh
Hoa Nghiêm
bản Phạn có 100.000 bài kệ được đề cập tới trong Lục thập Hoa Nghiêm
Hậu Ký, bản dịch đời Tấn, đủ chứng minh kinh này cũng có tên Kinh Bất Tư NghịGiải Thoát gồm 100.000 bài kệKinh Tứ Thập Hoa Nghiêm là một phần trong đó.
Như TRINH NGUYÊN THÍCH GIÁO LỤC q. 17 ghi : “Bản Phạn của Kinh Đại Phương
Quảng Phật Hoa Nghiêm
gồm có 6 pho, 100.000 bài kệ, đời Đường đã dịch 80 quyển
tương đương với pho thứ 2; Kinh Hoa Nghiêmquốc vươngNam Thiên Trúc đã từng
giảng là pho thứ 3 (tức bản Phạn Tứ thập Hoa Nghiêm do ngài Bát-nhã dịch)
có 16.700 bài kệ”. TỨ THẬP HOA NGHIÊM KINH HẬU KÝ cũng nói bản Phạn này là
bản KinhĐại Phương Quảng PhậtHoa Nghiêm đã được vua nước Ô-đồ ở Nam Thiên
Trúc
tự tay biên chép, trong 100.000 bài kệ ấy có phẩm “Đồng tử Thiện Tài
thân cận thừa sự 55 vị thiện tri thức bậc Thánh trong số Phật sátvi trần sốthiện tri thức nhập Bất Tư NghịGiải ThoátCảnh GiớiPhổ Hiền Hạnh
Nguyện”. Tham khảo thêm Thập Địa Kinh Luận của Thế Thân, cùng các Thích
Luận
của các ngài Kim Cương Quân, Kiên Huệgiải thích phẩm Thập Địa của kinh
này; Luận Đại Thừa Tập Bồ-tát Học của Tịch Thiên cũng dẫn dụng kệ tụng của phẩm
Hiền Thủ trong kinh này, thì có thể thấy phẩm Nhập Pháp Giới, phẩm Thập Địa chođến các phẩm khác của kinh này, tại Ấn Độ thời cổ đại đã trở thành từng kinh
riêng lẻ lưu hành. Trong đó, phẩm Nhập Pháp Giới (tức Tứ thập Hoa Nghiêm)
và phẩm Thập Địa là 2 trong 9 bộ kinh lớn được đọc tụngrộng rãi từ xưa đến nay
trong giới Phật giáo Népal, nhờ đó mà bản Phạn của 2 phẩm này được bảo tồncho
đến
nay. Đến thế kỷ XIX, bản Phạn của 2 phẩm này cùng với các sách chữ Phạn
khác lại do Nepal lưu truyền đến các quốc giaẤn Độ, Anh, Pháp, Nhật Bản v.v… và
được hiệu khám xuất bản. Bản Phạn phẩm Thập Địa hiện đang lưu hành là bản do
Cận Đằng Hoảng Diệu hiệu san (Đông Kinh, 1936), phẩm Nhập Pháp Giới do Linh Mộc
Đại Chuyết
và Tuyền Phương Cảnh hiệu san (Đông Đô, 1934-1936), Phổ Hiền Bồ-tát
Hạnh Nguyện Tán do Độ Biên Hải Húc hiệu san (1902). Còn các bản Phạn của các
phẩm khác dường như đều đã thất lạc, chưa thấy phát hiện.

Trong các bản
Hán dịch kinh này, bản 80 quyển dịch vào đời Đường, văn nghĩa lưu loát nhất,
phẩm mục hoàn bị hơn hết, vì thế được lưu truyềnrộng rãi tại Trung Quốc. Sau
đây, nội dung Kinh Hoa Nghiêm sẽ được lược thuật theo bản dịch này.

Kinh Hoa Nghiêm
bản dịch đời Đường được hình thành từ 9 hội thuyết pháp :

– Hội thứ
nhất :

Phật mới thành
Chánh giác
tại Bồ-đề đạo tràng, đạo tràng được trang nghiêm bằng vô lượng diệu
bảo, thân Phật Giá-na vạn đứcviên mãn ngồi tên tòa kim cang. Số Bồ-tát nhiều như
số vi trần của mười phươngthế giớicho đến các vị thần Kim cang lực sĩ, chư
thiên
, vị nào cũng đầy đủ vô lượngcông đức, cùng một lúc nhóm họp, mỗi vị đều nói
thi kệ ca tụngĐức Phật. Tất cả thế giới trong Hoa TạngTrang NghiêmThế Giới
Hải
cũng đều đồng thời hội nhập vào Phật cảnh giới. (Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm,
1).

Các Bồ-tát và
tất cả Thế gian chủ nói kệ hỏi Phật, Phật hiệnđiềm lànhphóng hào quang nói kệ
đáp, rồi lại hiện thần biến. Các vị Bồ-tát như Nhất Thiết Pháp Thắng Âm … mỗi
vị đều nói kệ ca tụng Phật. (Phẩm Như LaiHiện Tướng, 2).

Bấy giờ, Bồ-tát
Phổ Hiềnnhập Phật tam-muội, được chư Phật ngợi khen, xoa đầu, từ tam-muội dậy,
tất cả các Đức Như Lai khắp mười phương đều phóng hào quangngợi khen Bồ-tát Phổ
Hiền
, tất cả Bồ-tát cùng đồng ca tụng. (Phẩm Phổ Hiền Tam-muội, 3).

Bồ-tát Phổ Hiền
nhờ thần lực Phật nói với các Bồ-tát của hải chúng trong đạo tràng về 10 vấn đề
như : Thế giới hải …, phân biệt trình bày về hình tướngnguyên nhân của thế
giới
khắp mười phương. (Phẩm Thế GiớiThành Tựu, 4).

