Thích Viên Giác
Kinh
Duy Ma Cậtxuất hiện vào thế kỷ thứ hai sau Tây lịch, nay không còn trọn nguyên
văn chữ Phạn, dịch thuật chỉ dựa vào bản Hán và Tây Tạng. Trước có 6 bản dịch,
nay còn chỉ 3 bản:
1. Phật thuyết
Duy Ma Cật kinh, Chi Khiêm đời Ngô dịch, 2 quyển.
2. Duy Ma Cật Sở
Thuyết kinh, do Cưu Ma La Thập dịch, gồm 3 quyển.
3. Thuyết Vô Cấu
Xưng kinh, do Huyền Trang dịch, gồm 6 quyển.
Trong 3 bản
dịch này, bản dịch của ngài La Thập được phổ biến hơn, có lẽ nhờ văn chương lưu
loát và khoáng đạt hơn.
Các văn bản chú
giải cũng khá phong phú, phạm viphổ biếnkinh Duy Ma Cật khá rộng, phải nói
rằng người cư sĩtrí thức rất chú trọng kinh Duy Ma, lấy đó làm cơ sở tu tậpgiải thoát.
Kinh Duy Ma là
một tác phẩm có giá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa
mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc của nguyên tắc thông
thường, mở ra một con đường rộng thênh thang cho mọi người trong xã hội.
I. KHÁI QUÁT
TƯ TƯỞNGKINH DUY MA CẬT
Kinh Duy Ma Cật
lấy bối cảnh thuyết pháp tại thành Tỳ Da Ly, đây là trung tâmhoạt động của Đại
chúng bộ. Sau khi Đức Phậtnhập Niết bàn 100 năm, tại thành Tỳ Da Ly đã xảy ra
bất đồng quan điểm về giới luậtPhật giáo chia thành 2 phái: Thượng tọa bộ và
Đại chúng bộ. Thượng tọa bộ là phái bảo thủ, Đại chúng bộ là phái cấp tiến. Đại
chúng bộ rất đông đảo gồm Tăng Ni và Phật tửtại gia, mở đầu cho sự canh tân
Phật giáo.
Đạo Phật tại Tỳ
Da Ly được phát triển mạnh mẽ nhờ sự ủng hộ của quần chúngPhật tử, sự sinh
hoạtPhật sựtương đốiphóng khoáng và tự do. Trong môi trường ấy có lẽ các cư
sĩDuy Ma, Bảo Tích… xuất hiện sau đó.
Nội dung tư
tưởng kinh Duy Ma lấy tư tưởngBát nhã làm nền tảng, tức tư tưởngTánh không.
Tư tưởngBát nhã mang sắc thái Nhất nguyên luận, chủ trương các pháp vốn thanh
tịnh, không sinh không diệt, bình đẳngbất nhị … Trên cơ sở tư tưởngchân không
của Bát nhã, kinh Duy Ma vận dụng và triển khaitư tưởngDiệu hữu của kinh Hoa
Nghiêm một cách triệt để, có thể thấy được sự giống nhau giữa Duy Ma và Hoa
Nghiêm qua tư tưởngdiệu hữu này.
Tư tưởng kinh
Duy Ma có thể được khái quát như sau:
1. Tâm tịnh
độ tịnh:
Tịnh độ là một
trong những chủ đềcốt lõi của kinh và xuyên suốt hệ thốngtư tưởng của kinh,
đồng thời là một thể tài đả kích những quan điểm về thế giới của các bộ pháiTiểu thừa Phật giáo.
Quan niệm về
Tịnh độ của kinh Duy Ma không phải là sáng tạođộc lập mà đây cũng là quan điểm
chung của các kinh điển Đại thừa như Bát Nhã, Hoa Nghiêm… Bát Nhã cho rằng thế giới
“bất cấu bất tịnh”; cấu hay tịnh do tâm chứ không phải do thế giới. Hoa Nghiêm
thì nói: “Ưng quán pháp giới tính, nhất thiếtduy tâm tạo”. Mức độ
thanh tịnh của tâm đến đâu thì thế giới được biểu hiện thanh tịnh đến đó; nói
cách khác, thế giới khổ đau, tăm tối hay hạnh phúc là do cách nhìn của con
người, thái độtâm lý rất quan trọng trong việc nhận thứcthế giới và kiến tạothế giới. Đạo lý lấy tâm làm chủ là đạo lý của đạo Phật không phân biệtĐại
thừa hay Nguyên thủy, đạo lý ấy xác định vai tròquyết định của con người đối
với cuộc đời họ mà không nhờ vào ân điển của một Đấng tối cao nào. Đạo lý này
giúp con ngườigiải thoát mọi khổ đau và triền phược của cuộc đời, xác định giá
trị của con người qua thực nghiệm tâm linh mà không qua hình thức bên ngoài. Đó
là đạo lýnhân bản, mở ra một lối thoát cho mọi loài chúng sanh.
