Luật Tạng Và Pháp Nạn


LUẬT TẠNG VÀ PHÁP NẠN
An Huy

Luật
tạng
: 律藏, tiếng Phạn: vinaya-pitaka, bộ thứ hai trong Tam Tạng,
nhưng chính thức ra đời vào lần Kết tập thứ 2. Vào thời đó do có một số tăng sĩ
lạm dụng việc cúng dường, một đệ tử của A-nan tên là Da-xá phản đối tệ nạn này
nhưng bị giới tăng lữ đó trục xuất khỏi tăng đoàn. Da-xá vận động 700 tỳ kheo
khác tổ chức đại hội kết tập lần 2 (100 năm sau lần 1) để nhắc lại giáo
luật Phật đã chế giới cho tăng sĩ: Bộ Luật tạng từ đó chính thức ra đời. Dù vậy
Luật tạng vẫn là lời dạy của Đức Phật được truyền miệng đến khi Kết tập, trong
đó có nêu rõ lý do Phật đề ra một luật và cách xử trí kẻ phạm giới. Truyền
thuyết
kể vào lần kết tập thứ 1, A-nan thuật lại Kinh tạng còn Ưu-bà-li thuật
lại Luật tạng, nhưng Luật tạng chỉ truyền miệng chứ không ghi chép lại. 

Luật tạng hiện
nay có ba truyền bản: 1.- Tứ Phần Luật (Dharmagupta Vinaya; gồm
250 giới cho tỳ-kheo và 348 giới cho tỳ-kheo ni) áp dụng ở các nước như Trung
Quốc
, Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản; 2.- Bộ Vinaya Pitaka (gồm
227 giới cho tỳ-kheo và 311 giới cho tỳ-kheo ni) áp dụng ở các nước theo Tiểu Thừa
như Myanmar, Thái Lan, Lào, Cam-bốt và Srilanka; 3.- Cuối cùng là bộ Mūlasarvāstivāda
Vinaya
(gồm 253 giới cho tỳ-kheo và 364 giới cho tỳ-kheo ni) áp dụng
các nước vùng Hi Mã Lạp SơnMông Cổ. Tuy có chút ít khác biệt tùy theotông
phái
do sáp nhập hay tách ra một số giới tùy theo truyền bản, nhưng xoay quanh
các điều chép trong Tứ phần luật dành cho tăng và Ngũ thiênthất tụ dành cho ni
(ràng buộc nhiều hơn Tứ phần luật). Cả hai tựu trung chia làm 8 nhóm: 

a.- Nhóm Ba-la-đi: giới
về các trọng tội như giết người, trộm cắpvọng ngữ; hình phạt trục
xuất khỏi tăng đoàn
b.- Nhóm Tăng-tàn: 13 tội
như vu cáo, gây bất bình, tà dâm; … 
c.- Nhóm bất định: giới
về sự không định được ba-la-di hay tăng tàn
d.- Nhóm xả đọa: gồm 30
giới quy định về chuẩn mực các đồ dùng của tăng-ni không được quá mứccần
dùng
sang trọng
e.- Nhóm giới đọa: gồm 90
giới cho tỳ-kheo và 178 giới cho tỳ-kheo-ni, qui định các sinh hoạt ăn nói,
quan hệ trong tăng đoàncư xử với các bạch y
f.- Nhóm hối quá: qui
định về việc ăn uốngkhất thực không được quá lạm và đòi hỏi ăn ngon;

g.- Nhóm chúng học: gồm
các điều tăng ni phải trau giồi khi tu hành
h.- Nhóm diệt
tránh
: các tội do tranh cãi trong tăng giới và cách loại trừ điều này. 

