TIHIỆU SƠ BỘ
Về
CUỘC KHÁM PHÁTHỦ BẢN CỔ KINH KHAROSTHI
Và
PHẬT GIÁO CÀN-ĐÀ-LA.
Tâm Hà
Lê Công Đa
I. VÀI HÀNG GIỚI THIỆU.
Tháng 9 năm 1994, bộ phận sưu
tập về Đông Phương và Ấn Độ của Thư Viện Anh Quốc do một đường dây kín đáo đã
mua lại được toàn bộ 29 thủ bản kinh cổ của Phật Giáo được khắc trên võ cây
bạch đàn, vừa mới được phát hiện tại Kashmir (tên cũ là Càn-Đà-La), trong vùng
Tây Bắc Hồi Quốc, giáp ranh A Phú Hãn. Có lẽ để tránh những rắc rối ngoại giao
với quốc gialiên hệ về việc một cổ vật qúy bị đưa ra nước ngoài, Thư Viện Anh
Quốc đã giữ im lặng về sự phát hiện này mãi cho đến tháng 6 năm 1996 mới chịu công
bố, gây nên một sự chú tâmđặc biệt của giới truyền thông quốc tế trước khám
phá quan trọng của nhân loại về mặt khảo cổ học này. Vì bản kinh được viết bằng
tiếng địa phương Kharosti, một cổ ngữ của vùng Bắc Ấn, những học giả có
khả năng đọc được loại ngôn ngữ này trên thế giới hiện rất hiếm hoi,
trong số đó một nhân vật mà tên tuổi được biết đến trên tầm vóc quốc tế về lãnh
vực này là TS. Richard Salomon, Giáo sư ngôn ngữ và văn chương Á Châu tại DH Washington,
(UW). Vì khả năng uyên bác của ông về cổ ngữẤn Độ, GS. Salomon đã được Thư Viện
Anh Quốc mời làm Chủ tịch một Ủy Ban gồm các học giả chuyên môn để nghiên cứu
bộ cổ kinh qúy giá của Phật Giáo vừa mới phát hiện. Toàn bộ ủy ban đã làm
việc toàn thời trong vòng 6 tháng và kết quả sơ khởicủa công trìnhnghiên
cứu này đã được GS. Salomon đúc kết lại trong tác phẩm của ông, “Ancient
Buddhist Scrolls from Gandharan” do University
of Washington Press, Seattleấn hành và xuất bản vào năm
1999.
Bài viết này đã dựa vào một số tài
liệu phân phát (hand-outs) của GS. Salomon trong các buổi nói chuyện tại thành
phố Seattle, Hoa Kỳ về đề tài này, tuy nhiên chủ yếu là tóm tắt lại một phần
nội dung của cuốn sách “Ancient Buddhist Scrolls from Gandharan” của GS. Salomon.
Vì muốn nêu bật tầm mức quan trọng của việc khám phá bộ cổ kinh này, chúng tôi
xin phép qúy độc giả được lược bỏ những phần có tính cách chuyên môn của môn
khảo cổ học mà chỉ tập trung khai thác các chương nói về nội dung và ý nghĩa
của sự khám phá bộ cổ Kinh Càn-Đà-La (Chương I, II, III và VII).
II. BỐI CẢNH
PHẬT GIÁO CÀN-ĐÀ-LA.
Như ta biết, việc khám phá ra
bộ Kinh Kharosthi, bản kinh viết tay cổ nhất của PG được tìm thấycho đến nay
tại Càn-Đà-La (Gandhara) có ý nghĩa rất đặc biệt quan trọng đối với Phật Giáo
vì nó giúp chiếu rọi vài nhãn quan vào thời tiền hiện đại, thời tiền sáng tác
kinh điễn; cho ta thấy các cộng đồngPhật Giáo tiên khởi vào thời ấy đã đọc
những kinh gì, trước khi “Tam Tạng kinh điễn” được kết tập. Đồng thời nó cũng
hé mở cho chúng ta một cái nhìn vào cung cách sinh hoạt của các cộng đồngPhật
Giáo thời cổ, trong đó Càn-Đa-La là một trung tâm quan trọng và từ đây Phật Giáo
đã được truyền bá, hoằng hoá như thế nào. Thế nên, trước khi đi sâu vào nội
dung của công trình sưu khảo này, thiết tưởng chúng ta cũng nên có một cái nhìn
tổng quát về việc hình thành cộng đồngPhật giáo Càn-Đà-La và những đóng góp
của nó trong tiến trình phát triển của Phật giáo tại Á Châu.
Càn-Đà-La là tên gọi cũ của một
vùng đất nay là thung lũng Peshawar Valley của Hồi Quốc, giáp giới với biên
giới A Phú Hãn ở phía Tây và sông Ấn Hà ở phía Đông. Ngôn ngữ chính của cư dân
vùng này là thổ ngữ Ghandhari thuộc ngữ hệ Prakrit, thoát thai từ Sanskrit mà
Kharosthi là văn tự chính.