Bồ-tát Phổ Hiền
lại nói về Hoa TạngTrang NghiêmThế Giới Hải được trang nghiêm bằng vô lượng
diệu bảo, do công đức tu hànhxưa kia của Đức Tỳ-lô-giá-na, cho đến sự trang nghiêm
danh hiệu chư Phật của tất cả thế giới trong thế giới hải. (Phẩm Hoa Tạng
Thế Giới
, 5).

Bồ-tát Phổ Hiền
lại nói đây là do tiền thân của Đức Tỳ-lô-giá-na ở đời quá khứ, lúc còn làm
Thái tử Đại Oai Quang đã cúng dường chư Phật, đã tu vô lượngdiệu hạnh, mà
thành tựu được công đức trang nghiêm rộng lớn này. (Phẩm Tỳ-lô-giá-na, 6).

– Hội thứ
hai :

Phật ngồi trên
tòa hoa sen trong điện Phổ Quang Minh, hiển hiệnthần biến, các Bồ-tát ở khắp
mười phương đều đến nhóm họp. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nhờ oai lực của Phật nói
với các vị Bồ-tát về danh hiệu Phật, do vì tùy theo sự thấy biết khác nhau của
chúng sanhNhư Laivô lượngdanh hiệu bất đồng, vì chúng thuyết pháp.
(Phẩm Như LaiDanh Hiệu, 7).

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi
lại nói về các tên gọi khác nhau của bốn Thánh đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo trong cõi
Ta-bà và tên gọi bốn Thánh đếvô lượng bất đồng trong tất cả thế giới ở khắp
mười phương, đều tùy theo tâm chúng sanh mà khiến cho họ được điều phục. (Phẩm
Tứ Thánh Đế, 8).

Bấy giờ, từ
tướng bánh xe nghìn căm dưới lòng hai bàn chân Phật phóng ánh sáng chiếu khắp
mười phương, đều hiện Phật sự, ngài Văn-thù-sư-lợi nói kệ ca tụngvô biêncông đứchạnh nguyện của Phật. (Phẩm Quang Minh Giác, 9).

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi
và chín vị Bồ-tát như Giác Thủ … hỏi đáp qua lại về mười minh môn Phật phápsâu
xa
. (Phẩm Bồ-tát Vấn Minh, 10).

Bồ-tát Trí Thủ
hỏi, ngài Văn-thù-sư-lợi đáp về 140 hạnh nguyệnthanh tịnhphát khởivì lợi íchchúng sanh từ ba nghiệp thân, ngữ, ý của Bồ-tát. (Phẩm Tịnh Hạnh, 11).

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi
hỏi, Bồ-tát Hiền Thủ dùng kệ đáp về các vấn đềvô lượngcông đứcthù thắng, tín
nguyện
chắc thật, định huệthành tựuviên mãn … của Bồ-tát. (Phẩm Hiền Thủ,
12).

– Hội thứ ba
:

Đức Phật không
rời cây Bồ-đề, bay lên cung điện Đế-thích trên đỉnh núi Tu-di, Đế-thích trang
hoàng
cung điện, cung nghinh Đức Phật, rồi cùng chư Thiên nói kệ ca tụng Phật. (Phẩm
Thăng Tu Di Sơn Đảnh, 13).

Các Bồ-tát như
Pháp
Huệ … từ cõi nước Phật ở mười phương cùng đến nhóm họp, mỗi vị đều nói kệ
ca tụngvô lượngcông đức thắng diệu của Phật đã tu hành. (Phẩm Tu Di Đảnh Thượng
Kệ Tán, 14).

Do oai lực của
Phật, Bồ-tát Pháp Huệ nhập tam-muội Vô LượngPhương Tiện, được chư Phật ngợi
khen
và xoa đầu, Bồ-tát Pháp Huệ xuất định nói rộng về pháp mônThập trụ, trong
mỗi trụ đều có mười pháp văn, tu. (Phẩm Thập Trụ, 15).

Bấy giờ, Thiên
tử
Chánh Niệm đến hỏi, Bồ-tát Pháp Huệ tuyên thuyết về các pháp quán vô tướng
để tu tậpphạm hạnh. (Phẩm Phạm Hạnh, 16).

Trời Đế-thích
đến hỏi, Bồ-tát Pháp Huệ tuyên thuyết về các công đức vô lượng của Bồ-tát mới
phát tâm Bồ-đề, phát tâm thì có thể bình đẳng với Phật, cũng vô sở đắc. (Phẩm
Sơ Phát TâmCông Đức, 17).

Bồ-tát Tinh Tấn
Huệ hỏi : Bồ-tát mới phát tâm phải tu tập như thế nào ? Bồ-tát Pháp Huệ đáp về
các pháp môn phải tu và phải thành tựu như là : mười bất phóng dật, đắc mười thanh
tịnh
, mười Phật hoan hỷ, mười pháp an trụ, mười pháp nhập địa, mười pháp hạnhthanh tịnh, mười thanh tịnh nguyện, mười pháp viên mãnđại nguyện, mười vô tận
tạng
v.v… (Phẩm Minh Pháp, 18).

– Hội thứ tư
:

Phật lên cung
trời Dạ-ma, vua trời Dạ-ma trang hoàng cung điện, thiết tòa nghinh thỉnh Như
Lai
, nói kệ ca tụng Phật, đức Phật thăng tòa. (Phẩm Thăng Dạ-ma Thiên Cung,
19).

Các Bồ-tát
nhiều như vi trần, đó là : Bồ-tát Công Đức Lâm … đều đến nhóm họp, mười vị Đại
Bồ-tát, mỗi vị đều nói kệ ca tụnghạnh nguyệncông đứctrùm khắppháp giới của
Phật. (Phẩm Dạ-ma Cung Trung Kệ Tán, 20).

