*******
Từ nơi bản thểtịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Śīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể. Cho nên, muốn thể chứng bản tánhbất sanh, bất diệt, bất thường, bất đoạn, bất lai, bất khứ, bất nhất và bất dị của Niết bàn phải đi bằng con đường các học xứ.
Bồ Tát Anh Lạc Bản Nghiệp Kinh: “Nhược nhất thiết chúng sinh sơ nhập tam bảo hải dĩ tín vi bản, trụ tại phật gia dĩ giới vi bản”[1]: Hết thảy chúng sanh khi mới bắt đầu vào biển Tam bảo lấy tín làm gốc; khi sống trong ngôi nhà của Phật, thì lấy giới làm gốc.
Học giới khởi sinh từ nơi tư tâm sở hay từ nơi ước muốn và thệ nguyện của một người tha thiết khất cầu pháphọc giới để sống đời thanh tịnh. Học giới ấy là từ nơi hữu tácgiới thể mà thành tựuvô tác giới thể.
Từ Học xứ, Sanskrit gọi là Śīla: có nghĩa là học tập theo các điều khoản đạo đức, học tập các điều thiện…chứ không có ý nghĩa cấm đoán, răn đe như các điều răn khắc khe. Hán phiên âm là Thi la và dịch là học xứ, học giới hay phổ thông dịch là giới.
Śīla hay học xứ được giải thích với rất nhiều ý nghĩa:
Tránh xa:
Học xứ có nghĩa là trung đạo, vì tránh xa hai cực đoanép xác khổ hành và buông lung trong các dục.
Tránh xa khổ hành: Đây là sự tu tập không dẫn đến đời sốngan lạc và giải thoáttối thượng.
Tránh xa buông lung trong các dục: Vì đây là sự chạy theo các dục để hưởng thụ khoái lạc, là sự thấp kém và đê tiện, không có an ổntối thượng, không phù hợp với đời sống cao thượng.
Đức Phật thiết định các học xứ, để thi thiết lối sống tránh xa hai cực đoan ấy và thực hànhtrung đạo. Trung đạo ở đây không phải là con đường giữa, mà là con đường vượt ra khỏi hai cực đoan – ép xáckhổ hạnh và buông lung theo các dục. Con đường ấy có khả năng dẫn sinh dẫn tới đời sốngtịch tĩnh, giải thoáthoàn toàn khỏi mọi khát ái.
Từ bỏ:
Học xứ có nghĩa là từ bỏ đối với các ác nghiệp hay tà nghiệp như: sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, vọng ngữ,… Vì vậy, học xứ có nghĩa là từ bỏ các tà nghiệp để dẫn tới chánh nghiệp.
Chánh Nghiệp từ Sanskirt là Samyakkarmānta, Pāli gọi là Sammākammanta. Karmānta của Sanskrit, có động từ căn kṛ: tạo tác, hoạt động, hành động,… Hán dịch Samyakkarmānta là Chánh nghiệp; Anh ngữ gọi là Right action, Right occupation,… Từ Samyak: có nghĩa là chính xác, trực tiếp, hợp lý, đích thực, hiện thực,…Hán dịch là: Chánh, Trực. Anh ngữ dịch là: Right. Ở đây từ từ Samyak nên hiểu là hợp lý. Hợp lý ở hai phiên diện: Thân và Khẩu.
Thân cận:
Học xứ có nghĩa là gần gũi với Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến.
Chúng ta cũng có thể nói khác đi, Học xứ gần gũi và đặt nền tảng dẫn đến sự thành tựugiải thoát và Niết-bàn.
Nhiếp hộ:
Học xứ có nghĩa là ngăn ngừa các ác pháp thuộc về thân và ngữ. Các Học giới không thể ngăn chặn các ác pháp thuộc về Ý. Vì ý thì phải dùng định để điều phụcnhiếp hộ chứ không thể dùng giới để ngăn ngừa những điều khoản phi pháp về ý được.
Học xứ có nghĩa là phòng hộ năm căn môn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt và thân khiến năm trần cảnh: sắc, thanh, hương, vị và xúc, không có khả năng xâm nhập để dẫn sinh nghiệp đạo bất thiện.
Giải thoát:
Học xứ có nghĩa là giải thoát đối với các ác nghiệp đạo thuộc về thân và khẩu. Vì thân và khẩu không tạo tác ác nghiệp, bên cạnh Ý được phòng hộ bởi năng lực của định và khát ái bị kiếm Tuệ chém đứt. Do đó, sanh tử được chấm dứt, khổ đau bị đoạn tận. Nên học xứ được nói với ý nghĩa là giải thoát.
Thận trọng:
Vì Śīla – học xứ, phòng hộ các điều phi pháp của thân và ngữ một cách thận trọng, khiến các sai lầm từ thô đến tế, không có điều kiệnsinh khởi làm ảnh hưởng đến đời sốngphạm hànhthánh tịnh.
Học xứ có nghĩa là thận trọng đối với với các oai nghi, như đi, đứng, nằm, ngồi. Thận trọng từng hành vi nhỏ nhiệm, cẩn trọngtháo gỡ từng sự trói buộcvi tế của thân và ngữ, đang kiềm hãm thân và khẩu trong sự phiền não.
