Tính Chất Giáo Dục Của Giới Luật Phật Giáo

TÍNH CHẤTGIÁO
DỤC
CỦA GIỚI LUẬTPHẬT GIÁO

Thích Phước Sơn

 

Lịch
sử
cho chúng ta thấy có những tôn giáo, những chủ thuyết tỏ ra sáng giá một
thời, nhưng khi trải qua những thử thách khắt khe của thời gian thì liền chìm
vào quên lãng. Tại sao vậy? Tại vì nó thiếu những nguyên tắc chỉ đạođúng đắn
và thiếu các tu sĩ để duy trì. Phật giáo nói riêng, các tôn giáo khác nói
chung, tỏ rađủ sức mạnh để tồn tại với thời gian là vì có những nguyên tắc
sống tương đối hoàn chỉnh và có các tu sĩ thuộc thành phần cốt cán để duy trì.
Các tu sĩthường có bổn phận giữ gìn những giới luật mang tính chấtgiáo dục
rất đa dạng, nhằm hướng dẫn cuộc sống của mình đến chỗ hoàn thiện. Sau đây, chúng
tôi
xin trình bày về tính chấtgiáo dục trong giới luật của đạo Phật.

1- Phát huy
lòng từ bi, cứu khổ

Đức từ bi, cứu
khổ
gần như là đặc trưng của Phật giáo. Nói đến đạo Phật, người ta nghĩ ngay
đến “cửa từ bi”, “đạo cứu khổ”, vì đó là bản chất của Phật
giáo
, nên kinh điểngiới luật luôn đề cập đến. Giới thứ 9 của Bồ tát nói:
“Không được giận dữ kẻ khác, mà phải phát khởitừ tâmtha thứ những lỗi
lầm
của họ”. Giới thứ 21 lại bảo: “Không được đem sự thù hận để đáp
lại
sự thù hận, không được đem sự đánh đập trả lại sự đánh đập, không mang tâm
niệm
trả thù những kẻ đã tàn sát những người thân yêu của mình. Tóm lại, tàn
sát sự sống để trả thù sự sống là hành vitrái với đạo hiếu sinh của Bồ
tát”. Cố nhiên, “hại nhân nhân hại”, “sát nhân thường mạng”
đó là lẽ thường tình của cuộc đời, nhưng cứ “dĩ oán báo oán” thì oán
oán sẽ chập chùng, vòng nhân quả “vay trả trả vay” sẽ trở nên bất tận
khiến cho những nỗi khổ đau của kẻ khác và của chính mình sẽ không bao giờ kết
thúc
. Thế nên Đức Phật dạy các đệ tử của Ngài phải “dĩ đức báo oán”
thì mới chuyển hóa được oan giatrở thành bạn lữ. Tha thứ và cứu giúp kẻ khác
trách nhiệm của hàng đệ tửđấng Giác ngộ, như trong giới thứ 6 Bồ tát trình
bày: “Nếu có người đến cầu xin, thì người Phật tử phải tùy theo khả năng
của mình mà giúp đỡ họ”, và “Khi thấy người bệnh tật, người Phật tử
phải cứu giúp họ như phụng sự chư Phật”.

Giúp đỡ người
cùng khốn, cứu chữa kẻ bệnh tật là việc ai cũng làm được và đều có nghĩa vụ
phải làm chứ không riêng gì đệ tử của Phật. Điều đáng nói ở đây là Đức Phật xem
những việc từ thiện đó như là biểu lộ sự quan tâmphụng sự chính Ngài. Lời
khuyên
dạy này nói lên tấm lòng nhân ái bao la của Đức Đạo sư, chính vì thế mà
nhân loại tôn xưng Ngài là đấng Từ bi và đạo của Ngài là đạo Cứu khổ.