Nhờ oai lực của
Phật, Bồ-tát Công Đức Lâm nhập tam-muội Thiện Tư Duy, được chư Phật khen ngợi
xoa đầu. Bồ-tát Công Đức Lâm xuất định nói rộng về pháp mônThập Hạnh, và phân biệthành tướng của mỗi hạnh. (Phẩm Thập Hạnh, 21).

Bồ-tát Công Đức
Lâm lại nói với các Bồ-tát về từng hành tướngthập Vô tận tạng của Bồ-tát. Do
đây khiến cho mọi ngườitu hành đều thành tựuVô tận tạng. (Phẩm Thập Vô Tận Tạng,
22).

– Hội thứ
năm :

Phật lên cung
trời Đâu-suất, vua trời Đâu-suất trang hoàng cung điện, tòa ngồi nghinh thỉnh
Như Lai, nói kệ ca tụng Phật, Đức Phật thăng tòa. (Phẩm Thăng Đâu-suất Thiên
Cung, 23).

Mười vị Đại
Bồ-tát như Kim Cang Tràng … và số Bồ-tát nhiều như vi trần từ các thế giới Phật
khắp mười phương đến nhóm họp. Mỗi vị đều nói kệ ca tụngcông đức của Phật. (Phẩm
Đâu-suất Cung Trung Kệ Tán, 24).

Do oai lực của
Phật, Bồ-tát Kim Cang Tràng nhập tam-muội Trí Quang, được chư Phật ngợi khen
xoa đầu. Bồ-tát Kim Cang Tràng xuất định, nói rộng với các Bồ-tát về pháp mônThập
Hồi hướng
phân biệtgiải thíchhành tướngtu hành của từng giai vị. (Phẩm
Thập Hồi Hướng, 25).

– Hội thứ
sáu :

Phật ở Ma-ni
bảo điện trên cung trời Tha HóaTự Tại, các vị Đại Bồ-tát từ khắp mười phương
đều đến nhóm họp. Bấy giờ, do oai lực của Phật, Bồ-tát Kim Cang Tạng nhập tam-muội
Đại Trí HuệQuang Minh, được chư Phật khen ngợi và xoa đầu. Bồ-tát Kim Cang
Tạng
xuất định nói với đại chúng về tên gọi của Thập địa. Bấy giờ, các Bồ-tát như
Giải Thoát Nguyệt … thỉnh ngài giải thuyết, Phật cũng phóng hào quang hỗ trợ
oai thần, Bồ-tát Kim Cang Tạng bèn nói với đại chúng về hành tướngsâu xa của
pháp mônThập địa. (Phẩm Thập Địa, 26).

– Hội thứ
bảy :

Phật đang ở tại
điện Phổ Quang Minh, Bồ-tát Phổ Nhãn hỏi Phật về diệu hạnh tam-muội mà Bồ-tát
Phổ Hiền đã tu. Phật bảo ngài nên tự đến hỏi Bồ-tát Phổ Hiền. Bấy giờ đại chúng
mong muốn thấy được Bồ-tát Phổ Hiềnân cầnđảnh lễ, Bồ-tát Phổ Hiền dùng
thần lựcxuất hiện, nói với đại chúng về pháp môn cao sâu của mười đại tam-muội.
(Phẩm Nhập Định, 27).

Bồ-tát Phổ Hiền
nói với đại chúng về mười thứ thần thông. (Phẩm Thập Thông, 28).

Bồ-tát Phổ Hiền
nói với đại chúng về mười thứ pháp nhẫn. (Phẩm Thập Nhẫn, 29).

Bồ-tát Tâm
Vương
hỏi, Đức Phật đáp về số lượng a-tăng-kỳ bất khả thuyết, và sự lý của các
pháp thế gian, xuất thế gianbất khả thuyết. (Phẩm A-tăng-kỳ, 30).

Bồ-tát Tâm
Vương
nói với đại chúng về thọ lượng của thế giới chư Phật và so sánh sự dài
ngắn của chúng. (Phẩm Thọ Lượng, 31).

Bồ-tát Tâm
Vương
nói với đại chúng về trụ xứ của các Bồ-tát ở mười phương và địa danh
thường trú thuyết pháp của các ngài. (Phẩm Chư Bồ-tát Trụ Xứ, 32).

Bấy giờ, các vị
Bồ-tát mong muốn được biết về những việc không thể nghĩ bàn như là cõi nước,
bản nguyện, dòng họ, sự xuất hiện, thân Phật, âm thanh, trí huệ, tự tại, vô ngại,
giải thoát của Phật. Phật liền gia trì Bồ-tát Thanh LiênHoa Tạng nói với
Bồ-tát Liên Hoa Tạng về mười pháp môn không thể nghĩ bàn của chư Phật sở trụ.
(Phẩm Phật Bất Tư Nghì Pháp, 33).

Bồ-tát Phổ Hiền
nói với các Bồ-tát về thân tướngtrang nghiêm của Phật, nói sơ lược có 97 tướng
đại
nhân, cho đếntướng đại nhân nhiều như số vi trần trong mười Hoa Tạng thế
giới
hải. (Phẩm Như LaiThập Thân Tướng Hải, 34).

Phật nói với
Bồ-tát Bảo Thủ về tùy hình hảo của Như Lai, trong mỗi tùy hình hảo đều có ánh
sáng chiếu soi khắp pháp giới, có năng lựccứu khổđịa ngục, sanh lên trời
Đâu-suất cho đếnchứng đắccông đức rộng lớn vô tận của Thập địa … (Phẩm Như
Lai
Tùy Hảo Quang MinhCông Đức, 35).

Bồ-tát Phổ Hiền
nói với đại chúng về việc Phật vì cởi mở sự trói buộc cho chúng sanh, nên răn
dạy tâm sân hận hay làm chướng ngại trăm vạn pháp môn, do đó cần phải siêng năng
tu tập mười pháp, đủ mười thanh tịnh, mười trí rộng lớn, đắc mười thứ phổ nhập,
trụ nơi mười tâm thắng diệu, được mười trí thiện xảo của Phật pháp. (Phẩm Phổ
Hiền Hạnh Nguyện
, 36).

