QUA KINH PHỔ DIỆU (LALITAVISTARA)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tảcuộc đờiđức Phật với những thần thôngbiến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa, thuộc hệ Phương Đẳng.[1] Tuy nhiên, mở đầu kinh này mô tảcuộc đờiđức Phật với nhiều điểm tương đồng với quan điểm của Nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada); phái này thuộc phái Tiểu thừa.
Kinh Phổ diệu do S. Lefmann xuất bản, ông là người đầu tiên đưa ra bản dịch chương đầu kinh này tại Berlin năm 1875. Học giả vĩ đại người Bengali Bajendralal Mitra đã chuẩn bị một bản dịch tiếng Anh cho bộ sưu tập Bibliotheca Indica gồm ba quyển đã được ra đời. (Calcutta, 1881 đến 1886). Ông ta cũng đã đưa ra một bản chưa hoàn chỉnh. Một bản dịch bằng tiếng Pháp của Foucaux xuất hiện ở Paris trong Annals du Musee Guimet, vol. VI, XIX, (Paris, 1887-1892).
Bản dịch tiếng Hoa của kinh này mô tảcuộc đờiđức Phật tương đồng với sự mô tả của Nhất thiết hữu bộ.[2] Tác phẩm Romantic Legend của Beal là một bản dịch rút ngắn từ bản tiếng Hán kinh Abhinish-Kramana Sutra, bản Sanskrit của kinh này không còn, nhưng nó được dịch sang tiếng Hán rất sớm từ năm 587 stl. Bản kinh này lại mô tảlịch sửđức Phật tương đồng với quan điểm của Pháp mật bộ/Đàm-vô-đức (Dharmaguptas).
Tuy nhiên, tư tưởngĐại thừa đã thể hiện ngay tiêu đề “La- litavistara” (tường thuật về thần thôngdiệu dụng của đức Phật) của bản kinh này. Như vậy cuộc đời của đức Phật trên trần gian được mô tả như là điều vi diệu của một con người siêu xuất thế gian.[3]
Trong chương mở đầu, đức Phậtxuất hiện như là một thiên thầntối thắng, dù được mở đầu bằng hình thứccổ điển như trong kinh tạng Pāli với dòng chữ “Như vậy tôi nghe, một thời Phật tại thành Xá-vệ, trong tinh xá Kỳ Hoàn, vườn ông Cấp Cô Độc.”
Mục Lục
- Hình tượngquá độ
- Ý niệm Đản sinh của đức Phật
- Tội bất tín
- Tạng Pāli và Sanskrit khi trở lùi lại một nguồn gốc xưa cũ hơn
- Đức Phật đến trường học
- Công hạnh của đức Phật
- Những thành tố của kinh Phổ diệu
- Dịch sang tiếng Hán và Tây Tạng
- Liên hệ với mỹ thuật Phật giáo
- Không có hình tượng trong Phật giáo nguyên thủy
- Đánh giá chung về kinh Phổ diệu
Hình tượngquá độ
Nhưng lúc đó, trong tạng Pāli, đức Phật được giới thiệu với lối mở đầu rập khuôn tương tự với cách diễn đạt và có một số đệ tử chung quanh, hay ít nhất có đầy đủ đại chúng ‘500 tỷ-khưu’ và tức thì pháp hộigiảng kinhchính thức bắt đầu. Trong kinh Phổ diệu, cũng như trong kinh Phương đẳng là một quang cảnhlong trọng, bao phủ bởi hào quangthiêng liêng. Ngài được bao quanh bởi đại chúng gồm 12.000 vị tỷ-khưu và hơn 32.000 Bồ-tát, ‘tất cả đều là nhất sanh sở hệ Bồ-tát, tất cả đều xuất sinh với sự viên mãn của một Bồ-tát, tất cả đều có được trí huệ của một Bồ-tát, tất cả đều có được các thứ thần thông vi diệu…’ Trong thiền định lúc nửa đêm, từ nhục kếđức Phật phóng ra luồng hào quang xuyên suốt các cõi trời và chấn động cả chư thiên. Lát sau, lập tức phát ra khúc hát tán thánđức Phậttối thắng và ngay sau đó, Iśvara (Thiên chủ) xuất hiện cùng chư thiên đến trước đức Phật, quỳ dưới chân Phật và cầu thỉnh Ngài giảng nói kinh Phương quảngthù thắng có tên là Phổ Diệu để cứu độ và hạnh phúc cho thế gian. Điểm nổi bật của kinh này là những lời tán thán tối tôn của thiên chủ và chư thiên về thần thôngvi diệu của đức Phật; chư Phật quá khứ cũng tán dương điều này, đức Thích Tôn tán đồng bằng sự im lặng. Sau những giới thiệuchi tiết nầy, kinh bắt đầu mô tảcuộc đờiđức Phật, đây là nội dung chính và xuyên suốt của tác phẩm này. Kinh này mô tảcuộc đời của Ngài tương đồng với nội dung phần II của kinh Nidanakath, thuộc Bản sanh truyện.