Khoảng thế kỷ thứ 1 và 2 sau
TL, dưới các triều đại Indo-Scythian và Kusana, Càn Đà La là một trung tâm
chính trị và tôn giáo lớn. Thành phố quyền lực và giàu có này nhờ nằm vào vị tríthen chốt chiến lược trên ngả tư “con đường lụa” giao thương của Châu Á, nối
liền Ấn Độ với Ba Tư, Trung Á cũng như với cả Trung Đông và AÂu Châu, nên được
coi như là một tụ điểm giao lưu văn hoá quan trọng.
Căn cứ vào những tài liệulịch sử
còn lưu lại thì Phật giáo có thể đã phát triển tại Càn-Đà-La trong khoảng giữa
thế kỷ thứ 3 trước TL vì thành phố này như được biết, nằm trong lãnh thổ thuộc
quyền cai trị của vua A Dục , một vị vua rất sùng mộ Phật giáo mà các chứng
tích được biết đến như là “trụ đá A Dục” cũng đã được tìm thấy tại đây. Hơn thế
nữa, cuộc đối thoại triết lý giữa Tỳ kheoNa Tiên và vua Milanda -vị vua vĩ đại
nhất của triều đại Indo-Greek đã cai trị vùng này vào khoảng thế kỷ thứ 2 trước
TL- đã được ghi chép lại đầy đủ trong những kinh sách Phật giáo.
Nhưng phải đợi đến khoảng thế
kỷ 1-2 sau TL, Càn-Đà-La mới trở thành một trung tâmPhật giáo quan trọng thuộc
phái Chánh Truyền, ảnh hưởng bởi các tông phái thuộc truyền thốngNhất Thiết
Hữu Bộ (Sarvastivadin), và từ đây, các tăng sĩ Phật giáo Càn-Đà-La đã mang giáo
pháp của đạo Phật vượt ra khỏi biên giớiẤn Độ đi rao truyền tại các quốc gialân
cận như Ba Tư, Trung Quốc,… mà chứng cớcụ thể là hai bản kinh Phật
giáo được viết bằng chữ Kharosthi thuộc ngôn ngữ Gandhari đã được tìm
thấy tại Liễu Dương và Tràng An, hai trung tâmPhật Giáo quan trọng đầu tiên
tại Trung Quốc. Hơn thế nữa, nội dung của bộ A-Tì-Đạt-Ma thuộc truyền thốngNhất Thiết Hữu Bộ -cụ thể là A-Tì-Đà-Tâm-Luận (Abhidharma – hidaya) còn tồn tại
đến ngày nay là bản dịch qua tiếng Trung Quốc, được các học giả đương đại
nghiên cứu về lịch sửPhật giáođồng ý là được kết tập tại Càn-Đà-La. Một sự
kiện không kém phần quan trọng trong lịch sử phát triển Phật giáo là cũng vào
thời điểm này, phái Đại Thừa bắt đầu xuất hiện mà nhiều nhà nghiên cứu cho là
đã được bắt nguồn từ Càn-Đà-La, căn cứ vào các công trìnhđiêu khắchình tượngBồ Tát được tìm thấy tại đây.
Thế cho nêntính cách quan
trọng của Phật giáo Càn-Đà-La là, do vị trí chiến lược quan trọng của nó, đã
đóng một vai tròthen chốttrong lịch sử văn hoá Á Châu như là một chiếc bàn
nhún mà sức bật của nó đã tạo cho Phật giáo một bước nhảy vọt, từ đây Phật giáo
được bành trướng từ quê hương Ấn Độ lan vào Tân Cương (Trung Á) và Trung Quốc,
rồi từ đó truyền khắp Đông Á và cuối cùng, trở thành một tôn giáo có tầm vóc
quốc tế. Tuy nhiênPhật giáo tại Càn-Đà-La đã tàn lụi dần khoảng sau thế kỷ thứ
3 và hoàn toàn biến mất vào khoảng thế kỷ thứ 10, cho nên truyền thốngPhật
giáo này cũng đã bị mai một. Sự phát hiện bộ thủ bản cổ kinh Kharosthi vì thế
đã góp phần đưa ra một chứng cớ quan trọng cho các học giả đương đại trong nỗ
lực từ trước đến nay muốn chứng minh rằng, căn cứ vào những chứng tích lưu lại
tại Càn-Đà-La như hình tượngđiêu khắc, mộ tháp và những kiến trúc, chữ khắc
trên đá,… nay được bổ túc thêm bằng một chứng liệu cụ thể hơn là kinh điễn,
vốn giữ vai tròhệ trọng trong việc truyền báPhật giáo, cho thấy Càn-Đà-La một
thời đã là một trung tâmPhật giáo quan trọng.