Bấy giờ, Phật
phóng ánh sáng giữa chặng mày tên gọi là Như LaiXuất Hiện Quang. Bồ-tát Như
Lai
Tánh Khởi Diệu Đức hỏi Phật về đại pháp. Phật lại phóng ánh sáng vào miệng Bồ-tát
Phổ Hiền, Bồ-tát Phổ Hiền liền nói rộng về việc Đức Phật dùng mười vô lượng
pháp xuất hiện, dùng mười vô lượng trăm nghìn a-tăng-kỳ hạnh để được thành tựu.
Nói xong, chư Phật ngợi khenthọ ký cho hội chúng. Cuối cùng, Bồ-tát Phổ
Hiền
nói kệ tụng khuyên đại chúngthọ trì. (Phẩm Như LaiXuất Hiện, 37).

– Hội thứ
tám :

Phật đang ở tại
điện Phổ Quang Minh, Bồ-tát Phổ Hiền nhập tam-muội Phật Hoa Tạng Trang Nghiêm,
từ tam-muội dậy, Bồ-tát Phổ Huệ hỏi 200 vấn đề như là : y chỉ của Bồ-tát, công hạnh
của Bồ-tát, cho đếnPhật thị hiện nhập niết-bàn …, Bồ-tát Phổ Hiền dùng mười
đáp một, phân biệt diễn nói 2000 pháp môn. Chư Phật hiện tiền khen ngợi. Bồ-tát
Phổ Hiền dùng kệ tụng nói lại công hạnh tu hành của Bồ-tát. (Phẩm Ly Thế Gian,
38).

– Hội thứ
chín :

Phật ở rừng
Thệ-đa cùng với 500 vị Đại Bồ-tát như Văn-thù, Phổ Hiền, các vị Đại Thanh văn
vô lượngThế chủ nhóm họp. Phật dùng đại bi nhập tam-muội Sư Tử Tần Thân chiếu
khắp mười phươngthế giớitrang nghiêm, mỗi thế giới đều có bất khả thuyết sát
vi trần số Bồ-tát đến dự hội, mỗi vị đều hiện thần biếncúng dường. Các vị Đại
Thanh
văn chẳng thấy, chẳng biết. Mười vị Đại Bồ-tát nói kệ ca tụng Phật.
Bồ-tát Phổ Hiền diễn nói mười pháp cú về tam-muội Sư Tử Tần Thân này.

Phật lại hiển
hiện
tướng các thần biến, các pháp môn, các tam-muội. Bồ-tát Văn-thù nói kệ
xưng tán, các Bồ-tát đắc vô sốpháp mônđại bi, đem lại sự lợi lạc cho chúng
sanh
khắp mười phương.

Bồ-tát Văn-thù
đại chúng giã từ Đức Phật để đi về phương Nam. Tôn giả Xá-lợi-phất cùng 6000
Tỳ-kheo cũng nhờ thần lựcPhật phát tâm cùng đi về phương Nam. Các ngài đi đến phía
đông Phước Thành tại Đại tháp miếu trong rừng ta-la Trang Nghiêm Tràng thuyết
pháp
. Lúc ấyđồng tửThiện Tài và 2000 người đến đảnh lễnghe pháp, phát tâm
bồ-đề. Trong số đó, đồng tửThiện Tàinhất tâmcầu đạo Bồ-tát, nói kệ thỉnh
giáo
, Văn-thù-sư-lợi chỉ dạy ngài đi tham học với các thiện tri thức. Đồng tửThiện Tài đi về phương Nam lần lượt tham phỏng 53 vị thiện tri thức, từ Tỳ-kheo
Đức Vân đến Bồ-tát Di-lặc, nghe nhận được vô sốpháp môn cam-lồ rộng lớn, sau
cùng gặp Bồ-tát Phổ Hiền. Từ sự khai thị của Phổ Hiền, ngài lần lượt đắc chư
hạnh
nguyện hải của Bồ-tát Phổ Hiền, cuối cùng ngài chứng nhậppháp giới. Kết
thúc
, Bồ-tát Phổ Hiền nói kệ ca tụngcông đức rộng lớn như biển cả của Phật.

Sau khi bản Tân
dịch
Kinh Hoa Nghiêmxuất hiện, từ thế kỷ VIII về sau, các học giảTrung Quốc
đều y cứ vào bản Tân dịch này diễn giảng, sớ thích. Nhưng trước khi bản Tân
dịch
này xuất hiện, ngài Hiền Thủ (Pháp Tạng) diễn giảng, sớ thích đều y cứ vào
bản 60 quyển được dịch vào đời Tấn. Do đó, đối với văn nghĩa của kinh này,
trong hai tác phẩmnổi tiếng của ngài Hiền Thủ là Thám Huyền Ký và Văn Nghĩa
Cương Mục đều y cứ vào bản Cựu dịch, đem toàn kinh chia làm 5 phần :

1. Phần giáo
khởi nhân duyên
(phẩm Thế GianTịnh Nhãn, bản Cựu dịch), đây là phần tựa của
toàn kinh.

2. Phần
quyền quả khuyến nhạo sanh tín (phẩm Lô-xá-na Phật, bản Cựu dịch) hiển bàyquả
đức
và nhân hạnh quá khứ của Phật Lô-xá-na khuyên sanh niềm tin.

3. Phần tu
nhân khế quả sanh giải (13 phẩm từ phẩm Như LaiDanh Hiệu, đến phẩm Bảo VươngNhư Lai Tánh Khởi, bản Cựu dịch) hiển thị nhân hạnh của Thập Tín, Thập Trụ,
Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập ĐịaPhật quả sở khế, để khiến sanh giải.