Đức từ bi của
Phật không những nhằm cho con người mà còn phổ cập đến cả muôn loài qua giới
“Không sát sinh” (giới thứ nhất của người tại gia). Nhưng muốn giữ
trọn vẹngiới khôngsát sinh, người thọ giớiBồ tát còn phải giữ giới “Không
ăn thịt” (giới 20 của Bồ tát); không ăn thịtthể hiệntrọn vẹnlòng từ
bi của Đức Phật và của hàng đệ tử Phật đối với muôn loại sinh linh.

2- Thực hiệnnếp sốngtri túc, kiệm ước

Muốn giúp đỡ kẻ
khác hữu hiệu, đúng ý nghĩa thì chính bản thân mình phải sống bằng một nếp sốngkỷ cươngtri túc. Do đó, các vị Tăng sĩ phải tuân thủ những giới điều như:
“Chỉ may sắm ba y, dùng một bình bát, một tọa cụ v.v… Ngoài ra, nếu có
thí chủcúng dường thêm thì phải đem bố thí cho kẻ khác. Vị Tỷ kheo phải dùng
ngọa cụ đủ 6 năm mới được thay cái mới, phải dùng bình bátcho đến khi vỡ mới
được sắm cái khác. Không được thu góp, cất chứa vàng bạcchâu báu làm của riêng
mình (ngoại trừ trường hợpgiữ gìn cho tập thể). Thầy Tỷ kheo không được nằm giường
cao, nệm êm, không được trang sức hoa mỹ”. Tất cả đều nói lên tinh thần ít
muốn, biết đủ, sống giản dị nhằm đoạn trừ lòng tham, dốc tâm tu học hầu đạt đếnan lạc thật sự. Người xuất gia còn phải giữ giới “Không ăn phi thời (ăn
không đúng giờ), không ăn nhiều bữa, không chuộng thức ngon v.v…”. Tóm
lại
, người xuất gia còn phải tuân thủphương châm “Tam thường bất
túc”, nghĩa là ba sự ăn, mặc và ngủ không được quá thừa thãi, sung túc. Bởi
vì, nếu sự hưởng thụ vật chất quá sung mãn thì dễ làm cho tinh thần người ta
trở nên nhu nhược, chậm lụt. Nói như thế không có nghĩa là đạo Phật chủ trương
trở về cuộc sống lạc hậu. Phật giáo không bao giờ phủ nhận những giá trị của
các phương tiệnvăn minhvật chất, vì cuộc sống con ngườicần phải được ăn
ngon
, mặc đẹp, hưởng thụ những nhu cầu cần thiết. Tuy nhiên, cái gì thái quá
cũng đều không hay. Phật giáo không chủ trương con người phải sống nghèo đói,
thiếu thốn, mà chỉ cổ vũ tinh thầntri túc, tiết kiệm, vừa mức trung bình. Có
như vậy mới không bị sự sung mãncám dỗ, và nhờ thế mới có thì giờđiều kiệnquan tâm giúp đỡ, chia sẻ mọi nỗi thống khổ của những người thiếu may mắn.

3- Thanh
liêm
, công chính, tôn trọngtài sản kẻ khác

Đức thanh liêm
công chínhđức tính cần thiết tạo nên niềm tin cậy và kính trọng lẫn nhau
trong mối tương giao giữa cá nhânxã hội.

Luật dạy, thầy
Tỷ kheo muốn cử tội (phê bình) kẻ khác phải hội đủ 5 điều kiện sau đây thì lời
cử tội mới có giá trị:

a)- Nói đúng
lúc, không bạ đâu nói đó.
b)- Nói chân thật,
không nói hư ngụy.
c)- Nói có lợi
ích
, không nói vô ích.
d)- Nói nhã nhặn,
không nói thô lỗ.
e)- Nói với từ
tâm
, không nói với ác tâm.

