TRONG TỔ CHỨC TĂNG ĐOÀN NGÀY NAY TẠI VIỆT NAM
Thích Minh Chuyển
I. Luật tạng trong tổ chức
tăng đoàn.
Định nghĩa về tăng, Thiền sưNhất
Hạnh viết:
Tăng đoàn (Sangha) là những
người nguyện sống với đời sốnghoà hợp, để hổ trợ cho nhau thực hiệnđời sốngGiải thoát và Giác ngộ. Chính bằng đời sống như vậy, họ có thể trở thành những
mảnh đất trù phú (phước điền) để cho mọi người đến gieo trồng hạt giốngphước
đức và làm nền tảng cho đời sốngchánh hạnh, tiến bộtâm linh. Năm anh em Kiều
Trần Như là đoàn thể tăng đầu tiên. Sau này trên đà phát triển của Phật giáo,
Tăng đoànmở rộng không những một trú xứ mà lan khắp Ấn độ. Các tỷ kheo lớn
không còn ở gần bên Đức Thế tôn mà đi giáo hoá khắp nơi do đó những quy định
trong Tăng cũng có nhiều thay đổi. Luật tạng ra đời và quy định đối với tổ chức
Tăng đoàntối thiểu là bốn vị đã thọ tỷ kheo hoặc tỷ kheo ni giới trở lên và
cùng sinh hoạtvới nhau trong một mục đích là Giải thoát và Giác ngộ. Và cũng
từ đây Luật tạngquy định các chúng của Tăng được phân loại như sau:
a. Phân loại theo túc số.
– Tăng gồm bốn vị: Đây là túc số tối
thiểu. Dưới bốn vị không thể gọi là tăng hoặc ba vị tỷ kheo và một sa di cũng
không thể gọi là tăng, mà phải là bốn tỷ kheo trở lên. Với túc số này Tăng có
thể làm tác phápYết ma đơn bạch cho những sinh hoạt thông thường trừ Tự tứ,
truyền Cụ túc giới, xuất tội Tăng tàn. Còn lại các Yết ma khác đều được tác
pháp với túc số bốn người này.
– Tăng gồm năm vị: Đây là túc số
Tăng tác phápYết ma truyền Cụ túc giới ở biên cương trong đó có một vị trì
Luật. Vì số tỷ kheo ở đó không đủ mười vị. Với túc số này các pháp Yết ma đều
làm được chỉ trừ việc truyền giớiCụ túc ở đô thị và xuất tội Tăng tàn.
– Tăng gồm mười vị: Đây là túc số
Tăng sung mãn tối cần thiết để xuất tội tăng tàn và có thể thực hiện bất cứ
Tăng sự nào.
b. Phân loại theo giới tính.
Do sự khác về tính phái nên Tăng già
được chia làm hai bộ:
– Tỷ kheo tăng.
– Tỷ kheo ni tăng (Trung quốc gọi là Á Tăng).
c. Phân loại trú xứ:
Phân loại chung theo trú xứ thì có
hai hạng Tăng:
– Chiêu đề Tăng là Tăng không ở định một chỗ mà đi giáo hoá khắp nơi, hình thứcChiêu đề Tăng này hoàn toàn không có tài sản, động sản và bất động sản.
– Thường trú Tăng là Tăng cố định một chỗ cùng chungsinh hoạt trong một trú xứ,
cùng Yết maAn cư, Bố tát và Tự tứ.
Đây chính là cơ sở để có sự hình
thành các bộ phái khác nhau và sự xuất hiệnLuật tạng có phần khác nhau. Tăng
đoàn là một cộng đồngTăng lữsinh động. Vì lẽ đó mà Luật tạngquy định về sinh
hoạt của Tăng như sau:
1. Bố Tát:
Tiếng Pali là Uposatha (Phạn
ngữ, Posadha). Hán phiên âm là Bố tát và dịch là Trưởng dưỡng, hoặc
Trưởng thịnh: nghĩa là nuôi lớn các thiện căn, khiến chúng trưởng thành trong
sự thanh tịnh.
