Thọ Giới

THỌ
GIỚI
 

Hòa thượng Thích
Huệ Hưng giảng
Đại Đức Thích
Thiện Toàn ghi

Đứng
về mặt giới pháp, hàng ngũ đệ tử Phật được chia làm 7 nhóm: Tỳ kheo, Tỳ kheo
ni
, Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma na, Ưu bà tắc, Ưu bà di. Nhưng tổng quát mà
nói thì chỉ có hai đoàn thể chính bao gồm tất cả, đó là đoàn thể xuất gia
tại gia. Được gọi là đệ tử Phật, bất luận là tại gia hay xuất gia, đều phải
lãnh thọgiới pháp, tức là phải trãi qua một buổi lễphát nguyện chấp hành
những quy ướcsinh hoạttruyền thống trong phạm vi của đoàn thể mình theo một
nguyên tắc nghi lễ đã được ấn định, nhằm mục đích để làm nhân tố thực hiện mục
tiêu
chung nhất là phát triển tâm linh, nâng cao phẩm chất đạo đứccá nhân, làm
chất liệu bồi dưỡngtrí tuệ tiến đến giác ngộgiải thoát.

Tuy cả hai đoàn
thể đều cũng phải lãnh thọgiới pháp như thế, nhưng do bản chất và sự quan hệ
tính chấtcá nhân hay tập thể trong khi hành trì mà sự truyền trao giới pháp
cho hai đoàn thể có sự khác biệt nhau. Bản chất của giới tại giaxây dựng
hoàn thiện về tư cáchđạo đức của một cá nhân. Khi đã trở thành một phật tử
(sau khi đã phát thệ vâng giữ những nội quy của đoàn thể tại gia), người tại
gia
có thể tiến bộ, phát triển hay sa đọa, trụy lạc trên đường tu tập trong mục
tiêu
giải thoát, giác ngộ thì chỉ là vấn đềcá nhân của người ấy mà thôi. Do
đó, việc truyền thọ giới pháp cho đoàn thể tại gia có thể do một người truyền
cho nhiều người, dĩ nhiên người truyền giới cũng phải có một số điều kiệntối thiểu
nào đó, như phải là một Tỳ kheo hay một Tỳ kheo nithanh tịnh chẳng hạn. Nhưng
đối với người xuất gia, vì sự tiến bộ, phát triển hay sa đoạn, thoái hóa của
một cá nhân không phải chỉ riêng cá nhân ấy đơn phương chịu trách nhiệm mà lại
liên hệ đến vấn đề hưng thịnh hay suy tàn của Tập thể Tăng già, và từ đó đưa
đến sự hưng thịnh hay suy tàn của đạo pháp. Tăng già là một trong ba ngôi báu
biểu hiện sự tồn tại của Phật pháp, và cũng vì Tăng già là người trực tiếp thay
Phật tuyên dươngchánh pháp, như ta từng biết: “Nhân năng hoằng đạo, phi đạo hoằng
nhân”. Do đó vấn đề truyền thọ giới pháp cho người xuất gia phải do tâp thể
Tăng truyền cho một người và sự tiến hành truyền thọ cũng phải được chấp hành
nghiêm chỉnh theo nhưng quy tắc đã chế định sau khi đẫ nghiệm xét kỹ lưỡng
cách
của giới sư cũng như của giới tử. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi
chỉ xin đề cập đến sự truyền giới pháp cho đoàn thể xuất gia.

Nhưng trước khi
đi vàovấn đề, thiết nghĩ, chúng ta cũng cần biết qua một số quan điểm khác
nhau về tính chấtthọ giới như sau:

1)GIỚI TỰ
NGUYỆN:

Trong Luật học,
được gọi là chính thứcthọ giới khi giới tử đối trước hội đồng thập sư gồm một
vị Hòa thượng, một vị Yết ma, một vị Giáo thọ và bảy vị Tôn chứng của Tăng già,
chí thành nhận lãnh. Khi điều khoản của Giới (Giới tướng) được đọc lên, giới tử
nghe rõ, hiểu thấu và nhận lãnh bằng sự phát thệ dũng mãnh thì mới gọi là thành
tựu
. Nhưng trong một vài trường hợp, khi không thỏa mãn nhu cầu chính thức như
vậy, người ta có thể thực hiện một cuộc tự phát thọ giới gọi là Giới tự nguyện
như Hoàng hậu Thắng Man trong kinh ThắngMan.