Không như những
tôn giáo khác: giáo luật do Đấng Tối Caoở trên trờiđề ratín đồ theo đó mà
thực hành. Các giáo luật trong Luật tạng do một nhân duyên (hay duyên khởi)
trong đời sống tăng đoàn đời Đức Phật còn tại thế sinh ra, theo đó Đức Phậtđề
ra
giáo luật để tu chỉnh. Trước khi ấn địnhLuật lệ, Đức Phật luôn quở trách kẻ
phạm tội bằng một câu rất thường thấy trong Tứ Phần Luận: “Việc làm của
các ngươi là sai quấy, chẳng phải oai nghi, chẳng phải pháp sa-môn, chẳng phải tịnh
hạnh
, chẳng phải hạnh tùy thuận, làm việc không nên làm. Sao lại …
[Tội
phạm
phải]” và nói giới. Hơn nữa, một số luật do Phật chế giới rồi sau sửa lại
cho phù hợpcơ duyên hơn; những trường hợp này kinh thường ghi bắt đầu bằng
câu: “Từ nay về sau, cho phép …” Do vậy, Luật tạng phân tích rất
chi li và khoa học các tình trạngphạm tội cũng như các phạm trù dùng trong
định tội, đề ra các hình thức thọ phạt tương xứng, trong đó trục xuất khỏi tăng
đoàn
là hình phạt nặng nhất. Ví dụ: Phật định nghĩa trộm cắp là tự tay di
chuyển
đồ vật ra khỏi vị trí của nó với tâm cảnh: “lấy vật với ý tưởng
không phải của mình, lấy vật với ý chẳng phải tạm dùng, lấy vật không được đồng
tâm ý
”; cả trong trường hợp không tự tay lấy nhưng “giám sát sự
lấy, khiến người lấy
” cũng phạm luật ba-la-đi và “không đóng thuế,
lấy vật ký thác của người
” cũng là trộm cắp. Trong khi định tội trộm
cắp
có những phạm trù rất bình thường như từ “vị trí” cũng được Phật
qui định rõ: vị trí trong lòng đất, vị trí trên đất, vị trí trên xe cộ,
vị trí trong gánh, vị trí trong hư không, vị trí trên cây, vị trí thôn xóm, vị
trí
a-lan-nhã, vị trí ruộng, vị trí xứ sở, vị trí ghe thuyền, vị trí nước.

[Tứ phần luật] Và điều Đức Phật luôn lưu ýtâm có phạm tội hay
không, chứ không căn cứ vào hành động phạm tội
’. Chẳng hạn với tội “bất
tịnh
” (hành vitính dục), Phật thường hỏi: “Ngươi có thọ lạc hay
không?
” (có cảm giácvui sướng chăng?), nếu có là phạm còn không tức
không phạm. 

Tuy nghiêm khắc
nhưng Luật tạng không phải thiếu dung nạp, các phần “Phạm tướng
trong kinh đều có qui định: “Người không phạm: người phạm đầu tiên khi
chưa chế giới; người si cuồng loạn tâm, thống não bức bách.” hay “Không biết
thì không phạm
.” Và với lỗi có thể dung thứ thì cho làm phép xả đọa.
Phép xả đọa như sau: Người phạm tội trệch vai phải, cỡi bỏ dép, quì gối phải, hướng về vị thượng tọa nói: “Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tôi, tỳ-kheo tên
là…, đã …
[Phạm tội gì đó], nay xả cho Tăng.” Rồi
nói lời sám hối xin tác bạch. Vị thượng tọachấp nhận lời sám hối sẽ nói “Hãy
tự trách tâm ngươi
!” Người phạm tội thưa: “Xin vâng!”.
Tội đã xóa bỏ (lấy tâm làm chủ đạo). 

Điều đặc biệt:
khái niệm “đọa địa ngục” không thấy trong Luật tạng, các phạt vạ
đều là hình thái dân gian mà nặng nhất là trục xuất khỏi tăng đoàn, trừ trường hợp
Đề-bà-đạt-đa phải “thọ tội trong nê-lê (tức địa ngục) một
kiếp không thể cứu chữa được
”.[Phẩm Phá Tăng]. Lúc sắp nhập diệt Phật
có dặn dò A-nan bỏ đi những giới nhỏ, nhưng A-nan quên hỏi đó là những giới gì.
Đến lần Kết tập thứ 1, các A-la-hán không phân định được giới nào là giới nhỏ
nên Đại Ca-diếp bảo các tỳ kheo: “Các Trưởng lão! Nay, trong chúng mỗi vị
nói một cách, không biết giới nào là giới nhỏ tiểu tiết. Từ nay về sau, nên
cùng nhau lập ước chế: ‘Nếu trước đây, những gì đức Phật không chế cấm thì nay
không nên chế cấm. Trước đây những gì đức Phật chế cấm thì nay không nên hủy
bỏ. Nên tùy thuận học tập những gì mà đức Phật đã quy định
.
Đại chúng
đều lập chế hạn như vậy. [Tứ Phần LuậtNgũ Bách Kết Tập

Cho nên, dù
hiện nay một số giới luật không còn phù hợp nhưng vẫn được tuân giữ; việc bỏ
bớt hay chế thêm giới luật mới là không như pháp. Khả dĩ lớn nhất có thể được là
Phật giáothế giới cùng nhau mở Đại Hội Kết Tập mới để xem xétsửa đổigiới
luật
. Một cá nhân nào dù là tăng thống toàn thế giới cũng không được làm điều này,
huống gì là Hoằng Tán.