Chế ngự:
Học xứ có nghĩa là chế ngự đối với các ác nghiệp, chế ngự các điều phi pháp thuộc thân và khẩu do tùy thuận theo giới bổn; thế nên, học xứ có nghĩa là chế ngự.
Nâng lên và Gìn giữ:
Từ Sanskrit Śīla được giải thíchý nghĩa tương đương với từ Sanskrit Upadhārana, tiền tố từ Upa: chỉ sự tiếp cận, Dhārana: có nghĩa là thâu tóm, gìn giữ, thâu nhiếp, v.v.. cũng được hiểu là nâng cao, đưa cao. Nên Upadhārana được hiểu với nghĩa là tiếp cận học hỏi để gìn giữ hay tiếp cận học theo để nâng lên.
Tiếp cận học hỏi để gìn giữ, tức là tiếp cận học tập các điều khoản thiện pháp để giữ đời sốngphạm hànhthanh tịnh.
Tiếp cận học theo để nâng lên tức là tiếp cận học tập theo các điều khoản đạo đức, các điều khoản cao quý, để nâng hành từ những hành vithấp hèn sang hành vihợp lý, giải thoát cao thượng, nâng từ sinh tử lên Niết bàn.
Cho nên Śīla được giải thíchý nghĩa tương đương với từ Sanskrit Upadhārana vì nó gìn giữ về các điêu thiện, nếu không có các học xứ thì các thiện pháp hữu lậu và vô lậu không có cơ sở để phát sinh.
Thanh Lương:
Từ Sankrit: Śītala có nghĩa là mát mẻ, tươi mát, êm diệu, tinh khiết v.v.. Hán dịch là Thanh lương, Anh ngữ chuyển dịch là Clear and cool; clear, pure v.v..
Học xứ có nghĩa là thanh lương, vì nó làm cho những oi bức khổ đau do thân và khẩu tạo tác lắng xuống, đưa đến sự êm diệu, tươi mát về thân và khẩu. Cho nên Śīla được giải thích tương đương với Śītala – Thanh lương.
Diệu hành:
Diệu Hành là dịch từ chữ Sanskrit Sucarita, có nghĩa là việc làm thù diệu, hành động cao thượng.
Học xứ có nghĩa là diệu hành, vì nó có năng lực đưa người hành trì đi đến chỗ cao thượng, rời xa chỗ nguy hiểm đạt đếnbình an đích thực.
Tư Tâm Sở:
Theo ngài Vāsubandhu (Thế Thân) thì Tư hay Ý chí (cetanā) có ba loại: Thẩm lự tư, Quyết định tư và Phát động tư[2].
Học xứhiện diện và khởi sinh từ Tư Tâm Sở của một người có ý chí và phát ra lời nguyện: “Kể từ bây giờ cho đếntrọn đời, từ bỏsát sanh, từ bỏ trộm cướp, từ bỏtà hạnh, từ bỏvọng ngữ …” Vì nó là bảy tác ý, luôn đi kèm bảy trong mười nghiệp đạo thiện, từ nơi một người phát khởiý chí và thệ nguyệntrọn đờitừ bỏ các hành viphi pháp trên. Nên Śīla được giải thíchý nghĩa là Cetanā hay rõ hơn là tư tâm sở.
Tâm sở Thọ, Tưởng và Hành:
Học xứhiện diện và phát khởitừ tâm sở thọ, tâm sở tưởng và tâm sở hành của một người giữ gìn sự khước từ đối với thân và khẩu.
Hành: từ Sanskrit là Saṃskāra, Pāli gọi là Samkhara, Saṃskāra có rất nhiều nghĩa. Nếu nó đi từ động từ căn Sam-skri, thì có nghĩa là đặt vào với nhau, liên kết với nhau. Nhưng nếu nó đi từ động từ căn Sams-kri thì có nghĩa là hành động liên kết, tác độngliên kết và Saṃskāra là hành động có tính liên kết, sự hoạt động có tính cách xông ướp, tập luyện, thường xuyên. Hán dịch Saṃskāra là Hành, có nghĩa là hoạt động, tác động, vận hành… Theo ngài Budhaghoṣa, thì Hành lấy hoạt động làm tướng, lấy nỗ lực làm dụng, lấy ý chí làm động cơ và lấy vô minh làm duyên[3]
Tưởng: Sanskrit gọi là Saṃjñā: căn động từ là jñā có nghĩa là: ấn tượng, ý niệm, khái niệm, tư tưởng, hiểu biết v.v..
Kết hợp
Từ Sanskrit Śīlana, có nghĩa là kết hợp, liên kết, nối kết, gắn kết v.v.. Vì Śīla-học xứ, có khả năng kết hợp với thiện nghiệp đạo của thân và ngữ. Nên Śīla được giải thích với ý nghĩa của từ Sanskrit Śīlana.