2)GIỚI
TƯỞNG
:

Còn gọi là thọ
giới
viên đốn, đây là chủ trương của Thiên Thai Tông, một tông phái lấy tinh
thần
viên đốnthuần túyđại thừa trong kinh Pháp Hoa làm tôn chỉ. Theo chủ
trương của tông phái này, tất cả giới luật đều có sẵn trong tâm ta, nó không
phải là sản phẩm tạo ra do sự nổ lực thực hiện qua thân nghiệpkhẩu nghiệp.
Giới lý tưởng ngày còn gọi là giới tự hữu hay tự tâm bản cụ giới, đây là chủ
trương đặc biệt của Thiên Thai Tông.

3)GIỚI TỰ
TÁNH:

Đây là chủ
trương của Thiền Tông. Theo tông phái này, ý niệmgiới luậtnguyên lai sẵn có
trong tự tánh của con người. Như Lục tổ Huệ Năng nói: “Nào ngờ tự tánh vốn tự
thanh tịnh, nào ngờ tự tánh vốn không ô nhiễm” nếu hồi quang phản chiếu, người
ta có thể làm hiển lộgiới tự tánh ấy ra trong khi hành động. Tuy chủ trương như
thế, nhưng trên mặt hình tướng của sự truyền thọ giới pháp cũng được Thiền Tôngđặc biệt chú trọng, như ta thấy, dù đã ngộ được chơn tâm và đã được Ngũ tổHoằng Nhẫnấn chứng, nhưng khi cơ duyênhành đạo đã đến, Ngài Huệ Năng đến chùa
Pháp Tánh xin đăng đàn thọ cụ túc giới với Hòa thượngTrí QuangLuật Sư, giới
đàn
do Pháp sưẤn Tông đứng ra tổ chức.

Trong 3 quan
điểm
trên đây, giới tự nguyện là trường hợpduy nhấtđặc biệt được phép tự
thọ, nhưng thường được áp dụng cho sự thọ giớiBồ Tát, còn giới lý tưởnggiới
tự
tánh tuy chủ trương vốn sẵn có trong tâm vẫn không chủ trương tự thọ. Trong
ba tạng kinh điển, không nơi nào cho phép có sự tự thọ đối với các Tỳ kheohữu
học
dù cho vị ấy đã thành tựuBất Lai (A-na-hàm), chỉ trừ vị Thánh giả
A-la-hán. Bởi vì trong một ý nghĩa nào đó, tự thọ là một hình thức phá hòa hiệp
Tăng, vì làm như thế là mặc nhiên phủ nhận sự hiện hữu Tăng gia. Đây là một nguyên
nhân
chủ yếu đưa đến sự phân hóa đoàn thể đệ tửxuất gia của Phật. Ngoài ra sự
truyền thọ giới pháp còn có một điểm quan trọng hơn nữa, đó là hình thứctrang nghiêm
của giới đanbf và sự tác phápYết Malong trọng đã tác động mạnh vào tâm tư của
giới tử trong khi thọ giới, làm cho giới thể được phát sinh. Dù thời gianthọ
giới
quá ngắn ngủi so với thời giangiữ giới dài suốt cuộc đời, nhưng nó lại là
thời điểm cực kỳ quan trọng có tính cáchquyết định sự tuân thủgiới hạnh
nghiêm túc hay không trong suốtcuộc đờihành trì của giới tử. Bởi vì giây phút
đầu tiên ấy, tâm lýgiới tử được tác động mạnh do hình thứctruyền giớitrang
nghiêm
làm phát sinh ra cái tinh thể của giới vốn có trong tự tánh, nhờ đó mà
về sau có những trường hợp người giữ giới lâm vào hoàn cảnh có thể phạm giới
một cách dễ dàng nhưng vẫn kềm chế được. Cái tinh thể ấy là “Giới thể” hay còn
gọi là “Giới thể vô biểu”. Giới thể này rất quan trọng, nếu thiếu, việc gìn giữ
giới khó mà hoàn bị được. Giới này là vô biểu nghiệp, tức năng lựctác ý luôn
luôn được hoạt động sâu mạnh do một ấn tượng thâu nhập được trong khi thọ giới
một cách trung thành. Sự thực, đó là kết quả của sự tự nguyện diễn ra vào lúc
trang nghiêmthọ giới. Năng lực này nó tự bộc lộ trong tư tưởng, trong ngôn
ngữ
, trong hành vi bất cứ lúc nào cần thi hànhnhiệm vụ, nhờ đó, người ta sẽ
hành động thích ứng với giới pháp. Có thể nói, giới thểsức mạnhđạo đứchoạt động sâu thẳm trong tâm chỉ đạohành vigiữ giới.