4. Phần thác
pháp tiến tu thành hạnh (phẩm Ly Thế Gian, bản Cựu dịch) hiển thị nương theo
hành pháp của các Bồ-tát, từ sự tiến tu thành hạnh Bồ-tát.

5. Phần y
nhân
nhập chứng thành đức (phẩm Nhập Pháp Giới, bản Cựu dịch), hiển thị do sự
dẫn dắt của thiện tri thức, chứng nhậppháp giới, thành tựuquả đức.

Lại phân phán
nội dung kinh này thành 5 chu nhân quả :

1. Sở tínnhân quả (phẩm Lô-xá-na Phật, bản Cựu dịch).

2. Sai biệtnhân quả (25 phẩm từ phẩm Như LaiDanh Hiệu đến phẩm Bồ-tát Trụ Xứ là nhân sai
biệt
; 3 phẩm từ phẩm Phật Bất Tư Nghì Pháp đến phẩm Phật Tiểu TướngQuang MinhCông Đức là quả sai biệt).

3. Bình đẳngnhân quả (phẩm Phổ Hiền Bồ-tát Hạnh, bản Cựu dịch, là bình đẳng nhân; phẩm Bảo
Vương
Như Lai Tánh Khởi, bản Cựu dịch, là bình đẳng quả).

4. Thành
hạnh nhân quả (phẩm Ly Thế Gian, bản Cựu dịch).

5. Chứng
nhập
nhân quả (phẩm Nhập Pháp Giới, bản Cựu dịch).

Nối tiếp theo
sau, Hoa Nghiêm Kinh Sớ (quyển 4) của ngài Thanh Lương cũng dùng thuyết 5 phần
và thuyết 5 chu nhân quả này để phân nhiếp văn nghĩa của 39 phẩm trong bộ Tân
dịch
80 quyển. Và sự phân phán này đã thành thông luận của các Sư thuộc tông
Hiền Thủxưa nay khi giải thích kinh này.

Các nhà chú
giải
xưa nay đều phân khoa kinh này thành ba phần : Tự, Chánh tông và Lưu
thông
. Các nhà đều lấy phẩm đầu tiên làm phần Tự. Phẩm Lô-xá-na Phật (tức phẩm
Như LaiHiện Tướng, bản Tân dịch)
trở đi làm phần Chánh tông. Ngay từ xưa,
phần Lưu thông của kinh này đã có nhiều ý kiến khác nhau, như ngài Huệ Quang,
đời Bắc Ngụy lấy phẩm Nhập Pháp Giới làm phần Lưu thông; ngài Huệ Viễn đời Tùy
lấy đoạn Đồng tửThiện Tài trở xuống trong phẩm Nhập Pháp Giới làm phần Lưu
thông
; ngài Linh Dụ đời Tùy lấy bài kệ tụng cuối cùng làm phần Lưu thông; còn có
người nói kinh này chưa kết thúc do đó không có phần Lưu thông; có người nói
lấy kinh quyến thuộc của kinh này làm phần Lưu thông; có người nói kinh này
thuyết pháp vô tận không dừng do đó không có phần Lưu thông.

Trong Hoa
Nghiêm Kinh Sớ
, ngài Trừng Quán nhìn nhận thuyết của ngài Huệ Viễnhợp lý,
vì thế Ngài cũng lấy từ đoạn Đồng tửThiện Tài trở xuống trong phẩm Nhập Pháp
Giới
làm phần Lưu thông. Và thuyết này về sau trở thành thông luận cho các Sư
thuộc tông Hiền Thủgiải thích kinh này.

Về tông thú
kinh này, xưa nay cũng có những kiến giải bất đồng; như ngài Đàm Diễn đời Tề
nói kinh này lấy Vô ngạipháp giớilàm tông; ngài Linh Dụ đời Tùy nói
kinh này lấy Thậm thâmpháp giớitâm cảnhlàm tông, có người nói kinh
này lấy Duyên khởilàm tông, có người nói kinh này lấy Duy thứclàm
tông. Hai ngài Pháp Mẫn, Pháp Ấn đời Đường nói kinh này lấy Nhân quảlàm
tông; ngài Huệ Viễn đời Tùy nói kinh này lấy Hoa Nghiêm Tam-muội làm
tông; ngài Đạt-ma-cấp-đa đời Tùy nói kinh này lấy Quán hạnhlàm tông; có
người nói kinh này lấy Hải ấn tam-muội làm tông, ngài Huệ Quang đời Bắc
Ngụy nói kinh này lấy Nhân quả lý thật làm tông; ngài Hiền Thủ (Pháp
Tạng
) đời Đường dựa vào thuyết của ngài Huệ Quang, tức là lấy Nhân quảduyên
khởi
lý thật pháp giới
làm tông thú của kinh này (Hoa Nghiêm Kinh Sớ 3,
Thanh Lương). Và ý kiến này về sau trở thànhkiến giải chung của các Sư trong
tông Hiền Thủ đối với kinh này.

Về nghĩa lý của
kinh này, được các học giả Phật giáonhất trítôn trọng. Từ Nam Bắc triềuđến
nay
, ba nhà Phật họcnổi tiếng ở Giang Nam đều phán giáo kinh này thuộc Đốn giáo,
và cho các kinh điển khác là Tiệm giáo hoặc Bất định giáo. Lúc ấy, bảy nhà Phật
học
ở phương Bắc phán giáo kinh này tuy bất đồng, nhưng cũng đều phán kinh này
Viên giáo cao nhất trong các giáo, hoặc Đốn giáo, Chân tông, Pháp giới tông
Về sau, ngài Cát Tạng lập ba lần chuyển pháp luân, lấy kinh này làm căn bản
pháp luân
; ngài Trí Khải, Tổ tôngThiên Thai, lập bốn giáo hóa nghi, liệt kinh
này vào Đốn giáo, lại lập bốn giáo hóa pháp, liệt kinh này vào Biệt giáo kiêm
Viên giáo; ngài Khuy Cơ, đời Đường lập ba thời giáo, lấy kinh này làm Trung đạo
giáo
; các Sư của tông Hiền Thủ phán kinh này thuộc Nhất thừaviên giáo trong năm
giáo, hoặc tông Viên minh cụ đức trong mười tông. Tóm lại, kinh này từ trước
đến nay đều được các nhà Phật họccông nhậnkinh giáoviên đốn hơn hết.