Thế nhưng, một
số tăng sĩ kêu gọi chưa là tỳ-kheo cấm không được đọc Luật tạng (đại diện
Hoằng Tán 1611-1685). Lý luận của nhóm này viết trong lởi Phàm Lệ cuốn Tứ PhầnGiới
Bổn
Như Thích do Hoằng Tán chấp bút: “Ba đời chư Phật đều nói ba
tạng Thánh giáo Kinh-Luật-Luận. Hai tạng Kinh-Luận chung cả tại gia, xuất gia,
riêng tạng Luật chỉ dành cho Tỷ kheogìn giữ, như tạng bí mật của vua, hàng
ngoại quan không được biết đến. Nếu Sa di, bạch y mà xem trước, thì vĩnh viễn
không được thọ đại giới, mắc tội ngang với tội ngũ nghịch. Phàm là người làm
thầy phải hết sứccẩn thận
” (Tam thế chư Phật câu thuyết
Kinh-Luật-Luận tam tạngThánh giáo. Kinh luậnnhị tạng hàm thông tại gia, xuất
gia
, duy Luật nhất tạngTỷ kheo độc trì, như vương bí tạng phi ngoại quan sở
tư. Nhược Sa di, bạch y tiên lâm giả, vĩnh bất thọ đại giới, tội dữ ngũ nghịch
đồng liệt. Vị sư giả tối nghi cẩn thận
). Đây là lời ngoa truyền của luật sư
này dựa trên một đoạn về “tội nghe trộm” trong Tứ Phần Luật, và đi
xa đến mức dọa nạt quy kết tội ngang với “ngũ nghịch!?”. Thực ra
trước đó luật sưChâu Hoằng (1532-1612) chỉ có truyền đạt lại tội danh trong
cuốn Luật Sa-di: “Bất đắc đạo thính Đại Sa mônthuyết giới
(không được nghe trộm sa môn giảng giới luật) trong lễ Bố tát (truyền
giới
hay Yết-ma cử tội) chứ không cấm đọc Luật tạng. Nhân
duyên
cấm này có ghi rõ trong Tứ Phần LuậtNgũ Phần Luật
, nội dung
đại khái như sau: Lúc Phật còn tại thế, một hôm chư Tăngbố tát, có một người
bạch ytham dự. Khi đó, một Tỷ kheophạm tội, người bạch y này bèn hạch tội Tỷ
kheo
. Các Tỷ kheo thấy thế liền bạch với Phật, Phật dạy: “Từ nay trở
đi không nên cho bạch ySa ditham dựbố tát
” (Do đó là việc
nội bộ thuộc tăng đoàn xử lý, chỉ có vậy). Nhưng Phật không hề quy tộiNgũ
nghịch
, mà chỉ dạy khi làm lễ thầy yết-ma phải cất lời nói: “Người chưa
thọ giớiCụ túc đã ra chưa?
” Khi chúng tăngxác nhận không còn ai như
thế mới hành lễ

Sau khi ngoa
truyền
đầy tính răn đe, Hoằng Tánbiện bạch: 1.- Nếu Sa di xem trước giới luậtTỷ kheo rồi thấy giới pháp quá nhiều, khó khăn, sẽ sanh tâm thối thất, không
dám thọ giớiCụ túc; 2.- Nếu Sa di biết giới luậtTỷ kheo, khi họ thấy các Tỷ
kheo
thọ giới rồi mà không giữ gìn nghiêm túc, hủy phạm cấm giới, họ sẽ sanh
tâm kiêu mạn, khinh rẻ các Tỷ kheo, do đó sẽ tổn phước, mất lợi ích; 3.- Khi đã
biết trướcgiới pháp thì lúc thọ giới thấy giới không còn thiêng liêng, tâm chí
thành sẽ sút giảm nên khó đắc giới thể. 