Nói chung, sự
quan trọng của Luật học là được đặt trên cái tinh thể của giới thể, tức thế lực
được tạo ra khi phát nguyện, nó luôn luôn tác động mãnh liệt chống lại bất cứ
sự
vi phạm nào đối với sự tự nguyện đó. Hữu BộCâu Xá Tông cho giới thể thuộc
sắc pháp (Vô biểu sắc), còn Thành Thật Tông lại cho là một pháp đặc biệtphi
sắc phi tâm
, Duy ThứcPháp Tướng Tông thì coi nó như một hình thứctự giác được
hiện hành từ chủng tử của tư tâm sở (Cetana) khi thọ giới. Đây là một tác dụngtâm lýkhông lộ diện mà giữ được cho người trì giới ứng hợp được với sự hành
trì
giới hạnh của mình (Ví dụ: Như một người có tinh thần thượng tôn pháp luật
sẽ tôn trọngluật pháp trong bất cứ trường hợp nào, khác với người sợ luật pháp
chỉ mất cơ hội vi phạm luật pháp mà thôi).

tính chất
quan trọng của giới thể như thế nên để cho giới thể phát sinh viên mãn, tư cách
của người truyền giới và người thọ giới cũng phải được nghiệm xét kỹ càng trước
khi tiến hành truyền thọ.

1)TƯ CÁCH
NGƯỜI TRUYỀN THỌ:

Năm trọng tội
của một Tỳ kheophá Yết ma tăng, phá Pháp luân tăng, phá kiến, phá giới,
nuôi đệ tử mà không biết dạy. Do trọng tội thứ năm này mà tư cách làm thầy phải
được trang bị ngay từ khi đắc giớiTỳ kheo: “Ngũ hạ dĩ tiền chuyên tinhgiới
luật
), hay có thể nói là đã bắt đầu học tập từ lúc còn là Sa di (tuy Tỳ kheo
sự, Sa di đương dự tri chi). Trong tư cách làm thầy có nhiều đức tính, nhưng
chung quy chỉ gồm hai mặtvật chấttinh thần. Nhất là mặt tinh thần, người
làm thầy phải đủ khả năng hướng dẫn người đệ tửthực hiệnmục tiêugiải thoát bằng
cách chỉ dẫncon đường tu tập Giới, Định, Huệ và vị ấy còn phải có trí tuệ để
giải quyết những thắc mắc cho người đệ tử. Trong kinh Khu Rừng (Vanapattha
suttam_ trong bộ Majjhima Nikaya) Phật dạy: Một vị đệ tử phải từ bỏ mà đi khi
nhận thấyvị đạo sư của mình không có khả năng chỉ dạy cho mình Giới, Định, Huệ
dù cho nơi đó có đầy đủ tứ sự cúng dường; và một đệ tử tha thiết xin ở lại dù
cho nơi đó có bị vịđạo sưhất hủi, khi vị ấy có đủ khả năng hướng dẫn mình tu
tập
Giới, Định, Huệ và cho dù nới đây có hay không có đầy đủ tứ sự cúng dường.

Nói cụ thể hơn,
một vị Tỳ kheođủ tư cách làm thầy khi vị ấy hội đủ 5 đức tính như sau:

1. Tuổi thọ
phải đủ 10 hạ.
2. Phải biết rõ
thế nào là trì, phạm, khinh, trọng.
3. Đa văn (có kiến
thức rộng
rãi)
4. Có khả năng
giải quyết những tâm tư khúc mắc của đệ tử.
5. Có khả năng
đoạn tận, đoạn trừ tà kiến cho đệ tử.

Nếu xét thấy
cách
làm thầy của mình chưa hội đủ thì không nên làm thầy vội mà phải tiếp tụctu tập trao dồi giới hạnhkiến thức.