Về tình hìnhtruyền bá kinh này, tương truyền sau Phật diệt độ, kinh này đã bị ẩn mất tại Ấn
Độ
, về sau Bồ-tát Long Thọ hoằng truyền Đại thừa mới đem kinh này lưu truyền
đời. Ngài Long Thọ còn tạo Luận Đại Bất Tư Nghì với 100.000 bài kệ để giải
thích
kinh này, bản Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa (16 quyển) Hán dịch, hiện hành
một phần của luận này, chỉ giải nói Sơ địa và Nhị địa trong phẩm Thập Địa của
kinh này. Về sau Bồ-tát Thế Thân cũng dựa vào phẩm Thập Địa của kinh này biên
soạn
Thập Địa Kinh Luận để phát huy yếu nghĩa Hoa Nghiêm. Các luận sưKim Cang Quân,
Kiên Huệ, Nhật Thành, Thích Huệ mỗi vị cũng tạo Thích Luận để giải thíchThập
Địa Kinh Luận
(hai bản Thích Luận của ngài Nhật Thành và Thích Huệ hiện còn
bản dịch Tạng văn
), cho thấy một phần của kinh này đã từng lưu hànhẤn Độ
thời cổ đại. Còn về tình hìnhlưu truyềntoàn bộ kinh này vào thuở ấy thì không
rõ.

Từ đời Hậu Hán
(thế kỷ I), bản biệt hành của kinh này tại Trung Quốc, tuy lần lượt được dịch
ra không ít, nhưng sự hoằng truyền không được hưng thạnh. Đến đời Đông Tấn, bản
dịch 60 quyển của ngài Phật-đà-bạt-đà-la xuất hiện thì kinh này mới được người
học Phật tại Trung Quốc xem trọng. Từ đó, kinh này được truyền tụng, diễn giảng
cho đến sớ thích dần dần mạnh mẽ. Như ngài Pháp Nghiệp, người đầu tiên tham dựphiên dịch kinh này, đã đích thân nghe ngài Phật-đà-bạt-đà-la giảng, mà soạn
thành bộ Nghĩa Ký (2 quyển). Về sau, đời Lưu Tống, ngài Cầu-na-bạt-đà-la cũng
đã từng giảng kinh này nhiều lần. Ngài Huyền Sướng, đời Bắc Tề lại theo chương
cú của kinh này mà soạn thêm sớ giảng.

Đời Bắc Ngụy,
ngài Lặc-na-ma-đề cũng từng giảng kinh này, còn có Lưu Khiêm nghiên cứutinh
tường
kinh này, soạn Hoa Nghiêm Luận (600 quyển). Lúc ấy, ngài Bồ-đề-lưu-chi
dịch Thập Địa Kinh Luận. Do sự hoằng thôngĐịa Luận mà kinh này càng được phát
dương. Địa LuậnHuệ Quang soạn Quảng Sớ và Lược Sớ kinh này (hiện còn 1
quyển), và Ngài phán giáo kinh này thuộc Viên giáo.

Đời Bắc Tề,
ngài Tăng Phạm ở chùa Đại Giác trứ tác Kinh Sớ (5 quyển); ngài Đàm Tuân
Nghiệp Trung trứ tác Kinh Sớ (7 quyển); ngài Đàm Diễn ở Lạc Châu trứ tác Kinh
Sớ (7 quyển); ngài Linh Biện trứ tác Kinh Luận (100 quyển, hiện còn 1 quyển),
ngài Trí CựBắc Đài trứ tác Kinh Sớ (7 quyển).

Đời Tùy, ngài
Linh Dụ ở chùa Diễn Không tại Tương Châu trứ tác Kinh Sớ (8 quyển, hiện còn
quyển thứ 6 là Văn Nghĩa Ký), và Chỉ Quy (1 quyển); ngài Đàm ThiênTây Tự trứ
tác Hoa Nghiêm Minh Nạn Phẩm Sớ (10 quyển); ngài Huệ Tạng ở Tây Kinh trứ tác
Nghĩa Sớ (10 quyển); ngài Hồng Tuân ở Tây Kinh trứ tác Kinh Sớ (7 quyển); ngài
Huệ Viễn ở chùa Tịnh Ảnh trứ tác Kinh Sớ (7 quyển), Thập Địa Luận Nghĩa Ký (7
quyển, hiện còn 4 quyển); ngài Cát Tạng ở chùa Gia Tường trứ tác Du Ý (1 quyển,
hiện còn); ngài Huệ Giác ở chùa Võ Đức trứ tác Thập Địa Phẩm Sớ (10 quyển).

Đời Đường, ngài
Pháp Mẫn ở Việt Châu trứ tác Kinh Sớ (7 quyển); ngài Trí Chánh ở núi Chung Nam
trứ tác Kinh Sớ (22 quyển); ngài Linh Biện ở chùa Từ Ân trứ tác Kinh Sớ (12
quyển). Và cả hai miền Nam Bắc sông Trường Giang đều có phong tràonghiên cứu
kinh này, tiến đến triển khai thành môn Hoa Nghiêm học.