Gần đây, thượng
tọa
Thích Phước San phê phán biện bạch này như sau: Quả thật lối lập luận trên
có nhiều chỗ đi xa tinh thầngiới phápgiới luật. Ai cũng biết ngài Qui Sơn (771-833)
định nghĩa người xuất gia:Phàm là người xuất gia là mong cất bước
đến chân trời cao rộng, hình dángtâm hồn khác với thế tục. Vì mục đích làm
rạng rỡ dòng thánh, trấn áp quân ma, báo đáp bốn ân và cứu vớt ba cõi
“.

Và các bậc cổ đức cũng đã nói: “Thế thượng phi trượng phu đại giải
thoát
hán, hà năng kham thủ?
” (Trên đời này, nếu chẳng phải là
bậc trượng phu đại giải thoát, thì làm sao đảm đương nổi “sứ mệnh xuất trần”?
).
Và trìch một đoạn khác trong Luật Sa dichứng minhLuật sưChâu Hoàng khuyến
khích: “Tuy Tỷ kheo sự, Sa di đương dự tri chi” (Tuy là
việc của Tỷ kheo, nhưng Sa di cũng nên tham dự để biết). Rồi đi đến kết luận: Còn
vấn đề này nữa, tạng Luật phải chăngbí tạng dành riêng cho các thầy Tỷ
kheo
, các chúng khác không có quyền biết đến? Khẳng định như vậy thật là
căn cứ
, không có cơ sở và trái hẳn thực tế
. Vì trong các giới điều dành cho
Phật tử cũng như Sa di, không có một giới nào ngăn cấm họ tìm hiểugiới bổn của
Tỷ kheo hết. [Trích “Phật Học Cơ Bản – Tập 3“,
Nguyệt san Giác Ngộ, 2000] 

Thật sự chưa hề
thấy kinh điển nào nói những điều Phật dạy chỉ cho tăng sĩ và không cho chúng
sinh
biết (đây là tinh thần “như như bình đẳng” của Đức Phật), kể cả Luật tạng.
Đời Đường, thánh tăngHuyền Trang thỉnh được bộ Tam Tạng cũng dịch và in đủ để
giáo pháp, không hề ghi lời cấm cư sĩ, sa-di đọc Luật tạng.
Thêm nữa, khi chế
giới
Đức Phật luôn do lời cơ hiềm (phiền trách) của giới bạch y, câu quen thuộc
trong Luật tạng như sau: “Các tỳ-kheo (hay tỳ-kheo-ni) này không biết tàm
quý
. Bên ngoài tự xưng tôi tu chánh pháp. Như vậy có gì là chánh pháp? Tại sao
… [Lỗi gì đó]” hay “Sa-môn Thích tử không biết hổ thẹn, không có nhàm
chán
, biết đủ, mà tự nói tôi biết chánh pháp. Nhưng có chánh pháp nào như vậy ,
… [Lỗi gì đó]”
. Như thế Phật cũng chẳng hề cấm các cư sĩ phê
phán tăng giới
.
Nhưng từ Hoằng Tán ngoài việc cấm không cho ngoài giới
Tỳ-kheo biết Luật tạng còn răn đe phê phán tăng-ni là hủy báng tăng, dù bất cứ
trường hợp nào cũng bị đọa Địa ngục

Lề thói này chỉ
có từ thế kỷ 17 và kể từ đó Phật giáo Trung Hoa suy đồi do tăng ni không còn gì
e sợ cả và gần như được “bất khả xâm phạm” nếu được tăng chúng
trong chùa đồng tình (trào lưu này ảnh hưởng qua 3 nước Hàn Quốc; Nhật Bản
Việt Nam. Các nước Phật giáo khác không cấm). nh hình gần như quay ngược về
trạng tháigiai cấptăng lữ kiểu Bà-la-môn giáo, và Hoằng Táncông khai sánh
tăng-ni như vua mà cư sĩ là “hàng ngoại quan không được biết đến”.
Đây
là một trong những thứ khi còn tại thế Phật luôn luôn trách bỏ. Hệ quả gây ra
mấy lần Pháp nạn
(dĩ nhiên còn kèm theo nhiều yếu tố chính trị xã hội khác): thời
nhà Thanh do một số võ tăng nổi lên chống quân Thanh và cận đạiphong trào
Tân Thanh Niên của Trần Độc Tú (tham gia việc cai trị là điều Phật cấm trong
Luật tạng, do bạch y không biết luật để kiềm tỏa nên mới có họa này). Mãi sau
này Phật giáo Trung Hoa mới chấn chỉnh lại (nhờ công của cư sĩ Dương Nhân
Sơn
). 