Nói riêng về
cách
của vị Hòa thượng đàn đầu lại càng quan trọng. Ngày xưa do điều kiệnsinh
hoạt
của Tăng già khép mình trong phạm vitự viện riêng lẻ, chưa có những tổ
chức giới đàn truyền thọ cụ túc có quy mô rộng lớn như ngày nay, nê Hòa thượngtruyền giới, Hòa thượngy chỉ sưvị Bổn sư thường là một vị. Theo nghĩa
nguyên thủy, Hòa thượng có nghĩa là “Lực sanh” là vị có trách nhiệmlo lắng cho
đệ tử về mặt vật chấtđời sốngtinh thần. Do đó, theo quy định trong Luật
tạng
, một vị Hòa thượng không được đồng thời truyền thọ giớicụ túc cho hai Sa
di
trong cùng một năm, vì làm như thế sẽ không làm sao chu toàntrách nhiệm
nuôi nấng và giáo dục được.

Nhưng trên thực
tế
ở nước ta ngày nay, nguyên tắc này không được áp dụng. Do vì sự sinh hoạt
của Tăng già đã gắn liền vớisinh hoạt của Giáo hội, có hệ thống tổ chức từ Trung
ương cho đến địa phương, nên việc tổ chức giới đàntruyền giớicụ túc có quy mô
rộng rãi trên toàn quốc hay cho một khu vực rộng lớn nào đó, và được Giáo Hội đứng
ra đảm trách. Trong trường hợp này, Hòa thượng đàn đầu là một vị Tôn túc trong
Hội Đồng Giáo Phẩm được mời ra nên cùng một lúc, cùng một giới đàn, một vị Hòa thượng
có thể truyền giới cho một số Sa di đông đảo có khi lên đến 1000 người. Đồng
thời
, trong chính giới đàn ấy, giới Sa di và giới Bồ tát cũng được tổ chức truyền
thọ. Trong trường hợp như thế, ý nghĩanguyên thủy của danh từ Hòa thượngtrở
thành
trách nhiệm của vị Thế độ Bổn sư. Vì vị Hòa thượngtruyền giới trong
trường hợp này nhiều khi không biết gì nhiều về thân thế của người thọ giới với
mình.

2)TƯ CÁCH
NGƯỜI THỌ GIỚI:

_Về sự nghiệp,
xét tư cách của giới tử trong buổi đầu chỉ đặt trọng tâmniềm tin nơi ngôi
Tam bảo và có đời sốngphạm hạnh (Tứ bất hoại tín). Nhưng do khi giáo đoàn được
mở rộng cho mọi người không phân biệtthành phầngiai cấp trong xã hộigia
nhập
, thì sự nghiệm xét đơn giản như trước chưa được gọi là tương đối đầy đủ để
xác định tư cách một giới tử, do nhu cầu khách quan đó, sự nghiệm xét kỷ lưỡng
giới
tử lại được thêm vào. Đó là kiểm nghiệm 13 Già nạn, còn gọi là 13 chướng
ngại
đạo pháp, tức là những điều gây trở ngại cho việc chứng đắcThánh quả ngay
trong đời này do thân và tâm có khuy khuyết. Công việc kiểm nghiệm này được
thực hiện bởi Tăng, nó thuộc về giai đoạn chính thứctác thànhYết Ma cho thọ cụ
túc giới. Luật Tứ phầnquy định: Trước khi bạch Yết Ma cho thọ Cụ túc giới,
Tăng phải khảo hạch 13 Già nạn. Một giới tử nếu có một trong 13 già nạn này thì
không thể thành tựumục tiêuphạm hạnh nên không được phép thọ cụ túc giới. Nếu
do không xét nghiệm kỹ mà một người được Tăng cho thọ cụ túc, nhưng về sau nếu
bị khám phá ra, thì dù người ấy có được chính thức truyền thọ giới bởi Tăng đi
nữa cũng bị tẩn xuất. Vì sự tồn tại và hưng thạnh của Tăng là do có thành tựumục tiêuphạm hạnh, chứ không phải do số đông. Nay một người không đủ điều kiện
để chứng đắcThánh quả là dấu hiệu của sự suy thoái của Tăng, do đó mà tẩn
xuất
.