Các học giả chuyên nghiên cứu
về Phật giáothời kỳ tiền sơ khởi tại Ấn Độ, từ lâu cũng đã đưa ra giả thuyết rằng,
với một trung tâmPhật giáo có tầm vóc như Càn-Đà-La, chắc chắn tại đây phải có
những học viện, những tàng kinh các của các tự viện, lưu trữ những thủ bản kinh
sách qúy giá. Những thủ bản của bộ cổ kinh Kharosthi vừa được khám phá, được
chôn trong các bình bằng đất sét nung, theo GS. Salomon, là những bản cũ bị
loại ra của tàng kinh các của tu viện, được tô lại rồi chôn đi theonghi lễtống táng dành cho các tăng sĩ đã qua đời. Sự khám phá này là một tài sản qúy
báu ngoài cả mơ ước của GS Salomon, vì theo ông, một cách lý tưởng mà nói, muốn
biết đến các tông pháisơ khởi của Phật giáo là phải kiếm cho được các dư vật
của các tàng kinh các của tu viện. Bộ cổ kinh được tìm thấy tại Càn-Đà-La -tuy
là một mẫu ngẫu nhiên- có thể biểu trưng không ít thì nhiều cho những bộ sách từ
một tàng kinh các lớn, có thể là rất lớn, của một tu việnPhật giáo thuộc
truyền thốngPháp Tạng Bộ (Dharmaguptaka) vào khoảng thế kỷ thứ I sau TL. Khám
phá này cũng cho thấy Phật giáo, cụ thể là Phật giáo Cà-Đà-La, đã được hội nhập
như thế nào tại vùng Bắc Ấn và do đó đã tạo nên những truyền thống mang màu sắc
địa phương, đồng thời nó xác minh một giả thuyết đã nêu ra từ lâu nhưng nay mới
được kiểm chứng về sự hiện hữu của một bộ KinhPhật giáo Càn-Đà-La nay đã mai
một. Hơn thế nữa, nó còn là một chứng cớ về một dấu mốc quan trọng của tiến
trình hình thành kinh điễn Phật giáo từ truyền thốngđọc tụngtruyền khẩu trước
đây bước qua giai đoạn ghi chép bằøng văn tự.
III. NỘI DUNG và
NIÊN ĐẠI CỦA BỘ CỔ KINH KHAROSTHI.
A. NỘI
DUNG:
Như đã nói ở
trên, bộ thủ bản sưu tập vừa tìm được có thể được coi như là một mẫu ngẫu nhiêntiêu biểu cho những gì được lưu giữ tại một tàng kinh các của một tu việnPhật
giáo tại Càn-Đà-La vào khoảng thế kỷ thứ I sau TL, cho nên ta sẽ không ngạc
nhiên khi thấy nó bao gồm hầu như đủ mọi thể loại được dùng trong việc sáng tác
kinh điễn Phật giáo, kể cả văn xuôi, kệ tụng, và tán luận. Đặc biệt một điều
được ghi nhận ở đây là toàn bộthể tàivăn xuôi được viết bằng văn tự Kharosthi
thuộc ngôn ngữ Gandhari (Càn-Đà-La).
1. Kinh điễn bằng văn xuôi
và Luận giải:
Về mặt này, người ta tìm thấy có
các bài kinhtương đối khá dài như Kinh Phúng Tụng (Sangiti-Sutra), mà nội dung
đã được Ngài Huyền Trang dịch ra Hán Văn được biết đến như là Tập Bộ Kinh
(Sangiti-paryaya), tuy nhiên nội dung của phần luận giải thì hai bên hoàn toàn
khác nhau. Đây cũng chính là bài Kinh thứ 33 trong Trường Bộ Kinh của truyền thống Pali (1) mà nội dung tương tự cũng đượ c tìm thấy trong các truyền
thống Sanskrit hay các bản dịch Hán Văn được biết dưới tên gọi là Kinh Trường A
Hàm.
Một bài kinh khác diễn giải về
bốn tầng thiền có nội dung tương tự như được trình bày trong các Kinh điễn
Pali, cụ thể như Sallekha-sutta (bài Kinh số 1.8 trong Trung Bộ Kinh) (2).
Một bài kinh thứ ba thuộc thể tàivăn xuôi có nội dung tương tự như một phần cuả Tăng-Nhất-Bộ-Kinh của truyền
thống Pali mà nội dung được chia làm ba phần chính, trong đó phần thứ nhất ghi
lại cuộc đối thoại giưã Đức Phật và một người Bà La Môn tên Dhona, rất giống
với cuộc đối thoại trong Tăng Nhất Bộ (Anguttara 2.37-9):
“[Người Bà La Môn Dhona]
(3) tiến gần đến Đức Thế Tôn và sau khi tiếp cận [đã nói những lời này] với Đức
Phật:
-Thưa Ngài, Ngài sẽ trở
thành một vị Trời?