Ngày Tăng Bố tát là ngày mà tất cả
các vị tỷ kheo cùng sống trong một cương giới, phải tập trung tại giới trường
để tác phápYết mathuyết giới và đọc lại giới bổnBa La Đề Mộc Xoa (Pali, Pātimokkha).
Nên nội dung của Bố tát chính là sự thuyết giới, nghĩa là đúng nửa tháng chúng
tỷ kheo cùng tập họp nhau lại trong cùng một cương giới hoà hợp và thanh tịnh
để tụng đọc Ba La Đề Mộc Xoa, trong đó gồm cả năm thiên và bảy tụ của giới.
Khi Đức Phật còn tại thếchúng Tăng
thời đó thường tụng giới bổn đuợc thâu tóm qua bảy bài kệ của bảy Đức Phật, đầu
tiên là Đức PhậtTỳ Bà Thi:
Tạm dịch:
Nhẫn, khổ hạnh bậc nhất Vắng lặng đạo thù thắng Xuất gia làm hại người Không xứng gọi Sa môn.Mỗi nửa tháng định kỳ ngày Bố tát
của Tăng, đó là biểu hiện nguyên tắc hoà hợp của Tăng, đồng thời là điều kiện
tốt nhất để các tỷ kheo sách tấn nhau tu học.
Bất cứ trú xứ nào mà Tăng nửa tháng
nhóm họp để tụng đọc giới bổn thì trú xứ ấy được xem như là Phật giáo hưng
vượng. Đức Phật có mặt ngay trong hiện tại. Và nếu trú xứ nào mà Tăng nửa tháng
không nhóm họp để Bố tát thì trú xứ ấy Tăng đoànxem như chưa có sự hoà hợp.
Bởi vậy, Bố tát là mạng mạch của
Tăng, nên không có chúng tỷ kheo nào được gọi là Tăng mà không thực hànhBố
tát, ngoại trừ những kẻ lạm dụng Tăng để phá hoạiChánh Pháp. Chỉ có ngoại đạo,
kẻ tà kiến mới làm như vậy. Vì tính chấtnghiêm trọng của Bố tát là như vậy nên
nó không thể không có trong sự sinh hoạt của Tăng.
2. An cư.
Đức Phậtquy định cho Tăng đoànan
cư vì những lý do sau:
– Để không dẫm đạp lên côn trùng trong mùa mưa (Ấn độ).
– Nhằm trau dồi và nuôi lớn pháp Tam Vô Lậu Học, để có thể xứng đáng là ‘Chúng
trung tôn’, bậc trí đứchoàn toàn.
– Nhằm biểu lộtinh thầnhoà hợp, thanh tịnh, và đồng bộ của Tăng. Chỉ khi nào
Tăng biểu lộtính chất ấy, thì Chánh Pháp do Tăng tuyên dương đạt nhiều kết quả
cao thượng.
– Nhằm củng cốniềm tin cho hàng Phật tửtại gia đối với ngôi vị ‘thế gian tam
bảo’.
Bất cứ trú xứ nào các tỷ kheo cùng
nhau tu tập, cùng nhau hoà hợpan cư, sống bằng đời sốnghoà hợp và thanh tịnh
thì xứ sở ấy xem như Phật – Pháp – Tăng có mặt đúng ý nghĩa, làm chứng cứ cho
chư thiên và loài người gieo trồng phước đức đối với Chánh Pháp.
Kỳ hạn an cư của Tăng ngày nay không
nhất định, vì tuỳ theo từng khí hậu thời tiết, và lịch biểu của từng vùng.
Tăng đoàn của các nước Phật giáoNam
phương như: Tích lan, Miến điện, Thái lan, Lào vv… họ an cư bắt đầu từ 16 tháng
6 theo lịch Trung quốc, và giải hạ vào ngày 15 tháng 9 theo lịch Trung quốc.