13 GIÀ
NẠN:

1) Phạm biên
tội

2) Phá tịnh hạnhTỳ kheo ni
3) Tặc trú
4) Phá nội ngoại
đạo

5-9) Phạm tộingũ
nghịch

10) Bất năng nam

11) Phi nhân
12) Súc sinh
13) Nhị hình (bán
nam, bán nữ)

Ngoài ra, giới
tử
còn bị thẩm tra 10 khinh nạn, vì do 10 điều này không phải là pháp chướng
ngại
pháp, nhưng đó là những mối ràng buộcbản thân với gia đìnhxã hội
giới tửcần phảigiải quyết xong trước khi xuất giatu tập. Mười khinh nạn được
thẩm tra dưới các câu hỏi:

1. Có phải là
quan trốn đi tu không?
2. Có phải là
người trốn nợ không?
3. Ngươi có phải
là đầy tớ trốn chủ không?
4. Ngươi có phải
là đàn ông không?
5. Đàn ông mà có
bệnh cùi hủi, ung thư, ghẻ lở, lao phổi, tiểu đường không?
6. Tuổi đủ 20
chưa?
7. Y bát có đủ
không?
8. Cha mẹcho
phép
chưa?
9. Pháp danh ngươi
là gì?
10. Hòa thượng của
ngươi hiệu gì?

Về việc nghiệm
xét tư cách của giới tử thọ Tỳ kheo ni cũng tương tự như của Tỳ kheo, nhưng do
tính chất khác nhau nên các già nạn của giới tử ni có vài điểm khác nhau. Ni
chỉ có 9 già nạn như sau:

1. Đã Tỳ kheo
ni giới
chưa? (Ni đã thọ cụ túc mà hoàn tục, thì dù không phạm biên tội cũng
không được xuất giathọ giới lại)

2. Tặc tâm xuất
gia
.

3. Giết cha

4. Giết mẹ
5. Giết A La Hán
6. Gây thương tích
cho Phật
7. Phi nhân
8. Súc sanh
9. Nhị hình

Các khinh nạn
sau cũng giống như của các Tỳ kheo…

Việc nghiệm xét
tư cách của giới sưgiới tử như thế sẽ có tác động mạnh mẽ cho sự phát sinh
giới thểvô biểu. Như sự thành tựu của pháp Yết-ma (Yết-ma như pháp) cũng có
vai trò quan trọng trong sự phát sinh giới thểvô biểu này. Trước khi tiến hành
bạch Tứ Yết-mathọ cụ túc giới, có một số thủ tụccần phải tiến hành đúng pháp
thì Yết-ma mới thành tựu. Có 4 điều kiện để Yết-ma thành tựu, đó là:

1) GIỚI THÀNH
TỰU
:

Để cho giới
thành tựu, tất cả hành sự của Tăng phải được thực hiện trong cùng một cương
giới ấn định gọi là giới trường để tránh hiện tượng chia rẽ trong Tăng. Truyền giớicụ túc là việc của tập thể Tăng truyền cho một người. Nhưng túc số tăng chính
thức chỉ là 10 vị mà không phải là tập hợp tất cả chư Tăng có mặt trong trú xứ.
Vì thế phải có cương giới để khuôn khổ hạn chế đúng pháp Yết-ma (và giải quyết
này được tính theo nguyên tắc đa sốtuyệt đối, có nghĩa là Yết-ma chỉ thành tựu
khi 10 giới sư đều nhất trí qua sự yên lặng của mình, không một ai có ý kiếnphản đối)

2) SỰ THÀNH
TỰU
:

Sự thành tựu
sự nghiệm xét tư cách của giới sưgiới tử. Sự nghiệm xét này phải được tiến
hành trước khi chính thứctác pháp Yết-ma, do một vị Giáo thọ A-xà-lê đảm trách
hướng dẫn (sự nghiệm xét tư cách như đã trình bày trên). Và sau cùng là Đàn
nghi sắp đặt thứ lớp trang nghiêmlong trọng đúng pháp.