Tiếp theophong
trào
nghiên cứugiáo nghĩa kinh này, vào thời Tùy Đường dần dần hình thành tông
Hoa Nghiêm chuyên lấy việc hoằng dương giáo quán của kinh này làm chính. Đầu
tiên là ngài Đỗ Thuận (Pháp Thuận) đời Tùy ở núi Chung Nam hoằng thông kinh này
và trứ tác Hoa Nghiêm Ngũ Giáo Chỉ Quán (1 quyển, hiện còn) và Hoa Nghiêm Pháp
Giới Quán Môn
(1 quyển, hiện còn) để trình bày ý nghĩahuyền diệu của kinh này
và cũng là cơ sở để mở tông Hoa Nghiêm. Đệ tử của Ngài là Trí Nghiễm ở chùa Chí
Tướng càng phát triển tâm yếu của Ngài, và tham chiếuhọc thuyết của Địa Luận
sư, trứ tác Hoa Nghiêm Kinh Sưu Huyền Ký (9 quyển, hiện còn) là tác phẩmnổi
tiếng
của tông Hiền Thủ sớ thuật bản Cựu dịch kinh này. Ngài Trí Nghiễm còn dựa
vào
nghĩa kinh trứ thuật Hoa Nghiêm Kinh Khổng Mục Chương (4 quyển, hiện còn),
Hoa Nghiêm Ngũ Thập Yếu Vấn Đáp (2 quyển, hiện còn), Hoa Nghiêm Nhất Thừa Thập
Huyền Môn
(1 quyển, hiện còn), Lục Tướng Chương (1 quyển, đã thất lạc) để hiển
bày
nghĩa chính của kinh này. Kế tiếp, ngài Hiền Thủ (Pháp Tạng), người tập đại
thành
tông Hiền Thủ, càng phát huy rộng giáo nghĩa kinh này, trứ tác Hoa Nghiêm
Kinh
Thám Huyền Ký (20 quyển, hiện còn) là tác phẩmnổi tiếng quan trọng sớ
giải bản Cựu dịch kinh này. Ngài còn soạn Hoa Nghiêm Kinh Văn Nghĩa Cương Mục (1
quyển, hiện còn), Hoa Nghiêm Kinh Chỉ Quy (1 quyển, hiện còn), Hoa Nghiêm Bát
Hội Chương ( 1 quyển), Hoa Nghiêm KinhPhiên Phạn Ngữ (1 quyển), Hoa NghiêmCựu
Kinh
Phạn Ngữ Cập Âm Nghĩa (1 quyển) Ngoài ra, Ngài còn y cứ vào kinh
này mà soạn các tác phẩm về tông nghĩaliên quan đến tông này như Hoa Nghiêm
Ngũ Giáo Chương
(hiện còn), Hoa Nghiêm Nghĩa Hải Bách Môn (hiện còn) … Đệ tử
của Ngài là Tông Nhất ở chùa Hà Ân cũng có soạn Hoa Nghiêm KinhLiệu Giản (12
quyển), Hoa Nghiêm Kinh Sớ (20 quyển).

Những tác phẩm
sớ giải kể trên đều y cứ vào bộ Lục Thập Hoa Nghiêm được dịch vào đời Tấn mà
soạn thuật.

Đến đời Võ Chu,
ngài Thật-xoa-nan-đà dịch Bát ThậpHoa Nghiêm, ngài Pháp Tạng lúc đó tuổi đã xế
chiều, tham dự dịch trường với chức vụ Bút thọ. Ngài đã y cứ vào bản Tân dịchKinh Hoa Nghiêm, trứ tác Khai Mạch Nghĩa Ký (1 quyển, hiện còn), Tân Kinh
Tam-muội Ký (1 quyển), Thất Xứ Cửu Hội Tụng (1 quyển), Hoa Nghiêm Lược Sớ (12
quyển) để trình bày văn nghĩa kinh văn bản Tân dịch.

Đệ tử ngài Pháp
Tạng
Huệ Uyển ở chùa Tịnh Pháp cũng căn cứ bản Tân dịch này trứ tác Hoa
Nghiêm Kinh
Âm Nghĩa (4 quyển, hiện còn), Hoa Nghiêm Kinh Toàn Phục Chương (10
quyển), Cửu Hội Chương (1 quyển)

Sau đó, ngài
Thanh Lương (Trừng Quán) chấn chỉnh lại tông phongHoa Nghiêm, sửa saikiến
giải
của Huệ Uyển, phát huy học thuyếtchính thống của tông Hiền Thủ, biên soạnHoa Nghiêm KinhHuyền Đàm (9 quyển, hiện còn), Hoa Nghiêm Kinh Sớ (60 quyển,
hiện còn), Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao (30 quyển, hiện còn) là tác phẩmnổi tiếng của
tông Hiền Thủ sớ thích bản Tân dịch kinh này. Ngoài ra, Ngài còn soạn Hoa
Nghiêm Kinh
Sao Khoa (10 quyển, hiện còn), Hoa Nghiêm Kinh Lược Sách (1 quyển, hiện
còn), Hoa Nghiêm Kinh Thất Xứ Cửu Hội Tụng Thích Chương (1 quyển, hiện còn)
Nhưng đến niên hiệu Trinh Nguyên (785 – 804) ngài Trừng Quán còn tham dựdịch KinhHoa Nghiêm 40 quyển, Ngài soạn Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Biệt Hành Sớ
(6 quyển, hiện còn), Trinh Nguyên Hoa Nghiêm Kinh Sớ (10 quyển, hiện còn) để
trình bày nghĩa lýsâu xa của Tứ thập Hoa Nghiêm.

Đệ tử của ngài
Trừng QuánTông Mật ở chùa Thảo Đường tại Khuê Phong trứ tác Phổ Hiền Hạnh
Nguyện
Phẩm Biệt Hành Sớ Sao (6 quyển, hiện còn), Hạnh Nguyện Phẩm Sớ Khoa (1
quyển, hiện còn) để làm sáng tỏtâm yếu của ngài Trừng Quán. Ngài Tông Mật còn
có soạn Tân Hoa Nghiêm Hiệp Kinh Luận (40 quyển).