Tăng đoàn của các nước Phật giáo Bắc
phương như: Trung quốc, Nhật bản, Triều tiên, Đài loan, Việt Nam vv… họ an cư
bắt đầu từ 16 tháng 4 theo lịch Trung quốc. Chúng tăng phương Bắc, an cư vào
thời gian trên là do dựa vào kinh Vu lan. Theo kinh này thì ngày rằm tháng 7 là
ngày Tự tứ của mười phuơng Tăng, ngày Phật hoan hỷ. Do đó giải hạTăng đoàn ở
phương Bắc giải hạ vào ngày 15 tháng 7 theo lịch Trung quốc.
2. Tự tứ.
Sau ba tháng chúng Tăngkiết hạan
cư để trau dồI trí đức và trí tuệ, đến ngày trăng tròn tháng 7 (lịch Trung
quốc) là ngày hành phápTự tứ của Tăng.
Tự tứ tiếng Phạn là Pravārana,
dịch là Thỉnh thỉnh, hoặc Tuỳ ý: nghĩa là thỉnh cầu người khác chỉ điểm những
lỗi lầm của bản thân.
Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, bấy giờ
sau mùa an cư, Ngài cùng với 500 tỷ kheo, nhân ngày trăng tròn Tự tứ, Đức Thế
Tôn liền bảo rằng:
“Này các tỷ kheo, quý vị có điều gì
chỉ tríchNhư Lai về thân hay về ngữ không?Nay đúng lúc mời quý vị hãy nói.”
Được nghe như vậy tôn giả Xá Lợi
Phấtđứng dậy vái chào và bạch:
“Bạch Đức Thế Tôn, chúng con không
có chỉ trích gì Đức Thế Tôn về thân và về ngữ.”
Sau đó Xá Lợi Phất cũng thỉnh cầuĐức Thế Tôn chỉ lỗi về thân và ngữ. Nhân đây mà có ngày Tự tứ các Luật tạng đều
ghi nhận.
Sự chỉ lỗi lầm phải được căn cứ trên
ba trường hợp: do được thấy, được nghe và được nghi. Mà phải là vị trưởng lãotỷ kheo mới được làm việc này.
Mục đích của việc Tự tứ cũng gần
giống như việc thuyết giới, đó là sự biểu hiện thanh tịnhhoà hợp của Tăng.
Nhưng Tự tứ quan trọng hơn việc thuyết giới ở chỗ là mở ra một giai đoạn mới
trong đời sống đạo hạnh của thầy tỷ kheo. Đó là ngày Phật hoan hỷ, ngày chúng
tỷ kheothanh tịnh thọ nhận thêm một tuổi đạo (Thọ tuế). Cũng có khi gọi là
giải đảo huyền tức là mở sợi dây treo ngược và sợi dây treo xuôi, cũng có khi
gọi là ngày xá tội vong nhân vì nhân ngày này mà hết thảy tội nhân đang mắc
vòng khổ luỵ trong địa ngục liền được giải thoát.
Vậy ngày Tự tứ của Tăng là ngày các
tỷ kheo tự kiểm điểm lại sự tu tập của mình trong ba tháng qua bằng cách tự nói
lên lỗi lầm của mình trước một vị Trưởng lãotỷ kheo hoặc mong những vị tỷ kheo
khác chỉ điểm những lỗi lầm của chính mình mà chính bản thân quên lảng không
nhận ra. Tuy nhiên không phải tỷ kheo nào cũng được chỉ điểm sai lầm của các tỷ
kheo khác, mà phải do Tăng đề cử và biểu quyết chọn vị Trưởng lãotỷ kheo hoặc
một vị, hoặc hai và ba vị. Vị Trưởng lãotỷ kheo do Tăng đề cử gọi là Tự tứ
nhơn phải hội đủ năm yếu tố (Ngũ đức sư):
– Bất ái: không thiên ái, không vì tình cảm riêng tư.