3) TĂNG THÀNH
TỰU
:

Phải là Tăng
thanh tịnh, nếu có phạm các học xứ thì đã được sám hốinhư pháp. Về túc số Tăng
thì chính thức là 10 vị như nếu ở những vùng biên địa (Tăng số không đủ) thì được
phép tiến hành tác pháp với túc số là 5 vị, trong túc số ấy phải có ít nhất
một vị am tường các pháp Yết-ma về lý thuyết cũng như về mặt thực hành. Chư
Tăng
trong túc số này phải tập trung trong một giới trường đã quy định và phải
có những cử chỉ biểu hiện tinh thầnhòa hợp, trong đó phải có một vị Hòa thượng
và một vị Yết-ma.

4) YẾT-MA
THÀNH TỰU:

Yết-ma được
thành tựu khi pháp Yết-ma được thực hiệnnhư pháp, nghĩa làkhông có một trong
bảy điều phi pháp sau đây:

1. Nhân phi

2. Pháp phi

3. Sự phi
4. Nhân pháp phi

5. Nhân sự phi

6. Pháp sự phi

7. Nhân pháp sự
phi

nơi khác
nêu ra 7 phi tướng của Yết-ma tuy tên gọi có khác nhưng cũng không ngoài ý
nghĩa
như sau:

1. Phi pháp phi
Tỳ-ni
2. Phi phápbiệt
chúng

3. Phi pháphòa
hợp

4. Như phápbiệt
chúng

5. Pháp tương tựbiệt chúng
6. Pháp tương sự
hòa hợp
7. Bị ngăn mà
không chịu đình chỉ

Ngoài ra trong
khi tác phápbạch Tứ Yết-ma, chư Tăng trong giới trường phải hoàn toànnhất
trí
, không một ai phản đối (đa sốtuyệt đối)

Đối tượng của
Yết-ma thọ giớicụ túcgiới tử cũng phải nhất trí tự nguyện lãnh thọgiới
pháp
. Nếu trong giờ phút thỉnh bạch Yết-ma mà giới tử bỗng nhiên sanh tâm hối
hận
, không muốn thọ giới thì Yết-ma cũng xem như không thành.

Trong khi tiến
hành Yết-ma truyền giới, mỗi lần chỉ được phép truyền thọ cho một giới tử
thôi. Tuy nhiên nếu số giới tửcầu thọ giới quá đông thì có thể mỗi lần truyền cho
3 giới tử, nhưng tuyệt đối không được quá ba. Nói chung là không có trường hợp
Tăng truyền giới cho Tăng.

Như những thủ
tục
trên đã được nghiệm xét đầy đủ, pháp Yết-ma bắt đầu tiến hành đó gọi là
Yết-ma như pháp, và giới tử trong trường hợp này được gọi là đắc giới. Đắc giới
ở đây không chỉ có nghĩa khi giới tử nghe đọc lên các điều khoản của các học xứ
(227 điều theo truyền thống Pàli, 250 điều theo truyền thốngluật Tứ phần cho Tỳ
kheo
, 348 điều cho Tỳ kheo ni) giới tửthành tâmlãnh thọ, mà còn phải vâng giữ
4 thanh tịnh pháp còn gọi là Tứ y pháp, đó là:

1. Y trên y
phấn tảo
2. Y trên sự khất
thực

3. Y nơi gốc cây
mà ngủ nghỉ
4. Y nơi hủ lãn
dược

Theo thuyết
Nhất Thiết Hữu Bộ
, có 10 trường hợpđắc giớicụ túc:

1. TỰ NHIÊNĐẮC
GIỚI
: Trường hợp của vị Độc Giác Phật

2. KIẾN ĐẾĐẮC
GIỚI
: Đắc giới do thấy lý Tứ Đế, như trường hợp năm anh em Kiều-trần-như

3. THIỆN LAITỲ
KHEO
: Do Phật gọi: “Thiện lai Tỳ kheo” mà đắc giới như trường hợp Da-xá

4. XÁC NHẬN
PHẬT LÀ BẬC ĐẠO SƯ: Như trường hợp của Tôn giả Ca-diếp, khi gặp Đức Thế Tôn
liền tuyên bố: “Đây là bậc Đạo sư của tôi”, và liền đắc giới.