Điều này phù
hợp
truyền thốngđạo đức mà ông cha ta đã dạy: “Tiên xử kỷ, hậu lai xử bỉ
– xét lỗi người phải biết xét lỗi mình”. Nghĩa là chính bản thân mình phải
công tâm, chân chính thì tác dụngxây dựng mới đem lại kết quả, bằng ngược lại,
nếu “Thân mình không độ được, thì làm sao độ được thân người khác. Bệnh mình
không chữa được, thì làm sao chữa được bệnh tha nhân” (Thử thân bất độ, hà
thân độ. Tự bệnh bất năng cứu, hà cứu bệnh nhân). Thiết tưởng đức công chính
không chỉ có giới tu sĩPhật giáo mới cần đến mà mọi người ai cũng phải có,
nhất là những người cầm quyền chính và luật pháp lại càng cần nó hơn ai hết.

Người có lòng
công chính tất nhiên sẽ tôn trọngtài sản của người khác. Thế nên, giới thứ 30
trong thiên Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề của Tỷ kheo viết: “Không được biển thủtài
sản
của chúng Tăng” và giới 16, 17 Ba-dật-đề viết: “Không được chiếm
đoạt chỗ ở hay vật sở hữu của người khác”. Những điều này dạy cho người đệ
tử
Phật từ bỏ lòng tham, sống theo lương tâm, liêm khiết, biết quý trọng vật sở
hữu
của tha nhântôn trọngtài sản của cộng đồngxã hội. Có như vậy mới tạo
nên cuộc sống ổn định và tin cậy lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình,
đoàn thể và xã hội. Do đó, giới thứ 17 của Bồ tát còn nhấn mạnh: “Nếu là
Phật tử mà vì danh lợithúc đẩy, thân cận với kẻ quyền quý, rồi ỷ thế sách
nhiễu, chiếm đoạt tài sản của người, đó là hành vi tàn ác, phạm tội khinh cấu”.
Điều này không phải chỉ có người Phật tửthọ giớiBồ tát mới giữ gìn, mà thiết
tưởng bất cứ ai muốn sống đúng với truyền thốngđạo đức của tổ tiên, sống theo
lương tâm và lẽ công bằngchánh trực đều phải cố gắngtuân thủ. Bởi lẽ, nếu dựa
dẫm vào những kẻ có thế lực, hay lạm dụng quyền hành để chiếm đoạt tài sản của
kẻ khác, hoặc biển thủcông quỹ, thì đó là hành vitội ác, trái vớiđạo lý,
chắc chắn sẽ gánh lấy quả báođau khổ ngay trong hiện tại hoặc trong tương lai.
của cải của người ta là núm ruột của họ, ai mất của mà không đau xót, tiếc
rẻ. Nhưng dù cho của chung, công quỹ đi nữa thì cũng do mồ hôi nước mắt của tất
cả những người dân lương thiện tạo thành, chứ đâu có phải những thứ từ trên
trời
rơi xuống.

Thế nên, những
người càng có chức, có quyền, có trách nhiệm lại càng phải sống hết sứcthanh
liêm
công chính. Lẽ ra giới này phải dành cho hạng người có quyền cao chức trọng,
trách nhiệmquản lýtài sản của tập thể và của quốc gia mới đúng. Vì chính
những hạng người này mới dễ bị tiền tài cám dỗ, kích động lòng tham đâm ra làm
nhiều điều phi pháp. Bằng chứng cụ thể là hàng ngày chúng ta nghe những tiếng
kêu than, những lời lên án của giới báo chí và của những người dân lương thiện
về tình trạng tham nhũng. Quả thực hiện nay không có bất cứ một giới điều nào
khác mang đầy đủ tính thiết thực và tính thời đại cho bằng giới điều này. Phải
chăng
đây là một trong những cống hiến rất có ý nghĩa của giới luậtđạo Phật
trên phương diệngiáo dụccon người về đức tính thanh liêm?