Đáng tiếc nhiều
nơi ở Việt Nam vẫn rao truyền “luật cấm” của Hoằng Tán kèm theo
là lời răn đe khi ai nói đến, thậm chí còn dọa nói đến sẽ bị đọa xuống ngục
A-tỳ [nhận xét vào thời điểm 2009]. Nếu tăng-ni phạm giới luật cũng không
được phép nói tới, trái lời sẽ bị “đọa xuống địa ngục
”. Màu sắc huyền bí hoang
tưởng này là mầm mống gây sự tha hóa trong tăng giới, đạo pháp bị thế nhân bị xa
lánh và dèm biếm.
Thêm nữa, nhiều tăng ni luôn tự coi mình cao trọng hơn người ngoài
giới, dần sa đà trong danh sắc. Với tâm cảnh đó khó lòng họ giảng đạo cho chúng
sinh
đúng như chánh pháp, vì xưa kia Phật giảng pháp cho Bát bộ chúng luôn với
tâm như nhưbình đẳng. Có tâm như nhưbình đẳng mới phát sinh lòng từ mẫn và nhờ
đó hàng phục được yêu ma; còn tâm kiêu mạn sẽ dần làm mình đắm trong lợi dục và
khởi sinh sự chống phá đạo pháp của ngoại đạo

Cụ thể là cuối
thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 xu hướng này khiến nhiều danh nhochê tráchPhật
giáo
. Cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu trong Dương Từ Hà Mậu đã phê phán việc mê hoặcnhân tâm của các tăng ni xấu, cụ viết: 

Đua nhau
kỉnh chuộng đạo tà,

Một câu
“quả báo”, muôn nhà đều tin.

Nói rằng: Trời,
Phật, sách in,

Tội về địa
ngục
, phước lên thiên-đàng.

(câu 3-6)

Và tỏ thái độ
khinh miệt tăng sĩ: 

Hòa thượng
cũng người học nhu (nho),

Tên là Trần kỷ,
Phù đồ sa.

Lắm phen ứng
cử, đăng khoa,

Thi văn chẳng
đỗ, lòn ra cửa thiền.

(câu 185-188)

Nghe qua tuy có
phần cực đoan, nhưng phải đâu cụ là người thiếu đạo đức! Cụ từng ngụ tại chùa
Tôn Thạnh, Cần Giuộc, khi viết bài Văn tếNghĩa Sĩ Cần Giuộc, lý đâu chê bai Phật
pháp
. Có chăng cụ cười chê kẻ giả danhtu hành

Mãi đến giữa
thế kỷ 20 nhiều phong tràochấn hưngPhật giáoViệt Nam ra đời mới khôi phục
phần nào uy tínđạo pháp. Trong Việt Nam Phật giáo Sử luận, giáo sư Nguyễn Lang
cũng thừa nhậntình trạng suy thoái Phật giáo Việt Nam dù rằng nguyên nhân đưa
ra có khác (thiên về quan điểm chính trị): “Vào khoảng 1920, tuy tình trạngPhật giáo ở đất Việt không có gì sáng sủa, nhưng rải rác trong xứ vẫn còn những
vị cao tăngduy trì mệnh mạch của Phật pháp
.” 

Và cả như pháp
nạn ở Trung Hoa từng xảy ra, nhưng có lẽ ở mức độ thấp hơn, giáo sư trích dẫn:
Theo Hành Sơn, tác giảCụ Trần Cao Vân thì hồi đó ‘trong hai tỉnh Bình Định
và Phú Yên, khám đường nào cũng có mặt các thầy chùa’. Cuộc khởi nghĩa của Võ
Trứ được gọi là ‘Giặc Thầy Chùa’ cũng vì lẽ ấy
.” [Chương 26 sđd. Chú thích thêm:
Sách Hành Sơn của cụ Trần Cao Vân xuất bản năm 1952, NXB Minh Tân,
Paris]. 

Thà rằng tạm
gác áo cà-sa như vua Trần Thái Tông để kháng chiến chống Nguyên-Mông hay làm lễ
để tóc xuất giới của một số tăng sĩ đi kháng chiến chống Pháp (sau khi phục
hưng
đạo pháp), còn hơn núp trong chùa, khoác áo sư sãi gây ra pháp nạn phá
tăng
mà Phật thường răn bảo “chớ nên làm”. 