Xác định tâmtịnh độ tịnh hoặc thế giớithanh tịnh hay ô nhiễm do tâm là lập trường của Đại
thừa. Tuy nhiên, tư tưởngNguyên thủy chủ trương cũng không có gì khác biệt, phải
nói rằng chủ trương tâm tịnh độtịnh chỉtriển khai trên nền tảng giáo lý
Nguyên thủy mà thôi. Kinh Trung Bộ I, Đức Phật dạy: “Như một tấm vải dơ
bẩn dù được nhuộm với màu sắc gì nó vẫn dơ và xấu, còn một tấm vải mới và sạch
nhuộm màu gì thì nó cũng đẹp. Cũng vậy, với một tâm cấu uế thì làm việc gì cũng
trở thànhcấu uế; với một tâm khôngcấu uế thì làm việc gì cũng thanh tịnh”.
2. Tư tưởng
bất tư nghì giải thoát:
Tất cả những gì
được biểu hiện trên cõi đời này đều là biểu hiện của thể tánhthanh tịnh, do đó
chúng là mầu nhiệm, là không thể nghĩ bàn. Nói cách khác, chúng là biểu hiện
duyên khởi, trên nền tảng Tánh không.
Sự bất tư nghì
ở chỗ biểu hiện một cách vô ngại các năng lựcgiải thoát ở nơi các vị Bồ tát,
Duy Ma đẩy năng lựcgiải thoát lên đến đỉnh cao là tất cả những biểu hiện trong
thế giớihiện tượng, đều là biểu hiện độ sanh của Bồ tát nhằm mục đíchhóa độchúng sanh nhập vào Phật đạo. Điều này rất có ý nghĩa: một là tất cả, những
biểu hiện của thế giớihiện tượng như gió thổi, mây bay, hoa nở, hoa tàn, cho
đếnkẻ cướp giật, trộm cắp, ma quỷ cám dỗ… đều là tác dụnggiáo dụccon đườnggiải
thoát, tu tậpgiải thoát không ra ngoài thế giới tầm thường phàm tục ấy, do vậy
chẳng có hiện tượng nào là không mầu nhiệm. Điều này vượt ra ngoài sự tư duyphân biệt của con người nên gọi là bất tư nghì. Ví dụ như một đóa hoa nở bên
đường có thể gợi mở cho ta một cảm nhận về sự tàn hoại của cái đẹp, qua đó đánh
thứcgiác tính của ta, làm bùng vỡ trong ta sự giác ngộ về bản thể của sự sống
và ta đạt đượcgiải thoát. Như vậy đóa hoa là biểu hiện của Bồ tát vì đã có
năng lực “giác hữu tình”. Trong bất cứ trường hợp nào, tình huống nào hay biểu
hiện nào cũng đều có khả năng đánh thứcgiác tính thì đó là năng lực của Bồ
tát.
Hai là tất cả
chúng sanh rồi sẽ thành Phật, bởi vì tất cả những biểu hiện trên cuộc đời này
đều là phương tiện độ sanh của Bồ tát, tức là đều có tác dụngđánh thứccon
người, dù con người ngu dốt hèn kém cách mấy sự lặp đi lặp lại của các quy luật
mang khả năng thức tỉnh ấy sẽ làm cho chúng sanhgiác ngộ. Tư tưởng này có lẽ
được triển khai rõ hơn trong Diệu Pháp Liên Hoa.
Thế giớibản
chất là pháp giới (Dhamadattu), khi tâm phân biệtchấp thủ thì thế giới đầy đau
khổ và biến động nhưng khi tâm không còn chấp thủ nữa thì thế giới trở nên an bìnhvô ngại… Tư tưởngNguyên thủy cũng đã có lập trườngtương tự, sự vi diệu của
thân thể và thế giới qua lập trườngduyên sinh và vô ngã của 5 uẩn, 5 khổ uẩn
có mặt khi có chấp thủ, khi chấp thủ đã rơi rụng thì pháp uẩn có mặt, nghĩa là
pháp giớithanh tịnh.