Ý niệm Đản sinh của đức Phật
Bồ-tát an trụ trên cung trời Đâu-suất[4] trong một cung điện nguy nga tráng lệ. Bồ-tát được dâng tặng hơn cả trăm danh hiệu cao quý, và hàng chục thiên cung để Ngài cư ngụ. Dưới âm thanh của dàn nhạc trời gồm 8 vạn bốn ngàn chiếc trống cầu thỉnh Ngài thị hiện ở thế gian để khởi đầu ý nguyệncứu độchúng sinh. Sau thời gian dài tìm hiểu trong số đông những gia đìnhưu tú, nghèo hèn, vương tộc đều được xem xétcẩn thận, và sau cùng Bồ-tát quyết định thọ sanh vào gia đình vua Tịnh Phạn, trong bào thai hoàng hậu Maya. Hoàng hậu là người có đủ phẩm tính thân mẫu của một đức Phật. Sắc đẹp hoàn hảo của bà được mô tả đến từng chi tiết, đó là đức hạnh và trinh khiết.
Bên cạnh đó, trong tất cả các phụ nữẤn Độ, bà là người duy nhất được chọn để đức Phật tương lai nhập thai, vì trong bà có sự hoà hợpsức mạnh của cả vạn con voi. Ý niệm nầy được phát triển với sự hộ trì của chư thiên sau khi Bồ-tát đã quyết định nhập vào thai mẹ bằng hình tướng của một con voi. Chư thiên chuẩn bị không những một trụ xứ như thiên đường cho hoàng hậu Maya cư ngụ trong thời gian mang thai, mà còn kiến trúc một cung điện bằng ngọc quý ngay trong bụng của bà để Bồ-tát có thể không bị vấy bẩn trong suốt 10 tháng trụ thai. Trong bảo điện, Bồ-tát ngồi một cách nhu nhuyếndịu dàng. Nhưng thân Ngài phát ra ánh sáng huy hoàng rực rỡ, và chính luồng ánh sáng đó lan rộng ra hằng dặm từ bào thai của mẹ ngài. Một cơn đau đến với hoàng hậu Maya và được điều phụcngay sau khi bà đưa tay lên đầu. Và bất kỳ khi nào bà nhìn phía bên phải của mình, bà đều thấy Bồ-tát trong bào thai mình như là một người trông thấy khuôn mặt chính mình trong gương. Thế rồi Bồ-tát trong thai mẹ làm cho chư thiênvui thích bằng những bài giảng pháp và Phạm thiên đều tuân theo mọi gợi ý của Ngài.[5]
Ý niệm về việc sinh hạ của Bồ-tát cũng như vậy. Nó được diễn ra cùng với những điều thần diệu và những điềm lành. Trong vườn Lâm-tì-ni, Bồ-tát hạ sanh theo cách như chúng ta đã biết qua vô số mẫu dạng kiến trúc, không giống như một con ngườibình thường mà một Đấng Tối Thắng (Exalted Being), một Ma- hapurusha, “The Great Spirit”. Hoa sen đỡ dưới mỗi bước chân của hoàng tử sơ sanh báo cho mọi người biết sự cao quý của Ngài khi bước đi bảy bước về phía sáu hướng chính.[6]
Tội bất tín
Ở đây câu chuyện bị cắt ngang bởi cuộc đối thoại giữa A-nan và đức Phật, trong đó có đề cập đến những người không tin sự nhiệm mầu khi Bồ-tát đản sanh (chương vii, p. 87 – 9). Niềm tin vào đức Phật, được dạy là một thành phần cốt yếu của tín ngưỡng:
“Đối với tất cả những ai tin vào Như Lai, Như Lai đều đem điều tốt lành đến cho họ. Như những người bạn, họ đến với Như Lai để tìm sự trú ẩn. Và có nhiều người bạn mà Như Lai đã làm như vậy. Và đối với những người bạn ấy Như Lai chỉ nói sự thật, không hư vọng… Để tin, A-nan nên gắng hết sức của ông, đây là điều Như Lai phó thác cho ông.”