– Không, Bà la Môn, Ta sẽ
không là một vị Trời.
– Thưa Ngài, Ngài sẽ là
một Càn-thát-bà?
– Không, Bà la môn, ta sẽ
không là một Càn thát-bà.
– Thưa Ngài, như thế Ngài
sẽ là một Qủy Dạ xoa?
– Không, Bà la môn, ta sẽ
không là một Qủy Dạ xoa?
– Thưa Ngài, như thế Ngài
sẽ là một con người?
– Không, Bà la môn, ta sẽ
không là một con người.
– Khi Ngài được hỏi,
“Thưa Ngài, Ngài sẽ trở thành một vị Trời?” Ngài trả lờinhư vầy, “Không, Bà la
Môn, Ta sẽ không là một vị Trời.” Khi Ngài được hỏi, “Thưa Ngài, Ngài sẽ là một
Càn-thát-bà?” Ngài trả lờinhư vầy, “Không, Bà la môn, ta sẽ không là một
Càn thát-bà.” Khi Ngài được hỏi, “Thưa Ngài, như thế Ngài sẽ là một Qủy
Dạ xoa?” Ngài trả lờinhư vầy, “Không, Bà la môn, ta sẽ không là một Qủy Dạ
xoa?” Khi Ngài được hỏi, “Thưa Ngài, như thế Ngài sẽ là một con người?” Ngài
trả lờinhư vầy, “Không, Bà la môn, ta sẽ không là một con người.” Vậy thưa
Ngài, Ngài sẽ là cái gì ?
– Ta là một vị Phật, này
người Bà La Môn, ta là một vị Phật…”
2. Luận và Những Chú Giải.
Một số lượng lớn văn bản trong bộ
sưu tập này gồm Luận và những Chú Giải. Những thi kệ được trích dẫn trong những
chú giải này tương tự như những bài mà chúng ta thường thấy trong Tam Tạng kinh
điễn thuộc truyền thống Pali thuộc Kinh Tiểu bộ (Khuddakka-nikaya) như Kinh Tập
(Sutta-nipata), Ưu-đà-na (Udana: Kinh Tự thuyết, một phần của Tiểu bộ kinh),
Pháp Cú, Bản sự kinh (Itivuttaka), và Trưởng lão tăng kệ (Theragatha). Sau đây
là một đoạn Luận điễn hình, được tạm dịch như sau:
“Từ hoại đến bất
hoại…”:…: “Bất hoại” là đặc tính của Niết bàn. “Hoại” là đặc tính của ngũ
uẩn mà ta phải loại trừ. Ta nên tìm kiếmNiết bàn; đó là trạng thái trở nên bất
hoại. “Ngọn lửa thiêu đốt”, [có nghĩa là, thiêu đốt] do tam độc; ta phải tìm
cách loại trừ chúng. Bất cứ ở đâu không có ngọn lửa thiêu đốt [như thế] chỗ đó
trở nên “an tịnh”…
Một cách tóm tắt: “Hoại”
là khổ; (trang 29) “ngọn lửa thiêu đốt” đang bùng cháy; và “chuyển đổi”
(có nghĩa là sự bùng cháy này) nên được loại trừ bằng phương tiệnkiến thức;
đây là chánh đạo. Ngược lại : “đoạn” có nghĩa là loại trừ phiền não; “chuyển
đổi” có nghĩa là loại trừ nghiệp báo; [và] “bất hoại” có nghĩa là loại trừ đau
khổ.”
Sau đây là một đoạn ngắn
trong một bài luận khác:
“Sự vật hiện hữu ở khắp
mọi thời. Sự vật hiện hữu ở khắp nơi. Sự vật hiện hữu trong bối cảnh của chúng.
Sự vật hiện hữu như là lý do mà chúng hiện hữu. Sự vật hiện hữu như là các tổng
thể. Sự vật hiện hữu như là do các nhân. Sự vật hiện hữu như là do các duyên.”
3. Các bài Thi Kệ:
Các bài thi kệ trong thủ bản
Kharosthi này tương đốiquen thuộc với chúng ta hơn là hai thể loại trên
vì người ta có thể tìm ra được nội dung tương tự của chúng trong các kinh điễn
Phạn ngữ hay Hán Tạng, cụ thể là Căn bảnNhất thiết hữu bộ luận tụng
(Mulasarvatosvada-Vinaya).
