TÓM TẮT NỘI DUNG 12 CHƯƠNG BẢN TIẾNG PHẠN
Mục Lục
Chương I
Sự kiện xảy ra tại rừng Am-la-vệ (sa. āmrapālīvana), nơi Phật Thích-ca Mâu-nithuyết pháp cho Pháp hội với rất
nhiều Thanh Văn, Bồ Tát và chư thiêntham dự. Một đồng tử với tên Bảo Tích (sa.
ratnākara) cùng với 500 đồng tử thuộc dòng tộc Li-thiếp-tì (sa. licchavi)
đến dự pháp hội, tán thán Phật qua một bài kệ khá dài được ghi lại dưới dạng
tiếng Phạn lai (hybrid Sanskrit). Sau đó, Phật giải thích thế nào là sự
thanh tịnh của Phật độ và sự thanh tịnh tâm của một vị Bồ Tát. Cuối cùng, Phật
xua tan hoài nghi của Xá-lợi-phất và những vị khác, nói lí do vì sao thế giới
này không thanh tịnh mặc dù Phật xuất hiện, và sau đó, ngài thi triển thần thông
để pháp hội có thể chứng kiến được điều này.
Chương II
Cảnh tượng được chuyển đến nhà một vị cư sĩ với tên Duy-ma-cật. Cư sĩ không
rời nhà được vì thụ bệnh. Những nhân vật quan trọng trong thành phố Quảng
Nghiêm đều đến thăm ông và nhân dịp này, ông ta trình bày cho họ những khuyết
điểm của thân thể, đặc điểm của thân Phật và vì sao ta nên gắng sứctu tập để
đạt được thân Phật.
Chương III (III & IV)
Duy-ma-cật suy tư tại sao Phật không gửi ai đến hỏi bệnh an ủi. Phật Thích-ca,
lúc này vẫn còn trú tại rừng Am-la-vệ, biết ý của ông, lần lượtyêu cầu10 đại đệ tử: Xá-lợi-phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, Ma-ha-ca-diếp, Tu-bồ-đề, Phú-lâu-na, Ca-chiên-diên, A-na-luật, Ưu-ba-li, La-hầu-la
và A-nan-đà
đến thăm và hỏi bệnh Duy-ma-cật. Tuy nhiên, tất cả những vị này đều từ chối đi
thăm với lí do là đã bàn luận với ông và hổ thẹn vì không đủ khả năngđối đầu
tài biện luận của vị cư sĩ này. Và cũng như vậy, bốn vị Bồ TátDi-lặc (sa.
maitreya), Quang Nghiêm (sa. prabhāvyūha),
Trì Thế (sa. jagatindhara) và
Tô-đạt-đa (sa. sudatta) đều
khước từ đi thăm.
Chương này được ba bản Hán phân làm hai chương, tức là III và IV với phần
thứ nhất miêu tảhoàn cảnh của mười đại đệ tử hàng Thanh Văn và phần hai bao
gồmcuộc nói chuyện với bốn vị Bồ Tát.
Chương IV (V)
Cuối cùng, Bồ TátVăn-thù-sư-lợichấp nhậnyêu cầu của Phật. Khung cảnh
được chuyển về nhà của cư sĩ Duy-ma-cật, một căn phòng nhỏ bé nhưng có thể dung
nạpvô số người viếng thăm. Nơi đây, cuộc đàm thoại giữa Văn-thù-sư-lợi và
Duy-ma-cật bắt đầu. Rất nhiều Bồ Tát, thiên, nhân và vô sốchúng sinh khác đến
nghe cuộc đàm thoạivô song giữa hai người được tán thán là trí huệ đệ nhất.
Các đề tài được đàm luận ở đây là tính
không (sa. śūnyatā), một cái nhìn phân tích sâu sắc về bệnh tình của
Duy-ma-cật và lĩnh vực hoạt động (sa. gocara) của một Bồ Tát.
Chương V (VI)
Xá-lợi-phất suy nghĩ là pháp hội lớn như thế làm sao có chỗ ngồi trong căn
phòng nhỏ. Duy-ma-cật biết ý khuyên tôn giả Xá-lợi-phất không nên tìm chỗ ngồi
mà phát tâmcầu pháp, và sau đó ông ta giải thíchý nghĩa của việc cầu pháp
này. Pháp hội ngồi trên những toà sư tử to lớn, được Như Lai Tu-di Đăng Vương
(sa. merupradīparāja) ở cõi Tu-di tướng (sa. merudhvāja) gửi đến.