5. DO KHÉO TRẢ
LỜI
: Đây là trường hợpduy nhất dành cho thiếu niên Tô-đà-di mới 7 tuổi nhưng
đã khéo trả lời câu hỏi “Nhà con ở đâu?” của Phật bằng câu: “Ba cõi không đâu là
nhà” mà đắc giới

6. DO THỌ BÁT
KỈNH PHÁP
: Đây là trường hợp của Ba-xà-ba-đề.

7. DO GỞI ĐẠI
BIỂU
: Đây là trường hợp của Tỳ kheo ni Pháp Thọ, do sợ nạn phạm hạnh mà Phật
cho phép cử đại diện đến thọ rồi về ruyền lại.

8. TAM NGỮ ĐẮC
GỚI: Do tuyên bố 3 lần :Tôi xin quy y Phật, Pháp, Tăng” đây là trường hợp
thường xảy ra khi Phật chưa quy định pháp bạch Tứ Yết-mathọ giới.

9. THỌ GIỚI VỚI
TĂNG 10 NGƯỜI: Dành cho mọi giới tửthọ giới ở nơi đô thị có đông đảo Tỳ kheo.

10. THỌ GIỚI
VỚI TĂNG 5 NGƯỜI: Đây là trường hợp dành cho giới tử ở những nơi biên địa không
có đông đảo Tăng chúng. Trong trường hợp này phải có ít nhất là một vị trì Luật
và hiểu các pháp Yết-ma.

Trong 10 trường
hợp
trên, 8 trường hợp đầu chỉ xảy ra khi Phật còn tại thế, và cũng là những
trường hợpđặc biệt cho một số người thôi.

Chỉ có 2 trường
hợp
cuối cùng, gọi chung là “Bạch Tứ Yết-ma đắc giới” là được áp dụngphổ thônglưu truyềnchính thứccho đến ngày nay.

Riêng trường
hợp
Ni thọ giớicụ túc thì có những điểm sai khác như ngoài hội đồng thập sự
Tăng, còn có một hội đồng thập sự Ni. Giới tử Ni sau khi được xét nghiệm về
cách
của giới tử, đại khái như đã nêu trên, pháp Yết-ma truyền thọ được tiến
hành tại trong Ni Tăng gọi là bản bộ Yết-ma (chính thứctruyền giới). Bản bộ
Yết-ma thực hiện xong, nội trong ngày ấy (không được để qua đêm), hội đồng thập
sự Ni phải dẫn giới tử Ni qua hội đồng thập sự Tăng để cầu chánh pháp Yết-ma
(Ấn chứng cho sự truyền thọ). Ở đây, chỉ nêu sơ lược các chi tiết kiểm nghiệm
giới tử, cách thức tác pháp Yết-ma trong các bộ Yết-ma đều nói rõ từng chi
tiết
.

Sau khi đắc
giới
, nghiễm nhiêngiới tửtrở thành một Tỳ kheo (hay Tỳ kheo ni) và chính thứctrở thành thành viên của đoàn thể Tang già, có những nghĩa vụ và quyền lợi như những
thành viên khác. Tuy nhiên, vị tân Tỳ kheo ấy, suốt thời gian 5 năm đầu phải y
chỉ
nơi một vị Thượng tọaLuật sư (vị Tỳ kheothông hiểugiới luật) để học tập cho
am tường cac bổn phận trách nhiệm cũng như những điều tác thànhtư cách của một
Tỳ kheo, tức là am tường các học giới, hiểu rõ thế nào là danh, chủng, tánh,
tướng; thế nào là khai, giá, trì, phạm; thế nào là khinh trọng và thông thạo
các pháp Yết-ma về lý thuyết cũng như thực hành. Một trong những bổn phận người
xuất gia là tục Phật Thánh lưu, tiếp dẫnhậu lai, báo Phậtân đức. Muốn thực
hiện
bổn phận ấy, vị Tỳ kheo phải có đủ tư cách làm thầy. Do đó, Phật quy địnhTỳ kheo phải đủ 10 hạ, Tỳ kheo ni phải đủ 12 hạ mới được thu nhậnđệ tử, độ
người
xuất gia, và trước khi độ ngườixuất gia, phải được Tăng thông qua với
pháp Yết-ma súc chúng. Nếu Tăng thấy chưa đủ tư cách thâu nhận đệ tửxuất gia,
dù người ấy đã đủ tuổi hạ, thì cũng không được tự tiện độ ngườixuất gia. Nếu
làm thì phạm Ba-dật-đề.