Năm vị Pháp
Thuận
, Trí Nghiễm, Pháp Tạng, Trừng Quán, Tông Mật, được người đời tôn là năm
vị Tổ của tông Hoa Nghiêm vì các ngài là người chủ yếu truyền bá và phát triển giáo
nghĩa
của kinh này để hình thành một tông.

Về các nhà sớ
giải nổi tiếng ngoài tông Hiền Thủ, có Trưởng giảLý Thông Huyền chuyên nghiên
cứu
kinh này, trứ tác Tân Hoa Nghiêm Luận (40 quyển, hiện còn) phát huy ý nghĩa
mới mẻ của Bát thậpHoa Nghiêm. Ông còn soạn Hoa Nghiêm Kinh Trung Quyển Đại ÝLược Tự (1 quyển, hiện còn), Hoa Nghiêm KinhTu HànhThứ ĐệQuyết Nghi Luận (4
quyển, hiện còn)

Tông Thiên
Thai
, có các ngài như : Kinh Khê Trạm Nhiên cũng trứ tác Hoa Nghiêm KinhNguyện
Hạnh
Quán HạnhCốt Mục (2 quyển, hiện còn), Tịnh Cư soạn Lân Đức Điện Giảng Hoa
Nghiêm Kinh
Huyền Nghĩa (1 quyển)

Từ đời Đường về
sau, kinh này được nghiên cứu học tập và hoằng dương khá hưng thịnh, mỗi triều
đại
đều có những bản sớ giải quan trọng như :

– Đời Tống,
Hoa Nghiêm Sớ Sao Hội Giải Ký (10 quyển) của Quán Phục, Hoa Nghiêm Luân Quán
(1 quyển, hiện còn) của Phục Am, Hoa Nghiêm Kinh Yếu Giải (1 quyển, hiện còn)
của Giới Hoàn, Hoa Nghiêm Kinh Thôn Hải Tập (3 quyển, hiện còn) và Hoa NghiêmPháp Tướng Khái Tiết (1 quyển) đều của Đạo Thông.

– Đời Liêu,
Hoa Nghiêm KinhHuyền ĐàmQuyết Trạch (6 quyển, hiện còn) của Tiên Diễn.

– Đời
Nguyên, có Hoa Nghiêm Huyền Đàm Hội Huyền Ký (40 quyển, hiện còn) của Phổ Thụy.

– Đời Minh,
Hoa Nghiêm Kinh Cương Yếu (80 quyển, hiện còn) và Hoa Nghiêm KinhĐại Ý (1
quyển, hiện còn) của Thiện Kiên, Hoa Nghiêm Kinh Hiệp Luận Toản Yếu (3 quyển,
hiện còn) của Phương Trạch, Hoa Nghiêm Kinh Hiệp Luận Giản Yếu (4 quyển, hiện
còn) của Lý Chí.

– Đời Thanh,
Hoa Nghiêm KinhCương Mục Quán Nhiếp (1 quyển, hiện còn) và Hoa Nghiêm Tam Thập
Cửu PhẩmĐại Ý (1 quyển, hiện còn) đều của Vĩnh Quang, …

Từ đời Đường về
sau, phong tràonghiên cứuKinh Hoa Nghiêm được truyền bá ra nước ngoài. Vào
thế kỷ VII, ngài Nghĩa TươngTân La đến Trung Quốc thọ học với ngài Trí Nghiễm,
sau khi về nước hoằng dương kinh này, làm vị Tổ đầu tiên của tông Hoa Nghiêm
Triều
Tiên. Đồng thời, ngài Nguyên Hiểu ở tại Tân La cũng chuyên nghiên cứu
kinh này, có biên soạnHoa Nghiêm KinhCương Mục (1 quyển), Hoa Nghiêm Kinh Sớ
(10 quyển, hiện còn 1 quyển). Cũng tại Tân La, có Thái Hiền soạn Cổ Tích Ký (10
quyển), Biểu Viên soạn Hoa Nghiêm Văn Nghĩa Yếu Quyết Vấn Đáp (4 quyển, hiện
còn) và được truyền bárộng rãi tại Triều Tiên.

Vào thế kỷ
VIII, kinh này đã được biên chép lưu truyền tại Nhật Bản, rồi ngài Đạo Duệ, một
Cao tăng đời Đường, vượt biển sang Nhật, truyền giảng Hoa Nghiêm, làm vị Tổ đầu
tiên của tông Hoa NghiêmNhật Bản. Từ đó về sau, kinh này được nghiên cứu học
tập rất thạnh tại Nhật.

Về các trứ tác
liên quan đến kinh này, tại Nhật Bản, có : Hoa Nghiêm Kinh Nghĩa Sao (40 quyển,
hiện còn) của Tông Tánh, Hoa Nghiêm Kinh Phẩm Thích (1 quyển, hiện còn) và Hoa
Nghiêm Kinh
Thám Huyền Ký Đổng U Sao (120 quyển, hiện còn) đều của Ngưng Nhiên,
Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký Huyền Đàm (1 quyển, hiện còn) của Phong Đàm, Hoa
Nghiêm
Huyền Ký Đại Lược Sao (49 quyển, hiện còn) của Hưng Long, Hoa Nghiêm
Thám Huyền Ký Phát Huy Sao (10 quyển, hiện còn) và Thám Huyền Ký Giản Yếu (8
quyển, hiện còn) đều của Phổ Tịch.

Qua các bản Hán
dịch và chú sớ đã được giới thiệu, chúng ta thấy được phần nào sự thạnh hành và
tầm quan trọng của kinh này trong hệ thốnggiáo nghĩa cũng như giáo quán của
Phật giáoĐại thừa.

 

h