4- Kính
nhường bậc trưởng thượng, tôn trọngdanh dự kẻ khác

Đức hiếu thuận,
kính cẩn là đức tính cao quý của con người, cho nên giới thứ 35 của Bồ tát nói:
“Phải phát khởitâm nguyệnhiếu thuận với cha mẹ, tôn kính sư trưởng”.
Ngoài ra, đã là một đệ tửBồ tát thì không được “khen mình, chê
người” như giới thứ 7 của Bồ tát đề cập. Hơn thế nữa, giới này còn nói:
“Việc xấu thì tự nhận về cho mình, việc tốt thì gán cho kẻ khác. Nếu làm
trái lại, tự khoe cái hay của mình, giấu cái tốt của người, làm cho họ phải chịu
mọi sự phỉ báng thì đó là tội Ba-la-di của Bồ tát”. Thiết nghĩ, hành động
như vậy thật là cực kỳ cao thượng, mà có lẽ chỉ có hạng đại sĩ mới thực hiện
được.

Nhằm xây dựng
cuộc sống tập thể lý tưởng, thân ái, hài hòa, giới Tăng tàn thứ 8, thứ 9 của Tỷ
kheo
nói: “Không được vu khống kẻ khác, không được giả tạo chứng cứ để vu oan
giá họa cho người, cũng không được chụp mũ những người mà mình không
thích”. Thế còn giới Ba-dật-đề thứ 23 thì bảo: “Không được chế nhạo
bạn đồng phạm hạnh”, và giới Ba-dật-đề thứ 55 còn thêm: “Không được
khủng bố, dọa nạt các bạn đồng tu”. Nếu như trong một tập thể, ai nấy đều
tuân thủnghiêm chỉnh những điều giáo huấn trên đây thì sẽ không bao giờ xảy ra
những việc xích mích. Do đó, sẽ đảm bảo được đời sốngthanh tịnhan lạc cho
chính mình và mọi người. Tiến xa hơn nữa, nhằm mục đíchmở rộngphạm vi giao
lưu từ cá nhân đến đoàn thể xã hộiquốc gia, giới Bồ tát thứ 13 nói:
“Không được vô cớ hủy báng những người hiền lương, đức hạnh, những vị pháp
, quý nhân và quốc vương”. Với những nội dung như trên, quả thực giới
luật
bao hàm ý nghĩa rất là hoàn hảo. Nếu như tập thể nào, xã hội nào, quốc gia
nào cũng khuyến khích mọi ngườiáp dụnggiới luật của Phật (chứ không riêng gì
Phật tử), thì thử hỏi xã hội sẽ tốt đẹp biết chừng nào! Vì đó là những nguyên
tắc sống rất nhân bản, rất đời thường và rất dễ thực hiện, ai cũng có thể vận
dụng để hoàn thiện phẩm giá của chính mình và góp phần tạo dựng một cộng đồngnhân loại hòa bình, an lạc.

Tóm lại, qua
những gì đã trình bày trên đây, chúng ta thấy giới luật của Đức Phật dạy con
người
phát huy lòng từ bi, cứu khổ; thực hiệnnếp sốngtri túc, kiệm ước; giữ gìnđức thanh liêm công chính, tôn trọngtài sản kẻ khác; kính nhường bậc trưởng
thượng
, tôn trọngdanh dự kẻ khác… Thiết nghĩ, đây là những nguyên tắc giáo
dục
rất lý tưởng không riêng gì cho đệ tử của Phật mà là cho tất cả mọi hạng
người, không riêng gì cho thời đạiĐức Phật mà là cho tất cả mọi thời đại, nhất
là trong thời đạivăn minhtiến bộ ngày nay.

Tuy nhiên, trên
đời này không có bất cứ một thứ gì là hoàn hảotuyệt đối, giới luật của Phật
cũng không ra ngoài công lệ ấy, cho nên khó mà tránh khỏi một vài nhược điểm. Đó
là điều mà chúng ta sẽ bàn đến trong phần tổng luận sau đây.