Sau đó, Duy-ma-cật diễn giảng sự giải thoátbất khả tư nghị (sa. acintyavimokṣa) cho các vị Như Lai và Bồ Tát.
Chương VI (VII)
Cuộc luận đàm giữa Văn-thù-sư-lợi và Duy-ma-cật được tiếp nối và lần này,
những điểm quan trọng dành cho một Bồ Tát được đề cập đến. Ví dụ như Duy-ma-cật
giải một trường hợp nghịch lí là Bồ Tát một mặt xem chúng sinhkhông thậthiện
hữu, nhưng mặt khác vẫn phát triển lòng đại bi (sa. mahāmaitrī) dành cho
chúng sinh. Sau đó, một thiên nữ (sa. devatā) xuất hiện và bắt đầu một
luận đàm nghịch lí với Xá-lợi-phất với nội dung nhấn mạnhbản chấtưu việt của
Đại thừa. Sau khi giảng tám điều huyền diệu nơi nhà Duy-ma-cật, thiên nữ thi
triển thần thông, hoán chuyểnhình tướng giữa chính mình với Xá-lợi-phất để làm
tôn giả tin vào tính phi nam phi nữ của các pháp. Cuối cùng, Duy-ma-cật cho
biếtthiên nữ này trước đây đã phụng sự nhiều vị Phật nên giờ đây đạt được
những năng lực siêu nhiêu, thi triển thần thông một cách ung dungtự tại (sa. abhijñājñānavikrīḍita).
Chương VII (VIII)
Cuộc đàm luận giữa Văn-thù-sư-lợi và Duy-ma-cật được tiếp nối và bây giờ,
Duy-ma-cật giảng thế nào là theo Phật đạo mặc dù không trực tiếp đi trên đường
này, cũng như giảng thế nào là chủng tínhNhư Lai. Thêm vào đó, ông còn dùng
bài kệ được ghi lại bằng tiếng Phạn lai (hybrid Sanskrit) để ứng đáp vị
Bồ Tát tên Hiện Nhất ThiếtSắc Thân (sa. sarvarūpasaṃdarśana).
Chương VIII (IX)
Theo lời yêu cầu của Duy-ma-cật, ba mươi mốt vị Bồ Tát trình bày quan điểm
của mình về pháp môn bất nhị. Khi Văn-thù-sư-lợi trình bày quan điểm của mình
và yêu cầu Duy-ma-cật trình bày kiến giải, ông ta chỉ lặng thinh.
Chương IX (X)
Xá-lợi-phất nghĩ đến giờ ăn và thức ăn cho các vị trong hội. Duy-ma-cật biết
ý, hiện thần thông cho đại chúng thấy cảnh ẩm thực ở Phật độNhất Thiết Diệu
Hương (sa. sarvagandhasugandha) của Phật Tối Thượng Hương Đài (sa. gandhottamakūṭa). Duy-ma-cật dùng thần lực tạo một vị
Bồ Tátuy nghiêm, bảo vị này đến Phật độ kia khất thực. Vị Bồ Tát này trở vềbát khất thực đầy thức ăn và được 90.000 Bồ Tát hộ tòng. Duy-ma-cật trao đổi ý
kiến với các vị Bồ Tát từ cõi Nhất Thiết Diệu Hương về cách dạy của Phật Tối
Thượng Hương Đài và của Phật Thích-ca Mâu-ni.