Tóm lại, Tăng
đoàn
là tập thể có vai trò quan trọng quyết định sự tồn tại của Phật pháp. Khi
nào hàng ngũ Tăng già có những bậc chân tuthạc học, đạo cao đức trọng, có đủ tư
cách
làm nghi biểu cho đời, có đủ trí huệ làm đuốc sáng cho đời, thì khi ấy
Phật pháp được hưng thịnh. Trái lại, khi nào trong hàng ngũ Tăng già không có
những vị Tăng tài đức như trên, thì dù số lượng có đông nhiều đi nữa, đó cũng
là dấu hiệu suy đốn của chánh pháp. Nhưng làm sao để có thể đào tạo được những
con người, có được những con người có được những đức tính như thế? Dĩ nhiên
phải y cứ vào giới luật làm kim chỉ nam cho sinh hoạtTăng đoàn, mà một trong
những vấn đềgiới luậtvai trò quan trọng trong việc tác thành nhân cách một
Tỳ kheo, đó là sự truyền thọ giới pháp. Nếu không có sự truyền thọ như pháp thì
không có Tỳ kheođắc giới. Không có Tỳ kheođắc giớinhư pháp thì bản thể của
Tăng không thành tựu. Tăng không có giới bản thể thì không thể nào tiến bộ về
mặt tâm linh, không thể nào có người tu chứng. Và như vậy, chánh pháp sẽ không
làm sao tồn tại được, cho nên vấn đề truyền thọ giới pháp cho người xuất gia
một ý nghĩa quan trọng trong Phật pháp. Cũng vì vậyvấn đề này chiếm một
phần trong bốn phần của Luật Tứ Phần.

Với mục tiêugiải thoát, giác ngộ trên tinh thầntự giácchâm ngôn hành động mà Phật đã
dùng để khuyến hóa, giáo dục những người xuất gia. Nhưng trong giáo đoànxuất
gia
vẫn có những người xuất gia không vì mục tiêuchân chính đó, không cùng
sống trong tinh thầnhướng thượng với lý tưởnggiải thoát, cũng không chuyển
hóa
tâm linh qua sự nghiêm trì phạm hạnh. Chính vì điều này mà càng về sau, sự
truyền thọ giới pháp càng được chính Đức Phậtđề ra những quy định chặt chẽ để
kiểm nghiệm, để thử thách, để thanh lọc hàng ngũ Tăng đoàn, nhằm bảo đảm tánh
trong sạch cho cá nhân và tập thể để xứng đáng là một trong ba ngôi báu trong
Phật pháp. Tuy chú trọng về việc tự giác và pháp triển tâm linh, nhưng cũng
phải dựa vàohành vibiểu lộ bên ngoài để làm tiểu chuẩn pháp định. Vì thế mà
sau khi Phật diệt độ, Luật tạng được kiết tập một cách trung thành, dù Phật đã
cho phép bỏ bớt những điều chi tiết nếu thấy không cần thiết sau này. Chúng
ta
cũng không lấy làm ngạc nhiên gì khi Tôn giả Ca-diếp được cử làm thủ lãnh
giáo
đoàn, Tôn giả Ưu-ba-ly được suy tôn làm vị chấp chưởng về giới luật vì là
những vị có giới hạnhtiêu biểu nhất. Tôn trọnggiới luật, thì cũng tôn trọng
việc truyền giới là lẽ đương nhiên. Tôn trọng sự truyền giới, thì những quy
định
của pháp Yết-ma không thể bỏ qua được, dù bất cứ lúc nào, ở đâu, và dù là
theo hệ phái nào. Vi phạmquy định ấy cũng đồng nghĩa với sự làm tổn thương đến
phẩm chất và quyền lực của Tăng già, đó là dấu hiệu suy đồi của chánh pháp.

Những ai trong
hàng ngũ xuất giađể tâm thiết tha đến sự tồn vong của chánh pháp, có thao
thức ưu tư đến vấn đề “Tre tàn măng mọc”, có hoài bảo “Thiệu long Thánh chủng,
kế vãn khai lai” thì không thể khôngđể tâmnghiên cứuhọc hỏi tường tận về các
pháp Yết-ma, nhất là Yết-ma truyền giớicụ túc, độ ngườixuất gia.

Hòa thượng
Thích Huệ Hưng giảng

Đại Đức Thích
Thiện Toàn ghi

11-15-2009 05:12:35