Tổng luận

Mục đích của
người tu hành là hướng đến giải thoátgiác ngộ, mà muốn được giải thoát,
giác ngộ thì đương nhiên phải tuân thủ một số nguyên tắc. Những nguyên tắc căn bản
ấy đầu tiên được thiết lậpdựa vàotinh thần của bài kệ:

Không làm
các điều ác,

Vâng làm các
hạnh lành,

Giữ tâm ý trong
sạch
,

Lời Phật dạy
rành rành”.

(Chư ác mạc
tác
,
Chúng thiện phụng
hành
,
Tự tịnh kỳ ý,

Thị chư Phật
giáo
).

và được cô đọng
thành những tiêu ngữ như:

Phòng
phi chỉ ác” (Ngăn ngừa điều sai trái, chấm dứt việc xấu ác)

“Biệt biệt
giải thoát” (Giữ gìnchừng mực nào thì giải thoátchừng mực ấy)

hay:

“Tị thế cơ
hiềm” (Tránh những sự chê bai của người đời)

v.v…, đồng
thời
tóm tắt thành 10 mục đích sau đây:

1. Để nhiếp
phục Tăng chúng
2. Để Tăng chúngđạt đến cực thiện
3. Để Tăng chúng
sống an lạc
4. Để chiết phục
những người không biết hổ thẹn
5. Để những người
biết hổ thẹnsống yên ổn
6. Để cho những
người chưa tin sinh khởilòng tin
7. Để cho những
người đã tin càng thêm tin tưởng
8. Để diệt trừ các
lậu hoặc trong hiện tại
9. Để ngăn ngừa
các lậu hoặc trong tương lai
10. Để cho chánh
pháp
được tồn tạilâu dài (1).

Giáo sử cho
chúng ta biết rằng trong giai đoạn đầu, Phật chỉ đề ra những nguyên tắc khái
quát như thế mà chưa quy định thành những giới điều cụ thể. Thế nhưng, đến năm
thứ 12 sau khi Phật thành đạo, trong hàng ngũ Tỷ kheo có người làm những việc
sai trái khiến cho người đời chê trách, làm tổn thương đến thanh danh của Thánh
chúng
, gây trở ngại cho sự tu tập, do đó Phật mới tùy phạm tùy chế, nghĩa là vi
phạm
việc gì thì chế định ngay việc ấy. Thế rồi, dần dầntrải quathời gian,
những giới luật mà Phật đã chế định được gom lại thành Ngũ thiên bát tụ (5 cột 8
nhóm) mà cụ thể là 250 giới của Tỷ kheo và 348 giới của Tỷ kheo ni theo luật
Pàli. Tất nhiên, ở đây có sự dị biệt giữa Nam tôngBắc tông, nhưng rất nhỏ,
không đáng kể.

Đó là sự hình
thành của giới luật thời Phật còn tại thế và được kết tập lần đầu sau khi Phật
nhập Niết bàn. Thế rồi, các đệ tử của Phật căn cứ theo đó mà hành trìcho đến
ngày nay. Thiết nghĩkhông gianthời gian luôn luôn thay đổi, nếu cứ áp dụng
nguyên xi một thứ giới luật được quy định từ thời Đức Phật thì khó mà tránh khỏi
có nhiều điều bất cập. Chúng ta thấy rằng những bản hiến pháp và những bộ luật
của thế gian luôn luôn được cập nhật hóa (bằng cách thay đổi và bổ sung) thì mới
thích ứng được với sự biến đổi của hoàn cảnhthời đại. Nếu như chúng không
được điều chỉnh và bổ sung đúng lúc thì sau một thời gian, ắt hẳn sẽ có nhiều điều
trở nên lỗi thờivô tác dụng. Đó là quy luậtđào thải rất khắt khe của vạn
sự
trong vũ trụ.