Tại sao cuộc đối thoại nầy xuất hiện ngay đây chắc hẳn là không do ngẫu nhiên, nhưng nó dựa trênthực tế chính là có liên quan với truyện kể về ý niệm đản sanh của đức Phật mà kinh Phổ diệu đã tách ra, rất đáng chú ý từ những trường phái Phật giáo khác trong tính quá độ như đối với tính chấthuyền diệu mà không quá lâu trong chiều hướng tương lai của câu chuyện. Thực vậy, ở đây thường có sự hài hòa rất cao đối với những mô tả cổ xưa nhất trong tạng Pāli, có nghĩa là, trong Mahavagga của Luật tạng (Vinayapiṭaka), dù có lẽ nó được ghi chú một cách tình cờ rằng các kệ tụng trong kinh Phổ diệu xuất hiệnlâu đời hơn phần kệ có trong tạng Pāli (Đối chiếu kinh Phổ diệu trong truyền thống Pāli do Oldenberg thực hiện trong OC, V, 1882, vol. 2, p.117 to 122 và Windisch trong tác phẩm Mara and Buddha’ and Buddha’s Birth cũng như do Kern trong SBE, vol. 21, p. xi ff.)
Tạng Pāli và Sanskrit khi trở lùi lại một nguồn gốc xưa cũ hơn
Hai bản văn ở hai tạng trong mỗi trường hợp đều không tùy thuộc lẫn nhau; nhưng cả hai đều trở lùi lại chung một truyền thống cổ xưa hơn. Mà thậm chí ở đây kinh Phổ diệu có nhiều điều không có trong bản cổ xưa. Hai tình tiết cá biệt là không đáng để ý. Một tình tiết trong những chỗ nầy (chương 8) lại kể rất tỉ mỉ khi Bồ-tát còn nhỏ, Ngài được nuôi dưỡng bởi người mẹ kế, kể về các ngôi đền và các hình tượngchư thiênsùng bái, đặt Ngài lên trên bệ để đảnh lễ ngay dưới chân Ngài như thế nào. Chương khác (chương 10) kể lại lần đầu tiên đức Phật đến trường học.
Đức Phật đến trường học
Với một đoàn tùy tùng gồm 10 ngàn cậu bé với những phô bày rất thiện hảo, với sự tham dự của chư thiên–8000 thiên nữcùng lúcrải hoa trước Ngài–vị Bồ-tát thiếu niên chào mừng lễ được nhận vào trường học. Thầy hiệu trưởng không chịu đựng nỗi niềm vinh quang của một thiên thầnhoá sanh và ông ta liền bất tỉnh ngã lăn xuống đất. Một thiên thần đỡ ông ta dậy và hồi tỉnh cho ông với sự giải thích rằng các vị Bồ-tát đều là những bậc Tối thắng và không cần phải học nữa, nhưng các Ngài đến trường chỉ vì tuỳ thuận tiến trình thế gian. Rồi Bồ-tát làm sửng sốt ông hiệu trưởng với câu hỏi về 64 mẫu tự[7] mà ông ta sẽ dạy cho Ngài. Và Ngài kể tất cả lần lượt 64 mẫu tự, trong đó gồm cả những nét của tiếng Hán và của Huns–những mẫu tự thậm chí thầy giáo cũng không biết cả tên gọi. Sau cùng, với một vạn cậu bé, Ngài bắt đầu buổi học với những mẫu tự. Cùng với mỗi mẫu tự, Ngài đều nói ra mỗi câu châm ngônthông tuệ.
Theo Gurupuja Kaumudi (p. 116 f.) của E. Kuhn, hai truyền thuyết về thời thiếu niên của đức Phật nầy có lẽ phù hợp với kinh Ngụy tạo (Gospels Apocrypha), kể chuyện tương tự về thời thiếu niên của chúa Jesus. Chương 12 và 13 còn có những tình tiết không có trong tiểu sửđức Phật. (Winternitz, WZKM 1912, p. 237 f.)
Công hạnh của đức Phật
Về mặt khác, trong tiến trình xa hơn của chuyện kể trong kinh Phổ diệu (chương 14-26), lệch hướng không chỉ chút ít từ truyền thuyết mà chúng ta biết từ các nguồn khác; sự kiện chính trong cuộc đờiđức Phật là bốn sự tiếp xúc, mà qua đó, Bồ-tát học được về sinh, lão, bệnh, tử; sự vượt thoát ra khỏi hoàng cung, cuộc gặp gỡ với vua Tần-bà-sa-la.[8] Những năm tháng học hỏi của sa-môn Cồ-đàm (Gautama) và việc tu tậpkhổ hạnhvô ích; cuộc chiến đấu với ma vương; và sự giác ngộcuối cùng và giảng dạy giáo pháp cho toàn thểchúng sinh ở thế gian theo lời thỉnh cầu của Phạm thiên (Brahma).