– Bất nhuế: không sân hận, không trả thù, phải với tâm bình thản.
– Bất bố: không khiếp đảm sợ hãi.
– Bất si: không si mê, khi chỉ trích ai đó, phải biết rõ tội danh, tội chủng
trong ‘Ngũ thiên thất tụ’.
– Tri vị Tự tứ dĩ Tự tứ: biết rõ đúng lúc hay không đúng lúc để tiến hành tác
phápTự tứ và biết rõ tỷ kheo nào đã Tự tứ, tỷ kheo nào chưa Tự tứ.
Khi vị tỷ kheo được Tăng sai Tự tứ
đến (Tự tứ nhơn sai) các vị tỷ kheo (ba vị) tuần tựcầu thỉnh như sau:
“Bạch Đại đức dũ lòng lắng nghe. Hôm
nay, là ngày chúng TăngTự tứ, con là tỷ kheo, tên (…) cũng xin Tự tứ. Nếu Đại
đức thấy, nghe và nghi con có tội, xin nguyện Đại đức thương tưởng nói cho con.
Con thấy có tội, sẽ như phápthành tâmsám hối.” Tỷ kheocầu thỉnh nói như vậy ba lần. Vị tỷ kheo Tăng sai Tự
tứ sẽ theo đó mà chỉ lỗi hoặc không có lỗi thì nói là tốt.
Hành phápTự tứ xong, các tỷ kheo
được xác định thêm một tuổi hạ, đó là tuổi của Giới đức, của Tuệ học. Hàng xuất
gia luôn lấy Giới đức và Tuệ học làm tuổi, chứ không tính tuổi theo năm tháng
của thế tục. Hễ tỷ kheo nào không An cư, không Tự tứ, hoặc có An cư mà không Tự
tứ hoặc có Tự tứ mà không An cư thì cũng xem như là không có tuổi đạo.
Do đó vấn đềAn cư, Tự tứ là một
trong những sinh hoạtthen chốt của Tăng đoàn, nhằm biểu hiện tinh thầnhoà hợp
của Tăng.
Ngày nay tinh thầnAn cư, Bố tát, và
Tự tứ vẫn còn đó nhưng vấn đềáp dụng đã có phần xao lảng và không còn được
chặc chẽ như ngày trước nữa, rảI rác một vài tu viện có duy trì một cách tương
đối nghiêm túc nhưng cũng chỉ như con én giữa mùa xuân, như một ngọn đèn trước
gió le lói không đủ thắp sáng giữa đêm tối mịt mùng. Phần lớn các chùa còn lại
hầu như rất xem thường hoặc chỉ qua loa lấy lệ kẻo “ôn mệ bắt”, hoặc sợ
tín đồchê trách, hoặc để mà mắt công chúng mà thôi. Có không ít tỷ kheo một
năm đến giới trường không quá hai lần, có vị ba tháng hạ an cư nhưng ở trong
chùa không quá một phần ba. Suốt ngày đi rong ngoài đường không vì phóng tâm
thì cũng vì tín nguỡng. Còn có vị phát biểu thế này: “miễn sao trưa về kịp Quá
đường là được.” Chúng ta ai là người có lương tâm nghe như vậy có được không?
An cư đâu phải chỉ để Quá đường, đưa bát lên hạ bát xuống là đủ. An cư tức là
chúng Tăngsống yên ổn một chỗ hoà hợp và thanh tịnh để cùng nhau tu học trau
dồi Giới đức, Định học và Tuệ học sau chín tháng đi hoằng phápđộ sinh. Ý nghĩaAn cư là như thế chứ sao gọi là: miễn sao về kịp Quá đường là được. Vậy kính
mong các vị lãnh đạo, các nhà giáo dục Tăng, các ngài Trú trì cần xem xét lại
việc An cư, Bố tát và Tự tứ như vậy đã đúng chưa.