Không nên vượt qua:
Vì các học xứ là hàng rào ngăn cảntội lỗi, là bờ đê ngăn chặn nước lũ ác pháp. Nếu vượt qua các học xứ, không thi hành, không gìn giữ thì rơi vào điều ác, điều tội lỗi. Chữ “Tội” ở đây phải hiểu là hành động, việc làm … bị bậc Thánh chê trách.
Điểm hội tụ:
Vì học xứ do đức Thế Tôn thiết định từ nơi bản thểNhất như của Niết-bàn, nên học xứ ấy, là khởi điểm, và là điểm tụ hội của hết thảy thiện pháp.
Đình chỉ:
Các Học xứ có khả năng đình chỉ các hành động phi pháp, các việc làm xấu ác của thân nghiệp và khẩu nghiệp.
Thiện nghiệp
Học xứ có rất nhiều nghĩa, nhưng nghĩa căn bản là thiện, đạo đức, có khả năng phòng hộ hết thảy mọi ác pháp xảy ra đối với thân tâm của một người đã phát nguyệnthọ trì.
Học giới có nghĩa là Luật Nghi. Từ Sanskrit gọi là saṃvara: phòng hộ, do đi từ động từ căn vs: bao trùm, phòng hộ, thệ nguyện, ước nguyện,.. Hán dịch là luật nghi với ý nghĩa là phòng hộ, chứ không phải điều luật cấm cản, khuôn phép ngăn cấm, quy phạmluật lệ răn đe v.v.. như một số học giả đã từng giải thích về ý nghĩa của nó.
Học xứ có khả năng phòng hộ căn môn, hay căn luật nghi, Sanskrit gọi là indriya-saṃvara, Pāli là indriyesu guttadvāro, có nghĩa là: canh chừng cánh cửa nơi các giác quan. Kinh nói: “So cakkhunā rūpaṃ disvā na nimittaggāhī hoti (…) rakkhati cakkhundriyaṃ, cakkhundriye saṃvaraṃ āpajjati. Sotena (…)”[4]: “Vị tỷ-kheo ấy, khi nhìn thấy sắc, không nắm chặt các hình tướng (…), giữ gìngiác quan con mắt, canh chừng nơi giác quan con mắt”.
Có ba loại luật nghi: căn luật nghi[5], phòng hộ các giác quan; biệt giải thoát luật nghi[6], phòng hộ bằng các điều học giới đã phát nguyện thọ; và vô lậu luật nghi[7], phòng hộ do chứng phápvô lậu.
Theo Ngài Thế Thângiải thích trong Câu-xá luận: Luật nghi (saṃvara) chính là một loại tư (cetana) có khả năng ngăn chận các hành động xấu và điều phục (saṃvṛṇotti) thân ngữ sau khi được biểu hiện qua việc cương quyết (vidhi) không tạo tác tội lỗi, qua sự phát nguyệngiữ giới; vì thế đã dựa vào đó để lập thànhluật nghibiệt giải thoát[8]. Và Ngài Thế Thân cũng nói: luật nghi (saṃvara), có khả năng thu thúc (saṃvṛṇoti) và trừ diệt hoặc ngăn chặn dòng tương tục của ác giới (dauḥṣīlyaprabandha)[9].
Học xứ có hai đặc tínhphối hợp. Một là làm nền tảng cho định và tuệ; hai là phối hợp với định và tuệ làm sinh khởi các thiện phápvô lậu, tương ứng với Niết bàn. Học xứ có nhiệm vụ làm chấm dứttà hành để thành tựuđức hành, diệu hành, tịnh hành, chánh hành, ứng lý hành, và giải thoát hành.
Học xứ có rất nhiều ý nghĩa như thế nghĩa, ý nghĩa tinh yếu của nó là đình chỉhành viphi pháp, ngăn chặn các ác nghiệp và thi hành theo các thiện pháp, ý nghĩacăn bản của Học xứ là thiện, đạo đức, có khả năng phòng hộ hết thảy mọi ác pháp xảy ra đối với thân và ngữ của một người đã phát nguyệnthọ trì các học xứ ấy[10].
Phước Nguyên
[1] Cf. 菩 薩 瓔 珞 本 業 經 卷 下, 大 眾 受 學 品 第 七 (T25n1485, tr. 1020b06):“若 一 切 眾 生 初 入 三 寶 海 以 信 為 本,住 在 佛 家 以 戒 為 本”.
[2]Sidhikarma, Đại chánh, Thành Nghiệp Luận.
[3]Vism XVII. p.528.
[4] Cf. M.i. 269.
[5] Skt. indrya-saṃvara
[6] Skt. prātimokṣa-saṃvara.
[7] Skt. anāsravasaṃvara.
[8] Sẽ bàn rõ luật nghi ở một bài khác.
[9] Cf. Câu-xá 14, Đại 29, tr. 72a.
[10] Đến đây là hết phần ý nghĩa của học giới, còn phần bản chất, chức năng, phân khoa của học giới, lợi ích của sự hành trìlãnh thọhọc giới, tai hại của sự phá giới, nguyên tắc trì phạm các học giới v.v.. sẽ tiếp tục trình bày cụ thể ở những tiết sau.Śīlá