Chương X (XI)
Sự việc lại chuyển đến khu rừng Am-la-vệ tại thành Quảng Nghiêm. Toàn pháp
hội tại nhà Duy-ma-cật được chuyển đến rừng Am-la-vệ, ngay trước mặt Phật
Thích-ca. Sau khi hỏi Duy-ma-cật, A-nan-đà bạch Phật rằng thức ăn tại nhà
Duy-ma-cật có cùng hiệu quả như hiệu quả của Phật (sa. buddakṛtya). Phật Thích-ca đồng ý và thuyết một
bài pháp tên Ngộ nhậpnhất thiếtPhật pháppháp môn (sa. sarvabuddhadharmapraveśa),
giải thích những điểm sau: những điểm dị biệt và giống nhau của Phật độ, tính
bình đẳng và bất khả tư nghị của Phật, tính chấtsiêu việt của các vị Bồ Tát so
với hàng Thanh Văn. Thể theo yêu cầu của các vị Bồ Tát từ Phật độNhất Thiết
Diệu Hương (sa. sarvagandhasugandha), Phật Thích-ca giảng thêm pháp mônTận
vô tậnvô ngạigiải thoátpháp môn (sa. kṣayākṣayo nāma
vimokṣaḥ). Các vị Bồ Tát nghe bài thuyết pháp
(sa. dharmaparyāya) xong hoan hỉtrở vềPhật độ của họ.
Chương XI (XII)
Được Phật hỏi quán Như Lai như thế nào, Duy-ma-cật trình bày cách quán Như
Lai, tức là quán thânNhư Lai như thể khônghiện hữu. Xá-lợi-phất trao đổi vài
lời với Duy-ma-cật và sau đó, Phật cho Xá-lợi-phất biết rằng Duy-ma-cật đến từ
cõi Diệu Hỉ (sa. abhirati) của Phật Bất Động (sa. akṣobhya). Biết pháp hội muốn chứng kiến cõi
Diệu Hỉ, Phật Thích-ca yêu cầu Duy-ma-cật chỉ cho họ. Duy-ma-cật liền dùng thần
thông nắm lấy cõi Diệu Hỉ bằng bàn tay mặt mang đến cho pháp hội xem. Sau khi
thụ kí là những người trong pháp hội sẽ tái sinh tại Phật độDiệu Hỉ này,
Duy-ma-cật mang Phật độDiệu Hỉ đưa về chỗ cũ. Sau đó, Phật Thích-ca nhấn mạnh
đến công đứcđạt được khi bảo trìbài kinh (sa. dharmaparyāya) này.
Chương XII (XIII & XIV)
Đế Thích thiên (sa. śakra) hứa sẽ bảo hộ kinh và những ai thụ trìđọc
tụng kinh này. Phật tán thán và kể lại mẩu truyện của Chuyển luân thánh vương
tên Bảo Cái (sa. ratnacchattra) và các người con trai của ông, nói về
việc cúng dường pháp (sa. dharmapūjā). Sau đó, Phật phó chúc pháp vô
thượng chính đẳng chính giác cho Bồ Tát Di-lặc và cuối cùng, A-nan-đà được Phật
yêu cầuthụ trì và truyền bá kinh này rộng rãi.
Tham khảo
Tài liệu chủ yếu
- Vimalakīrtinirdeśa.
Transliterated Sanskrit Text Collated with Tibetan and Chinese
Translations. Ed. by Study Group on Buddhist Sanskrit Literature. TaishoUniversity, 2004. - Phật thuyết Duy-ma-cật
kinh (zh. 佛說維摩詰經), Taishō No. 474. - Duy-ma-cật sở thuyết kinh
(zh. 維摩詰所說經), Taishō
No. 475. - Thuyết Vô Cấu Xưng kinh
(zh. 說無垢稱經),
Taishō No. 476
Tài liệu thứ yếu
- Fo Guang Ta-tz’u-tien 佛光大辭典.
Fo Guang Ta-tz’u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang
ch’u-pan-she, 1988. (Phật QuangĐại Từ Điển. Phật QuangĐại Từ Điển
biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.) - Watson, Burton:
The Vimalakīrtisūtra, Motilal Banarsidass Delhi, 1999. - Thurman, Robert A.F.: The
Holy Teaching of Vimalakīrti. Pennsylvania State Univ. Press
University Park, Pa. [u.a.], 1988. - Lamotte, Étienne: L’Enseignement
de Vimalakīrti (Vimalakīrtinirdeśa), Louvain, 1962. - Thích Tuệ Sĩ: Kinh
Duy-ma-cật sở thuyết, Viện Cao Đẳng Phật HọcHải Đức, Nha Trang
2004.
(Bách Khoa Toàn Thư http://vi.wikipedia.org/)