Sau đây là bài thi kệ kể chuyện
một chàng thanh niên tên Kusuma, do cúng dường một bông hoa trang sức
trên mái tóc mình cho ngôi tháp của vị cổ PhậtTỳ bà thi mà được hưởng phước
báu trong nhiều đời, tái sanh nhiều lần vào cõi trời và lần cuối cùngtrở lại
làm người, trở thànhđệ tử của Phật:
“Cài một cánh hoa vào
vành tai, đội vòng hoa [vào đầu], tôi đi ra công viên cùng với chúng bạn.
Ở đó tôi thấy một đại
tháp của vị Phật nổi tiếngTỳ bà thi mà một đám đông đang tụ họp để thờ lạy và
vinh danh Ngài.
Những người bạn tôi đến
quỳ bên ngôi cổ tháp và đặt lên đó những vòng hoa với tất cả tâm thành.
Thấy việc làm của họ và
quan sát những người khác cũng làm như thế, tôi gỡ cánh hoa ở bên tai kính cẩn
dâng lên ngôi cổ tháp.
Chẳng có gì là nhỏ bé ít
oi nếu người ta dâng cả tâm thành lên Như Lai và những môn đồ của chư Phật.
Nếu như trước đây tôi đã
được biết đến Như Lai cùng với những đức hạnh cao qúy của Ngài chắc là tôi đã
thờ phượng Ngài hơn thế nữa; [điều này chắc là đã mang lại được nhiều phước đức
(?)].
Thế nên, nếu biết được vô
lượngđức hạnh của Đức Bổn Sư, thờ phượng những cổ tháp, chắc chắn là sẽ được giải
thoát và tái sanh vào nơi tốt lành.
Chỉ cúng dường một cánh
hoa, tôi đã được bao nhiêu vị trời phục vụ qua hàng ngàn a răng tỳ kiếp
và chung cuộcđược giải thoát.
Thưa chư tôn đức, tôi nhớ
lại được điều này; chỉ cúng dường một cánh hoa, tôi đã gặt được quả lành của
hành động ấy. Nghiệp báo không bao giờ sai chạy.”
Như thế , vị đại đệ tử Kusuma,
người tăng sĩ môn đệ của Đức Thế Tôn đã kể lại câu chuyện về nghiệp qủa của chính
ông ta ở bên bờ hồ Anavatapta.
Một bài thi kệ khác là bài thơ nổi tiếng “Con Tê Ngưu Một Sừng”, (Pali: Khaggavisana-sutta; Sanskrit:
Khadgavisana-gatha), và là một trong những bài kinh quan trọng được lập lại đến
ba lần trong Tiểu-bộ-kinh (Khuddakka-nikaya) của truyền thốngNguyên Thủy (4):
Như con voi đốm to lớn,
dũng mãnhlánh xa bầy đàn [vào chốn núi rừng, người hãy sống riêng một mình như
con tê ngưu một sừng].
Giải phóng mình ra khỏi
tham lam, lừa đảo, lầm lạc, si mê; từ bỏgièm pha, tội lỗi, trở thành [vô ước
vọngsở cầutrong đời sống thế tục], người hãy sống riêng một mình như con tê
ngưu một sừng.
Tại nhà cũng như khắp mọi
nơi, tránh tất cả mọi đấu tranh xung đột, hài lòng với bất cứ cái gì; [chấp
nhận hiểm nguy] không sợ hãi, người hãy sống riêng một mình như con tê ngưu một
sừng.
4. Các Bài KinhThí Dụ
(Avadanas).
Đây là một thể của văn chươngPhật
giáo, đặc biệt là văn chươngPhật giáo hệ Sanskrit, gồm những chuyện giải thíchnghiệp lực, tiền thân giống như Túc Sanh truyện. Hầu hết những bài trong bộ sưu
tập này là những bài không quen thuộc, ít tìm thấy trong các kinh sách hiện
nay.
Tuy được gọi là Phẩm Thí dụtuy
nhiên nội dung của các bài kinh này đã không minh họa bằng những chuyện tích về
nghiệp lực như thường được thấy trong các kinh sách Phật giáo về loại này, mà
chỉ đề cập đến các nhân vật thuộc hai diện sau đây: những khuôn mặt nổi tiếng
dưới thời Đức Phật như Gavampati, Maha Ca Diếp, vua A Dục,… và những nhân vật
lịch sử đương thời dưới triều đại Indo-Scythian tại Càn-Đà-La như Jihonika,
Aspavarman…
Một số loại truyện tích khác có
hình thức giống như loại Thí dụ nhưng lại được sắp xếp dưới đề mục gọi là
chuyện Tiền thân (purvayogah), kể lại những chuyện luân hồitái sanh của các
nhân vật danh tiếng trong truyền thốngPhật giáo như A Nhã Kiều Trần Như,
A Nan, các Bồ Tát. Chẳng hạn như truyện kể tiền thân của Ngài Kiều Trần Như là một
người thợ làm đồ gốm. Bộ Đại sự (Mahavatsu) sau này, trong phần Túc Sanh truyện
cũng có một số tình tiết cũng gần giống như thế.