Những thành tố của kinh Phổ diệu
Phần nhiều những đoạn thi kệ nầy là các bài tán cacổ điểndiễm lệ vốn có cùng nguồn gốc cổ xưa như kệ tụng trong Kinh Tập (Sut- tanipata) thuộc tạng Pāli như đã nói ở trên. Những ví dụ như truyền thuyết về đản sanh và tình tiết về đạo sĩ A-tư-đà (Asita) trong chương VII, lịch sử vua Tần-bà-sa-la (Bimbisāra) trong chương XVI, cuộc đối thoại với ma vương trong chương XVIII.
Chúng thuộc về thi catôn giáo thế kỷ thứ nhất sau thời đức Phật. Nhưng cũng có vài đoạn văn kinh, giống như bài giảng ở thành Ba-la-nại (Benares)[9] trong chương thứ XXVI, có thể gọi là mức độ cổ xưa nhất trong truyền thốngđạo Phật. Mặt khác, những thành phần nội dung mới lại được tìm thấy không những trong văn xuôi mà còn cả trong phần kệ (gatha), trong đó nhiều đoạn được biên soạn bằng thể thơ mang tính nghệ thuật rất cao. Đó là Vasantatilaka và Shardula- vikridita vốn thường là khá hay (xem chú dẫn về vần luật trong ấn bản Lefmann’s VII, p. 227 f, và Dẫn nhập, p. 19 ff).
Dịch sang tiếng Hán và Tây Tạng
Chúng ta không biết được bản được biên soạn sau cùng của kinh Phổ diệu ra đời là khi nào. Trước đó, một khẳng định sai lầm cho rằng tác phẩm này được dịch sang tiếng Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ I TL. Vì vấn đềthực tế là chúng ta không biết gì cả về tiểu sử của đức Phật có tên là Phuyau-king được ấn hànhvào khoảng năm 300 stl., điều được viện dẫn là ‘bản dịch thứ hai của Kinh Phổ diệu,’ thực ra là bản dịch kinh văn mà chúng ta đang sử dụng (Winternitz, WZKM 1912, p. 241 f.). Một bản dịch chính xác từ tiếng Sanskrit là thuộc tạng kinh tiếng Tây Tạng, đến thế kỷ thứ 5 mới được ra đời. Bản nầy đã được biên tập và do Foucaux dịch sang tiếng Pháp. Điều chắc chắn có thể xảy ra là có một bản dịch ít nhiều khác với bản kinh Phổ diệu chúng ta đang được biết là nổi tiếng với chừng 850-900 bức tranh được các nghệ sĩ trang trí ở ngôi chùa trứ danh Boro-Budur ở Java. Vì những bản kinhtráng lệ nầy trình bày các quang cảnh trong truyền thuyết
về đức Phật theo phong cách như thể các nghệ sĩ đang sáng tạo với bản kinh Phổ diệu trên tay. Và Pleyte đơn giảntóm tắt lại toàn bộ nội dung kinh Phổ diệu như là một giải thích của các bản điêu khắc (The Buddha legend in the sculpture in the temple of Boro- Budur, Amsterdam, 1901. Xem thêm La Museon 1903, p. 124 ff, của Speyer).
Liên hệ với mỹ thuật Phật giáo
Nhưng các nghệ sĩ đã trang hoàng cho các tượng đài đạo Phật mang phong cách Hy Lạp (Greco-Buddhistic) ở miền Bắc Ấn với những hoạt cảnh về cuộc đờiđức Phật cũng đã quen thuộc với truyền thuyếtđức Phật được kể trong kinh Phổ diệu. Họ đã sáng tạo các tượng đó chắc chắn là không theo kinh văn, mà phù hợp với lối truyền miệng sinh động. Tuy nhiên, sự hài hoà giữa điêu khắc và kinh văn tiếng San- skrit không hiếm thấy như một đặc điểm mà chúng ta phải giả định là truyền thốngvăn học lúc đó bị ảnh hưởng bởi mỹ thuật. Mỹ thuật và văn chươngthường cóảnh hưởnghỗ tương.
(Những thẩm quyền có thể được tham khảo ở đây là L’art Greco-bouddhique du Gand- hara, part I, 324 f. 666 ff ; Grun- wendel Buddhist art in India, p. 94, 04; f-t 134; Senart OC XIV, 1905, p21 ff ; và Bloch ZDMG 62, p. 370 ff.)