Ngoài những hình thứcsinh hoạt của
Tăng có tính thường niên nêu trên, đời sống của Tăng còn có một yếu tố quan
trọng khác mà chúng ta không thể không biết tới. Đó là các tác phápYết ma
trong công tác hằng ngày của chúng Tăng. Hơn thế nữa là việc tuyển trạch Tăng,
tức là vấn đề chọn lựa thành viên Tăng, đưa từ địa vịSa di lên địa vịTỷ kheo
để được dựa vào hàng ngũ Tam bảo – Chúng trung tôn.
Khi Đức Thế Tôn còn tại thế ngài chỉ
gọi “Thiện laitỷ kheo” (Hãy đến nơi hạnh phúc hỡi tỷ kheo) liền khi ấy
giới thểvô biểuthành tựu, đầy đủ oai nghithân tướngtỷ kheo. Chỉ có Thế Tôn
mới được gọi như thế, các vị khác không thể có trường hợp này. Sau khi Thế Tôndiệt độTăng đoàny theo Pháp, Luật để hành trì thì việc xét tuyển Tăng, truyền
Cụ túc giới phải được tiến hành bởi Tam sư Thất chứng (Hội đồng Thập sư) và
phải qua bạch tứ Yết ma thì giới tử mới đắc giới thể vô biểu, hoặc Hội đồngNgũ
sư ở biên cương mà trong đó phải có một vị trì Luật giỏi.
Trải qua các thời đại từ Tây Trúc
qua Đông Độ và cho đếnViệt Nam, lịch đạiTổ sư đều nhất luật như thế. Đây là
việc làmtruyền thống có tính kế thừa của Luật tạng. Do vậy, việc xét tuyển
Tăng là việc làm của Luật tạng, của thầy trò và của Tăng đoàn mà hoàn toàn
không liên can gì đến chính quyền sở tại hay chính quyền trung ương. Khi một vị
tập sự xuất gia, sau khi được thầy Bổn sư thế độ cho phép thọ Sa di giới để
thực tập Giới, thực tậpThiền định, thực tậpTrí tuệ. Khi thấy được sự thuần
thục của đệ tử, Bổn sư thế độ muốn đưa đệ tử lên địa vị cao dự vào hàng Tăng
Bảo để tiếp nốisự nghiệp hoằng truyền của Thầy Tổ. Do đó Bổn sư dắt đệ tử đi
cầu thỉnhTam sư – Thất chứng đăng đàn truyền trao Cụ túc giới (truyền giớiphương trượng) hoặc chỉ thầy truyền trò Y Bát trong đêm khuya mà không cần bày
hình thức:
bạch vân hàn lập tuyết Hoàng Mai lâm lý nhất luân minh
nguyệt dạ truyền y.”
Tạm dịch:
Trước động Thiếu Thất trải bao ngàytháng đứng trong tuyết lạnh Đến làng Hoàng Mai một đêm trăng
tròn sáng tỏ thầy truyền y.
Tổ đã làm như vậy, ngày nay Tăng giàhọc luật cũng làm như vậy, đang làm và sẽ làm như vậy. Đó là người học Luật,
học lời Tổ một cách thông minh có ý thức. Nhờ tâm thương tưởng của thầy, của
Thập sư và tương ưng với tâm tha thiết khất cầu của giới tử mà cảm động đến chư
Phật, các vị Bồ tát, liệt vịThánh Tăng. Mười phươngTam thế chư Phậthoan hỷmỉm cười và ngay lần tác phápYết ma lần thứ ba kết thúc thì giới thểvô biểuthành tựu trên toàn thângiới tử. Từ đây, vị đó được gọi là tỷ kheonhư phápthành tựu, được dự vào hàng ngũ Tăng Bảo cùng Tăng An cư, Bố tát và Tự tứ, và
cùng chung lo tất cả mọi Phật sự của Tăng đoàn.
(Nguồn: Tập san nghiên cứuPhật học)