Thế còn đối với
giới luật thì sao? Chúng ta biết rằng Đức Phật sinh tại Êẽn Độ, cách nay 25 thế
kỷ, và giới luật được chế định từ lúc đó. Nhưng mỗi quốc gia có những truyền
thống
văn hóa, khí hậu, địa lý, phong tục tập quán khác nhau và mỗi thời đại
cũng luôn luôn tiến hóa đổi khác, thế thì giới luật của Phật có thể thích hợp
với mọi không gian và mọi thời đại hay không? Và nếu như khônghoàn toànthích
hợp
thì tại sao các đệ tử của Phật không điều chỉnh để cho phù hợp với từng
không gian và từng thời đại?

Thiết nghĩ
có mấy lý do như sau:

1. Giới luật
chỉ do Phật chế định. Chúng ta biết rằng kinh do Phật thuyết, ngoài ra còn do
các cao đồ của Phật cũng như những vị thánh hiềnxưa naytuyên thuyết, còn luận
thì do các bậc cao tăngthạc học, các vị luận sưuyên bác mổ xẻ phân tĐch, chú
giải
kinh điển mà tạo thành. Thế nhưng, giới luật thì chỉ có Phật chế định,
ngoài ra không ai được phép chế định cũng như không đủ thẩm quyền để chế tác.
Đó là điều mà giáo sử đã khẳng định.

2. Lý do thứ
hai là trong lần kết tậppháp tạng thứ nhất, tôn giả A Nan cho tôn giả Ca Diếp
biết rằng trước lúc nhập diệt, Phật có di chúc rằng trong những giới luật do
Ngài chế định, sau này nếu các Tỷ kheo thấy có những giới nhỏ nào không còn phù
hợp
thì có thể tùy nghi bỏ đi. Ca Diếp bèn hỏi A Nan: “Vậy chứ Phật có nói
cụ thể những giới nào được xem là nhỏ có thể bỏ đi hay không?”, thì A Nan
đáp rằng: “Phật không nói cụ thể”. Do đó, tôn giả Ca Diếpkết luận:
“Vì Phật không nói cụ thể, cho nên, nếu giờ đây chúng ta cho rằng những
giới Đột-cát-la (ác hạnh) là nhỏ nhiệm nên bỏ đi, thì có người sẽ nói rằng
không những giới Đột-cát-la nên bỏ đi mà giới Ba-la-đề-đề-xá-ni cũng nên bỏ đi.
Rồi người khác lại nói, không những giới Ba-la-đề-đề-xá-ni nên bỏ mà giới
Ba-dật-đề (bị đọa lạc) cũng nên bỏ v.v…, cứ như thế thì không biết đến đâu là
giới hạn và trong đại chúng sẽ nảy sinh sự tranh cãi, khó mà nhất trí. Bởi vậy,
tốt hơn hết là những gì Phật đã chế định, chúng ta phải kết tập đầy đủ (và khi
áp dụng thì tùy nghi châm chước), còn những gì Phật không chế định thì chúng ta
không được tùy tiện đặt thêm”. Chung cuộc, lời kết luận ấy đã được đại
chúng
đồng thanhnhất trí tán thành (2).

3. Lý do thứ ba
sự kiệnĐề Bàphá Tăng: Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) phát tâmxuất gia với thiện
chí
tu hành tinh tấn trong 12 năm đầu, nhưng về sau ưa thích phép thần thông, phế
bỏ
chánh đạo. Thầy muốn đảo chánh Phật để giành quyền lãnh đạo chúng Tỷ kheo,
bèn cấu kết với vua A Xà Thế (Ajatasattu), xúi giục, thuyết phục vua sát hại
phụ vương để đoạt ngôi báu, như sau: “Ngươi giết cha, ta giết Phật; ngươi
sẽ làm vua nước Ma Kiệt Đà (Magadha), ta sẽ làm Phật. Bấy giờ tại nước Ma Kiệt
Đà
này có một vị vua mới, một vị Phật mới, như thế chẳng khoái sao?”.