Không có hình tượng trong Phật giáo nguyên thủy
Trong mỹ thuật Phật giáo cổ đại vào thời đại A-dục (Aśoka) nghệ thuật chạm nổi của Bhar- hut, Sanchi, v.v… không chạm khắc hình tượngđức Phật, mà chỉ có biểu tượng (có nghĩa là bánh xe pháp luân) cho nhân cách của người sáng lậptôn giáo. Hình tượngđức Phật chỉ xuất hiện trong nghệ thuật Gandhara. Có thể nào không có mối liên hệ với điều nầy trong những thế kỷ khi đức Phậttrở thành một đối tượng sùng bái (bhakti) và việc tôn thờ đức Phật đã tạo thành điểm trung tâm của tín ngưỡng? Thế nên có sự chứng thực hiện thời về kỷ nguyên của nghệ thuật Gandhara, từ thuở bình sinh (flo- ruit) vốn suy tàn vào thế kỷ thứ II stl., cũng là thời kỳ của kinh điển Đại thừa đề cập đến truyền thuyếtđức Phật.
“Trên nền tảng phong cách xuất phát từ trường hợp đầu tiên của nền nghệ thuật Greco-Roman chỉ có thể là thời kỳ từ thế kỷ đầu cho đến thế kỷ thứ IV.” (Grun- wendel Buddhist Art, in India, p.31). Theo Foucher trong tác phẩm L’art Greco-bouddhique du Gandhara, part 1. p. 40 ff., thời kỳ hưng thịnh của nghệ thuật Gandhara trùng hợp với hậu bán thế kỷ thứ hai stl.
Đánh giá chung về kinh Phổ diệu
Do vậy, có thể nói rằng kinh Phổ diệu hàm chứa nội dung mô tảcuộc đờiđức Phật được ghi chép trải qua vài thế kỷ của hai giai đoạn Phật giáobộ phái và Phật giáo phát triển. Một nguồn rất quan trọng về đạo Phật cổ xưa chính là ở đây, nơi có sự trùng hợp với kinh văn Pāli và các kinh khác bằng tiếng Sanskrit như Đại sự (Mahāvastu). Nhưng từ quan điểmlịch sửvăn học, kinh Phổ diệu là một trong những tác phẩm quan trọng nhất trong văn họcPhật giáo. Quả thực như vậy, không những cuộc đờiđức Phật là thiên anh hùng ca, mà còn tiêu biểu như viên ngọc quý duy nhất. Chính từ những bài tán ca và những tình tiết đã được bảo trì trong từng chi tiết cổ xưa nhất của kinh Phổ diệu, không nói có lẽ chính từ kinh Phổ diệu, mà đại thi hàoPhật giáo là ngài Mã Minh (Aśvaghosa) đã sáng tạo nên thiên sử thi tráng lệ là Phật sở hành tán (Buddha-caritakāvya), ca ngợicông hạnhđức Phật.
[1] Phương quảng (方廣), Phương đẳng (方等; s: vaipulya) hoặc Quảng đại kinh (廣大經), gọi theo âm là Tì-phật-lược (毗佛略); Phương đẳng kinh (方等經); S: vaipulya-sūtra; Chỉ một thể loại kinh Đại thừa với các nội dung nhất định. Các kinh sau đây thuộc về kinh Phương đẳng: Bát-nhã ba-la-mật-đa, Hoa nghiêm, Bảo tích. Ngoài raPhương đẳng kinh của Trung Quốc còn kể thêm kinh Đại bát-niết- bàn, Đại tập (s: mahāsaṃ-nipāta-sūtra) và Diệu pháp liên hoa. [2] Beal (Intr.), the Romantic Legend of Sakya Buddhafromthe Chinese Sanskrit, London, .1875. Also Foucaux’s French vol. II.,) translation of Lalitavistara introduction, (tác giả chú thích) [3] Lalita: (nt.) grace; charm. [4] Gratified (Tushita) [5] Phần nầy có trong chương 2 đến chương 6. Phần đầu của chương 6 đã được Windisch dịch trong tác phẩm Buddha’s Geburi, p. 162 ff (tác giả chú thích). [6] Đông, Tây, Nam, Bắc, phương trên, phương dưới. [7] Pāṇini, nhà ngữ âm học đầu tiên của Ấn Độ có đề cập đến bảng hệ thống mẫu tự gồm 82 mẫu âm và 64 mẫu âm nầy vào thời đại của ông, và trước đó được dùng trong Phệ-đà. Hệ thống mẫu tự Sanskrit hiện nay gồm 13 mẫu âm, 33 phụ âm và 2 âm bổ sung. Tộng cộng 48 mẫu âm. [8] Bimbisāra: Bình Sa vương. [9] Vāraṇas; 波羅捺.