Sau đây là một đoạn điễn hình
trong câu chuyện ngắn nói về tiền thân của Ngài A Nan:
“Tiền thân của A Nan:
Toàn phần mở đầu được tụng đọc theo nghi thức thông thường (?). Gadhabadhaga
nguyên là vua của xứ Diêm-phù-đề. Ông có hai người con trai, cũng là những vị tổng
trấn địa phương của ông ta: Sabrudidrigo và Bhano. Sabrudidrigo sau này trở
thành một nhà tukhất sĩ và đạt đếngiác ngộ. Câu chuyện được tụng đọc
hoàn toàn. Truyện số 5.”
Ngoài bốn thể tài chính trên
đây, người ta còn tìm thấy trong bộ cổ kinh này một số bài tán luận, tuy nhiên
điều đáng tiếc là những mảnh vỏ cây chứa các đoạn văn này đã bị hư hỏng nên
không thể đọc được toàn vẹn nội dung. Tóm lại, căn cứ trên những nghiên cứusơ
khởi về bộ cổ kinh này, người ta thấy rằng chỉ có khoảng một phần tư của bộ sưu
tập là có nội dung gần gũi với các kinh điễn Phật giáo thuộc truyền thống Pali,
Sanskrit và Hán Tạng được lưu truyền hiện nay, còn phần lớn đã phản ảnh những
nội dung của một truyền thốngPhật Giáo mang tính địa phương, được kết tập tại
Càn-Đà-La.
B. NIÊN
ĐẠI.
Như được đề cập đến ở trên,
hai nhân vật lịch sử đã được nêu lên trong phẩm Thí dụ của bộ cổ kinh này là
vua Jihonika và Aspavarman.
Căn cứ vào những chứng liệu được
khám phá tại vùng này, đặc biệt là những đồng tiền bạc của triều đại Jihonika, nhà
khảo cổ học Marshall đã xác định niên đại cai trị của vua Jihonika là vào
khoảng năm 35 sau TL (5). Gần đây nhà khảo cổ học McDowall (1973), bên cạnh
những đồng tiền này cùng với những bằng chứng khảo cổ mới được phát hiện và các
cuộc nghiên cứu thêm về lịch sửcổ văn địa phương, cũng đã đồng ý với Marshall,
xác định một cách chắc chắn rằng triều đại của vua Jihonika trị vì là vào
khoảng một phần tư thế kỷ đầu tiên sau Tây lịch (6).
Nhân vật thứ hai được giới thiệu
trong bộ kinh này là Aspavarman với phẩm hàm là Quan tư lệnh, xem ra ông là vị
tướng chỉ huy quân đội dưới triều vua Jihonika, tức là người sống cùng thời với
Jihonika. Cả hai đều là những đệ tửthuần thành của Phật Giáo.
Khi đã xác định được niên đại của
triều đại Jihonika, người ta có thể đi đến kết luận rằng bộ thủ bản cổ kinh
Kharosthi không thể được viết ra vào thời điểm trước triều đại Jihonika, tức là
trước năm 35 sau TL mà phải được viết ra hoặc là cùng thời vua Jihonika hay ít
ra nếu chậm lắm cũng phải vào khoảng hai thế kỷ sau đó trở lại. Tuy nhiên, đây
chỉ là những suy đoánthuần lý, muốn có một kết luậndứt khoát hơn, người ta đã
phải dựa vào khoa khảo cổ học.
Để xác định niên đại, bằng chứng
đáng tin cậy hơn cả là các bình đồ gốm chứa đựng bộ thủ bản cổ kinh Kharosthi. Một
nhà chuyên môn về lãnh vực này, Raymond Allchin, căn cứ vào kiểu cách và kỹ
thuật sản xuất đã đi đến kết luận là các bình đồ gốm này có niên đại vào khoảng
đầu hoặc giữa triều đại Kusana -tức triều đạikế tiếp Jihonika, vào khoảng thế
kỷ thứ I đến thứ II sau TL. Kết luận này được bổ túc thêm bằng việc nghiên cứu
loại chữ được khắc trên những bình đồ gốm này mà các nhà chuyên môn về ngữ học,
cũng xác định là có cùng niên đại.
IV. Ý NGHĨA
CỦA VIỆC PHÁT HIỆN NHỮNG THỦ BẢN CỔ KINH.
Các nhà học giảnghiên cứu về
nguồn gốc, lịch sửPhật giáo thời sơ khởitrong khoảng hai thế kỷ trở lại đây
không những đã gặp khó khăn trong việc lý giải quá khứ khi đối đầu với những sự
kiện đã xảy ra trên 2500 năm trước mà thêm vào đó vì Phật giáo đã tàn lụi tại
Ấn Độ từ bao nhiêu thế kỷ qua nên khó có thể tìm được những nguồn tài liệu gốc.