Thế rồi, Đề Bà
Đạt Đa
bàn bạc cùng bốn đệ tử tâm phúc, đi đến thưa với Phật: “Bạch Thế
Tôn! Thế Tôn tuổi tác đã cao, nên giao chúng Tăng lại cho con. Thế Tôn chỉ cần thụ
hưởng
pháp lạchiện tại, để Tăng chúng cho con lãnh đạo”.

Phật dạy:
“Này Đề Bà Đạt Đa! Xá Lợi PhấtMục Kiền Liênđại trí tuệ và thần
thông
như thế, Ta còn không giao chúng Tăng cho họ thay, huống chi ngươi là
người ngu, là cái thây ma, mà Ta lại đem Tăng chúng giao cho ngươi hay
sao?”.

Bị Phật thẳng
thừng bác bỏ ý đồ đen tối của mình, Đề Bà liền bàn với bốn đệ tử: “Ta với
các ngươi hãy cùng nhau phá hòa hợp Tăng, hoại pháp luân của Sa mônCù Đàm; làm
như thế, chúng ta đã nổi tiếng là người đã phá hòa hợp Tăng, hoại pháp luân của
Phật”.

Vì đã rắp tâm
làm điều nghịch đạo, Đề Bà liền xướng xuất 5 việc phi pháp sau đây:

1. Tỷ kheosuốt
đời
mặc y phấn tảo (loại vải nhặt được từ những đống rác).
2. Tỷ kheosuốt
đời
sống theo hạnh khất thực.
3. Tỷ kheosuốt
đời
chỉ ăn mỗi ngày một bữa.
4. Tỷ kheosuốt
đời
phải ngủ ngoài trời.
5. Tỷ kheosuốt
đời
không được ăn thịt (3).

Thực ra, trong
5 điều trên chỉ có điều thứ 5 là khác với Phật, vì Phật cho phépTỷ kheo được
ăn tịnh nhục (món thịt hợp pháp) nếu như không thấy, không nghe và không nghi
người ta giết con vật để lấy thịt cúng dường cho mình. Ngoài ra, 4 điều còn lại
Phật cũng đã quy định, nhưng được áp dụng một cách uyển chuyển mà thôi. Ở đây,
thâm ý của Đề Bà là mong được thiên hạthán phụcđặc biệtcố ý phá sự hòa
hợp
của Tăng đoàn, do thế mà phạm phải tội nghịch. Và tội nghịch này phải rơi
vào địa ngục Vô gián, chịu lấy khổ quả trọn một kiếp không thể cứu vớt được,
như lời Phật đã khẳng định (4).

Đó là ba lý do
chính khiến cho giới luật của Phật không thể bổ sung và thay đổi được. Ngoài
ra
, còn một lý do nữa là từ khi Phật diệt độ cho đến ngày nay đã có biết bao bậc
tôn túc, trưởng lãothạc đức cao hạnh – mặc dù biết trong giới luật có đôi điều
bất cập – vẫn uyển chuyển tuân thủ nghiêm túc mà không có ý định thay đổi thêm
bớt
; ngoại trừ việc các Ngài soạn thuật, phân tích, chú giải để cho người sau
dễ hiểu và dễ thực hành. Có lẽ các Ngài đã vận dụng lời Phật di huấn trong Luật
Ngũ phần như sau: “Tuy là những điều do Ta chế định, nhưng nếu như khôngphù hợp với (phong tục, tập quán của) một địa phương nào đó thì không nên áp
dụng
; trái lại, tuy là những điều không do Ta chế định, mà là những việc phải
làm theo (phong tục, tập quán) của địa phương đó, thì không thể không tuân
hành” (Tuy thị Ngã sở chế nhi ư dư phương bất dĩ vithanh tịnh giả, giai
bất ưng dụng. Tuy phi Ngã sở chế nhi ư dư phương tất ưng hành giả, giai bất đắc
bất hành) (5).