Người đạt được
bất tư nghì giải thoát không còn bị giới hạn bởi các cặp phạm trù: tịnh uế,
thiện bất thiện, lớn nhỏ, trong ngoài, xa gần, quá khứ, hiện tại, vị lai… Do vậy
mọi sự mầu nhiệm xảy ra đó là cảnh giới bất tư nghì, khi ấy đạo tràng của Bồ
táthiện diện khắp nơi, dù là dâm phòng, tửu điếm… đều khứ lai tự tại.
3. Tư tưởngbất nhị:
Tư tưởngbất
nhị được nhấn mạnh trong kinh Duy Ma Cật. Bất nhị tức là không hai, không hai
chứ không phải một. Mới nghe như là chơi chữ nhưng đó là cách diễn đạtcon
đườngbuông xả đầy diệu dụng. Thông thường, thế giới được nhận thức qua lăng
kính nhị nguyên, nghĩa là luôn có chủ thể và đối tượng, thế giới luôn được phân
hai: thiện ác, tốt xấu, được mất, hơn thua, cao thấp, trên dưới, trong ngoài,
ta người…Không có hai thì thế giớikhông tồn tại. Tư tưởng kinh Duy Ma cho rằng
cái hai ấy không phải là hai, vì chúng là song lập, cùng tồn tại bất khả phân ly,
nói cách khác chúng tồn tại trong thế duyên khởi. Do vậy không thể nhìn riêng
bất cứ pháp nào mà nhìn với cái nhìn toàn diện của một pháp. Kinh Duy Ma được
xây dựng trên nền tư tưởngBát Nhã và Hoa Nghiêm: các pháp không có tự tánh,
không sinh không diệt, vô tướng, bất khả thuyết… Bất nhị là đúc kết lý thuyếtchân không diệu hữu mà Bát Nhã và Hoa Nghiêm đã triển khai. Duy Ma dạy: “ Sắc
và không là hai nhưng sắc là không, không phải sắc diệt mới không mà là sắc
tánh tự không; cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức…”. Rõ ràngtư tưởngBất nhị có
sắc thái Nhất nguyên luận. Tuy nhiênDuy Ma không ngừng lại ở triết lý siêu
việt mà đưa tư tưởngBất nhị vào đời sống thực nghiệm tâm linhhiện thực rằng:
“Nhãn và sắc là hai nhưng nếu biết nhãn đối với sắc không tham, sân, si
thì đó là tịch diệt… cho đến ý với pháp là hai, nhưng ý đối với pháp không
tham, sân, si thì đó là tịch diệt, sống trong ấy là nhập vào pháp môn Bất nhị”.
Như vậy tư tưởngBất nhị cũng đã triển khaidựa vào cơ sở tư tưởngNguyên thủy
về tu tậptịch diệt ở nơi các pháp qua 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới, ngay cả quan niệmBất nhị qua sự im lặng của Duy Ma hay sự siêu việtvấn đáp của Văn Thù cũng chỉ
là vô hý luận mà tư tưởngNguyên thủy đã trình bày.
II. MỤC ĐÍCH
CỦA KINH DUY MA CẬT
Kinh Duy Ma Cật
có hai mục đích:
1. Luận phá
tư tưởngTiểu thừa:
Vào thế kỷ thứ
nhất trước Tây lịch, phong tràovận độngĐại thừa bắt đầu xuất hiện. Sự xuất
hiệnkinh điển Đại thừa đã nói lên tính quyết liệt của cuộc canh tân Phật giáo.
Tư tưởngĐại thừa là tư tưởng mới, nhưng sự đổi mới tư tưởng ấy không tách rời
tư tưởngđạo PhậtNguyên thủy, mà chỉ triển khai trên cơ sở tư tưởngNguyên
thủy, đã mở rộng tầm nhìn, khai thác những khía cạnh uyên áo nhất qua nhãn quan
thời đại và hơn hết là phù hợp với tinh thần và bản ý của Đức Phật. Cần phải nói
rằng các bộ phái Phật giáo sau nhiều năm tháng tranh giànhảnh hưởng đã đưa
Phật giáo đi quá xa tinh thầnđạo PhậtNguyên thủy. Điều tai hại là dựa vàogiáo lý Nguyên thủy, các bộ pháichấp chặt vào kinh điển làm cho đạo Phật bị xơ
cứng, đạo Phậtdần dần lui vào sơn lâm cùng cốc, xa lánh cuộc đời. Từ ngữTiểu
thừa được các nhà Đại thừasử dụng để chỉ cho thời kỳPhật giáoBộ phái và thái
độ hẹp hòi bảo thủ của hệ thống cũ làm cho sinh khíPhật giáo không được như
thời Đức Phật nữa.