Để khắc phục vấn nạn này, các nhà học giả không còn một chọn lựa nào khác hơn
là nương tựa chính vào các kinh sách Phật giáo còn được lưu truyền lại, và tất
cả nói chung đều có khuynh hướngï xem bộ Tam Tạng kinh điễn bằng tiếng Pali của
Phật giáo Nguyên Thủy là tiêu biểuduy nhất cho toàn bộ những sao lục đúng đắn của
giáo lýPhật giáo và đáng tin cậy hơn cả.
Tuy nhiên, dần dần với những
phương thức tiếp cận và phát hiện mới, đặc biệt là một số lượng lớn các thủ bản
kinh sách bằng tiếng Phạn (Sanskrit) được tìm thấy tại vùng Nepal và Tân Cương
(nay thuộc Trung Quốc) trong thế kỷ thứ 19, các học giả đã nhận thức được rằng vấn
đềPhật giáo trong thời sơ khởi tại Ấn Độ đã mang những sắc thái phong phú và
đa dạng hơn là họ tưởng lúc ban đầu, phản ảnh rất nhiều truyền thống, bộ phái
chứ không phải chỉ có truyền thống Pali mới là tiêu biểu cho những gì chân thực
và đúng đắn nhất của giáo lýPhật đà.
Chính bắt nguồn từ cái nhìn
rộng mở này mà GS Salomon đã đưa ra nhận định rằng: “Những kinh điễn của truyền
thống Hán Tạng được dịch từ nguyên bản Ấn Độ đã bảo lưu được phần lớn nội dung
của Tam Tạng Kinh điễn (Kinh, Luật, Luận) của những trường phái Phật GiáoẤn Độ
khác nhau của thời tiền sơ khởi như Nhất Thiết Hữu Bộ, Pháp Tạng Bộ, Đại Chúng
Bộ… Mặc dầu hiện nay các bản kinh gốc tiếng Ấn Độ đã không còn tồn tại, trên
nguyên tắc, bộ phận Hán Tạng vẫn cóđủ tư cách, thẩm quyền cũng như đảm bảo
được xuất xứtrung thực của nó như là các Kinh điễn của truyền thốngNguyên
Thủy.”
Đứng trên quan điểmthuần túy
khách quan, khoa học, những văn bản -đặc biệt là thủ bản- càng cổ điễn chừng
nào thì càng đảm bảo được độ trung thực, chính xác của nội dung Kinh điễn
nguyên thủy chừng nấy. Tuy nhiên do điều kiện khách quan của thời đại, các
phương tiện chính dùng để ghi chép, lưu trữ kinh sách của thời xa xưa -thường
sử dụnglá bối và võ cây bạch đàn- khó có thể tồn tạilâu dài trong khí hậu
nhiệt đới khắc nghiệt của vùng bán đảo Ấn Độ. Nhìn vào các Kinh điễn Phật Giáo
được chính thứccông nhận hiện nay, ta thấy các số lượng lớn kinh sách của
truyền thốngNguyên Thủy cổ nhất còn được bảo lưu tại Tích Lan cũng chỉ có niên
đại chừng vài thế kỷ trở lại đây. Trong khi đó tại Ấn Độ, Phật Giáo đã tàn lụi từ
thế kỷ thứ 13, chôn vùi theo cùng với nó tất cả các truyền thống ghi chép và
bảo lưu kinh sách cho nên rất ít kinh sách cổ điễn còn tồn tại. Nepal là xứ mà
Phật Giáotương đối còn sống độngcho đến nay, những văn bản kinh điễn cổ nhất
khám phá được cũng chỉ có niên đại khoảng chừng 1000 năm trở lại.
Ngược lại, khí hậu sa mạc là
khí hậu thích hợp nhất cho việc lưu giữ các tài liệu được viết trên các loại lá
cây, võ cây… Thế cho nên, nếu không kể đến việc khám phá bộ cổ kinh lâu đời
nhất của Phật Giáo tại Càn-Đà-La, trái với những điều mà người ta tin tưởng từ
trước đến nay, các nhà học giả Mỹ, Nhật Bản và AÂu Châu chuyên nghiên cứu về
lịch sửPhật Giáo hiện nay đã đồng ývới nhau rằng sự khám phá hàng ngàn thủ
bản kinh sách viết bằng tiếng Phạn và những thổ ngữ địa phương tại vùng Tân
Cương, Trung Quốc, một trung tâmPhật giáo quan trọng của đầu Thiên niên kỷ thứ
nhất, có tuổi tác từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 7, lại là những kinh điễn cổ
nhất của Phật Giáo được tìm thấy, và dĩ nhiên có giá trị sử liệu hơn là
những kinh điễn mới vì đã không bị thêm bớttrong suốt quá trình chuyển lưu.