Bây giờ, chúng
ta
thử tiến hành khảo sát đại khái những giới luật của người xuất gia, xem
chúng còn có giá trịhiện thực đến mức độ nào. Muốn làm việc này, trước hết hãy
bàn về tính chất của giới. Theo các luật sư thì tính chất của giới được chia
làm hai loại là Tánh giới và Giả giới. Tánh giới nghĩa là tính chất của giới đó
hễ vi phạm thì có tội, dù Phật có chế định hay không chế định. Ví dụ như kẻ nào
trộm cướp, giết người, thì (vừa vi phạm luật phápquốc gia vừa) phải chuốc lấy
quả báo. Thế nên gọi là Tánh giới. Còn Giả giới tức là những giới do Phật chế
định để ngăn ngừa các nguyên nhân dẫn đến phạm tội. Nó có tính chấtgián tiếpđề phòng, chứ bản thân nó chưa phải là tội lỗi. Ví dụ như việc uống rượu và
tích trữ châu báu v.v… Vì kẻ uống rượu sẽ khiến cho tâm trí mê loạn, rồi làm
những việc sai trái mà không hay biết. Cũng như người cất chứa vàng bạc sẽ dễ kích
thích
lòng tham, gây chướng ngại cho sự tu dưỡng. Do đó mà Phật cấm các Tỷ kheo
không được uống rượu và cất giữ vàng bạc, chứ kỳ thực hai việc này không vi
phạm luật pháp
và không bị quả báo trực tiếp. Thế nên hai việc này gọi là Giả
giới. Khi một người ở thế gian phạm Tánh giới như trộm cướp hay giết người thì
y chỉphạm tội mà thôi, còn đệ tử của Phật nếu phạm các việc ấy thì vừa phạm
tội
mà vừa phạm giới, làm trái những điều do Phật đã cấm chế.

Nếu khảo sát về
5 thiên giới của Tỷ kheo thì chúng ta thấy rằng phần lớn các giới ấy – những
giới cơ bản – ngày nay vẫn còn đầy đủ những giá trịthiết thực, nhưng có một số
giới ít quan trọng khác thuộc thiên Ba-dật-đề thì quả thực ngày nay không còn
phù hợp với nếp sốngtu học của Tăng sĩ nữa. Do đó, chúng không thể phát huy
hết giá trịtích cực của chúng. Thiết nghĩ trong thời đại hiện nay, nền văn
minh
khoa học rất tiến bộ, những sinh hoạt của xã hộinếp sốngcá nhân khác
xa với nếp sốngngày xưa. Nếu như giới luật không kịp thời điều chỉnh, bổ sung
và cập nhật hóa, thì chắc chắn có nhiều điều trở nên vô hiệu, không còn phù hợp
với thời thế hiện tại. Mà giới luậtsinh mệnh của Phật giáo, nếu như nó
không phát huy đầy đủ hiệu năngtích cực của nó thì làm sao bảo đảm cho sự sinh
tồn
và hưng thịnh của Phật giáo? Đó chính là những trăn trở, bức xúc rất chính đáng
của đa sốTăng Ni trẻ mà chúng tôi muốn nêu lên để thỉnh thị cao kiến của các
bậc cao tăng thiền đức./.

* Chú thích:

(1) Ma Ha Tăng
Kỳ luật
, quyển 1, ký hiệu 1425, Đ.22, tr.228c.
(2) Đại Chính Tân
Tu Đại Tạng kinh
, ký hiệu 1421, tập 22, tr.190-192.
(3) Thập tụng
luật
, quyển 36, Đ.23, tr.259a.
(4) Tăng Chi Bộ
kinh
, IIB, tr.446.
(5) Ngũ phần luật,
quyển 22, Đ.22, tr.153a.

Phật Học
Cơ Bản Tập Ba

Ban Hoằng
pháp
Trung ương GHPGVN

Chương trìnhPhật học Hàm thụ (1998)