2. Vận động
phản kháng chủ nghĩaxuất gia:
Đạo PhậtNguyên
thủy chủ trương rằng muốn chứng đắcchân lý phải từ bỏthế tục, cô thân chích
ảnh, tích cựctu tập thiền định mới chứng đạt chân lý. Người cư sĩ khó có thể
chứng đạt chân lý bởi sự hệ luỵ của thê nhi, tài sản và dục lạc, do đó vai trò
người cư sĩ chỉ là hộ pháp.Quả thậtchúng ta thấy lộ trình tu tậpgiải thoát
trong Kinh tạngNguyên thủy chỉ dành cho những người buông bỏđời sốngthế tục.
Pháp môn cao nhất của người cư sĩ là tu tậpBát quan trai giới, còn hành thiền
thì gần như chỉ dành cho đệ tửxuất gia. Chủ trương như vậy không có gì sai,
nhưng đó không phải là bản ý của Đức Phật; Đức Phật đã nhiều lần xác định người
tại gia nếu đoạn trừ các lậu hoặc vẫn giải thoát. Tuy nhiên, các thời kỳPhật
giáoBộ phái đã đóng bít cánh cửa cơ hội giải thoát của người cư sĩ, đạo Phật
như là dành riêng cho thiểu số. Điều đó đã đưa đạo Phật vào chỗ bế tắc vì mục
đích của đạo Phật là cứu độchúng sinh thoát khổ.
Người cư sĩkhông thỏa mãn với chủ nghĩaxuất gia, họ có ước vọnggiải thoát, họ muốn giá
trị của đạo Phật được phổ cậpquần chúng, lợi íchnhân gian. Đạo Phật phải là
của đại chúng, vì vậy cuộc vận động trở nên kịch liệt.
Kinh Duy Matriển khaitư tưởng bất tư nghì giải thoát để mở rộngcon đườnggiải thoát cho
mọi người đều được hưởng hương vị của chân lý. Phải nói rằng chủ trương của
kinh Duy Ma đã đem lại luồng sinh khí cho đạo Phật, nhất là thỏa mãn nhu cầu
tri thức và thực nghiệm tâm linh cho số đông.
III. KẾT
LUẬN
Kinh Tăng Chi,
Đức Phật dạy: Có 4 hạng người xuất gia:
1. Thân xuất
gia mà tâm khôngxuất gia.
2. Tâm xuất gia mà
thân không xuất gia.
3. Thân và tâm đều
xuất gia.
4. Thân và tâm đều
không xuất gia.
Như vậy, ngay
trong giáo lý Nguyên thủy, Đức Phật đã xác định có hạng người đạt đượcgiải
thoáttrong đời sống thế tục mà không cần xuất gia, giá trị của họ rất lớn. Đại
thừadựa trên cơ sở ấy mà triển khaicon đườngBồ tát:
“Phật pháp
tại thế gian
Bất ly thế gian
giác
Ly thế mích bồ
đề
Do như cầu thố
giác”.
Kinh Duy Ma
cũng dựa trên cơ sở ấy để phản kháng chủ nghĩaxuất gia rằng không cần từ bỏthế tục vẫn thực hiệntâm linhgiải thoát.
Khát vọng giải
thoát của người cư sĩ đã từng được Kinh tạngNguyên thủy ghi lại, đó là trường
hợpCấp Cô Độc. Cấp Cô Độc trước khi qua đời được hưởng hương vị giải thoát qua
bài thuyết phápVô ngã tính, ông đã thiết tha yêu cầuThế Tôn hãy cho hàng cư
sĩ cơ hội tu tập theo con đườnggiải thoát chứ không chỉ dừng lại ở con đường
lên cõi trời. Nữ cư sĩ Visakha cũng là một trong những cư sĩtu tập pháp giải
thoát qua pháp mônBát quan trai.
Nếu bỏ qua một bên
sự quá đáng trong việc chỉ trích các Thánh tăngA la hán thì ưu điểm của kinh
Duy Ma Cật rất lớn, điểm đặc biệt và nổi bật của kinh là tạo nên một đường lối
mới, một sinh khí mới. Đường lối mới ấy đã làm cân bằng con đườngtâm linh và
con đườngxã hội, mặt khác thực tế hóa, đại chúng hóacon đườnggiải thoát của
đạo Phật.