Điều này đã có một tác động và ảnh hưởng lớn trên quan điểmhọc thuật về việc
nghiên cứulịch sửPhật Giáo, từ trước đến nay vốn đặt trọng tâm vào kinh điễn
Nguyên Thuỷ như là nguồn tài liệu có giá trị và phản ảnhtrung thực nhất giáo
lý của Phật đà.
Việc khám phá bộ thủ bản cổ kinh
Kharosthi đã cho ta thêm một chứng cớcụ thể về những kinh điễn đã được dùng
trong giai đoạn sơ khởi của Phật giáo. Qua công trìnhnghiên cứu sơ bộ, người
ta đã tìm thấy một số khác biệt có ý nghĩa về mặt hình thức giữa kinh điễn cổ so
với các kinh điễn được chấp nhận trong các truyền thốngPhật giáo đương đại,
cũng như có một số nội dung và thể loại mà cho đến nay chúng ta chưa hề được
biết đến. Điều này đặc biệt quan trọng, bởi vì Phật giáo -như bất cứ mọi tôn
giáo có truyền thống kinh viện khác- những kinh điễn được chính thứccông nhận
thường là những bản sao lục theo đúng nguyên văn của các nhóm địa phương và ngữ
hệ khác biệt, cụ thể như truyền thống Pali, hay Tây Tạng.
Những kinh sách được xem là tiêu
chuẩn này không thể tránh được việc một số nội dung ban đầu có thể đã bị
ỉm đi để chỉ đưa ra một phần nào đã được cắt lọc có nội dung phù hợp với truyền
thống của tông phái mình, vô hình chung những phần đang tranh cãi, hoặc
bị coi là dị giáo có thể đã bị kiểm duyệt, cắt xén, làm mất đi tính đa dạng,
phong phú của kinh điễn trước đó.
Thế nên chỉ qua sự khám phá và
lý giải các thủ bản cổ điễn, những học giả chuyên môn về nghiên cứulịch sửPhật giáo mới có thể hé nhìn được một vài sự thật ở phía đằng sau cái bề mặt đã
được thiết định của một truyền thốngtôn giáo đểø cố gắng phơi bày ra ánh sáng
một bức chân dung đa dạng, đầy phức tạp của lịch sử. Cuộc khám phá bộ thủ bản
cổ kinh Kharosthi của Phật GiáoCàn Đà La, vì thế theo đánh giá của GS Salomon,
“sẽõ mở ra một chương mục hoàn toàn mới cho các công trìnhnghiên cứuPhật giáo
sau này.”
Tâm Hà Lê Công Đa.
CHÚ
THÍCH:
1. Xem thêm bản dịch của
HT Minh Châu, Kinh Phúng Tụng, Trường Bộ Kinh, Phẩm thứ 33:
http://zencomp.com/greatwisdom/uni/u-kinh-truongbo/truong33.htm
2. Tức Kinh Sàleyyaka sutta
phẩm 41, Trung Bộ Kinh, Bản dịch của HT Minh Châu: http://zencomp.com/greatwisdom/uni/u-kinh-trungbo/trung41.htm
3. […] Những chữ, câu
được để trong dấu ngoặc vuông […] là những chữ, câu mà một số mẫu tự hoặc là
không rõ ràng hoặc đã bị mất dấu trong bản Kinh Kharosthi, nên nội
dung có thể không được chính xác.
4. Bản dịch của HT Thích
Minh Châu. (Lưu ý đến thứ tự đảo ngược trong bản Kinh Kharosthi).
53. Như con
voi to lớn,
Từ bỏ cả bầy đàn,
Thân thể được sanh ra,
To lớn tợ hoa sen,
Tùy theo sự thích thú,
Sống tại chỗ rừng núi,
Hãy sống riêng một mình,
Như tê ngưu một sừng.
56. Không tham, không lừa
đảo,
Không khát dục, gièm pha,
Mọi si mê ác trược,
Được gạn sạch quạt sạch.
Trong tất cả thế giới,
Không tham ái uớc vọng,
Hãy sống riêng một mình,
Như tê ngưu một sừng.
42. Khắp cả bốn phương trời,
Không sân hận với ai,
Tự mình biết vừa đủ,
Với vật này vật khác,
Vững chịu các hiểm nguy,
Không run sợdao động,
Hãy sống riêng một mình,
Như tê ngưu một sừng.
5. Marshall, John. 1951. Taxila : An Illustrated Account of Archaeological
Excavations Carried Out at Taxila.” Cambridge: CambridgeUniversity Press.
6. McDowall, David W. 1973.
“The Azes Hoard from Shaikan-Dheri: Fresh Evidence for the Context of
Jihonica.” pp215-30. London:
Ducworth