Lịch sửPhật
sử
Việt Nam từng ghi chép lại hành động sáng đạo của một số tăng sĩ yêu nước:
thiền sư Mật Thể, thiền sư Thiện Chiếu, … và nhiều tăng sĩ vô danh khác tạm xuất
giới đi cứu nước. Nhưng trước đó là sai lầmlập HộiTăng Già Cứu Quốc do thiền
Mật Thể chủ xướng. Thiền sư Mật Thể là người có tâm đạo to lớn và lòng yêu
nước vô biên nhưng vì một quan niệm sai lệch, có nguồn gốc từ Hoằng Tán, không
phân biệt đạo-đời nên phong trào chẳng những không thành công mà còn làm nhuộm
máu tăng đồ dưới họng súng quân Pháp; đạo hạnh vì thế cũng bị đọa trì. 

Giáo sư Nguyễn
Lang cũng viết về Thiền sư Mật Thể vài dòng dưới đây: “Việc ra ứng cử quốc
hội của Mật Thể phản chiếu lòng yêu nước và sự ủng hộcách mạng của giới Phật
tử
trẻ tuổi. Tuy nhiên, hành động ấy cũng được nhận xétnhư không được chín
chắn
bởi một vài vị tôn túc trong Sơn Môn và một vài giới cư sĩ
.” Nhưng sau
đó thiền sư Mật Thể đã ngộ ra, “Trước khi về chiến khu, Thích Mật Thể đã gặp
một số anh em Phật tử đồng chí tại chùa Thể Chí ở Đại Lộc. Họ ăn một bữa cơm chaycuối cùngvới nhau tại chùa này và bàn tính về việc tương lai. Họ đàm luận về
chuyện chống Pháp, chuyện tương lai Phật giáo và cố nhiên về những động chạm
với khó khăn mà người Phật tử gặp phải trong hàng ngũ kháng chiến
.” [Chương
26; sđd]

Trong lịch sửViệt Nam cũng có những cao tăng nhiều lần giúp dân giúp nước như Khuông Việt,
Vạn Hạnh, .. Nhưng các vị này chỉ vai tròcố vấn với
cách
cá nhân
chứ không lôi kéo cả tăng giới vào cuộc. Các vị ấy giúp
vua với tâm vì khổ ải chúng sinh chứ không vì danh lợi và khi xong việc
lại quay về chốn thiền môn chứ không làm quan cai trị.
Đức Phật cũng
từng khuyên A-xà-thế đừng xâm lấn lân bang (nước Bạt-kỳ), lời khuyên này chỉ là
lấy đạo răn đời chứ không tham chính.

Do vậy, trong
chừng mực nào đó, luật cấm của Hoằng Tán và cả những lập luận cổ súy là sự hủy
báng Tam bảo.E rằng điều cấm này là hủy báng Tam bảo và gây họa về sau
cho tăng đoàn, vì đã là luật sư mà còn dám bóp méochế giới của Phật, ma mị
nhân tâm, làm mờ Phật pháp. Đây mới là tội sánh ngang Ngũ nghịch. Chiếu theo
Luật Tạng ‘Tỳ-kheo nào, che giấu thô tội của tỳ-kheo khác, ba-dật-đề’. Vậy nên,
tỳ kheo nào tán thành luật cấm trên phạm tội Ba-dật-đề, vì chấp thuận trước cho
tỳ kheo khác phạm tội
”.
Đây là ý kiến một tăng sĩ khi trà đàm trao đổi
về vấn đề này.

Mùa thu Kỷ
Sữu – 2009 

An Huy 08

MÀI
TÂM TÌM CHÂN SƯ

An Huy

 

 

Mài
Tâm Tìm Chân Sư,

An Huy

Đêm dần buông, mọi
việc
trong ngày đã xong, thấy tâm hồn mình thư thả. Pha ấm trà mộc ngồi trên
mái bằng, xa khuất cảnh ồn ào nơi độ hội. Xung quanh vài chậu kiểng xanh mát,
mát cả tâm hồn. Lòng chợt nổi lên chút hứng khởi muốn cùng ai trò chuyện, nhưng
giờ này biết nói chuyện cùng ai. Thôi đành mạn đàm với chính mình bằng chiếc
máy vi tính vậy. 

Dòng trầm tư
lần về tìm đọc cuốn “The Book of Tea” của Okakura Kakuzo đang để trên kệ
sách trong buồng. Sách có đoạn viết: “The Sung allegory of the Three Vinegar
Tasters explains admirably the trend of the three doctrines. Sakyamuni,
Confucius, and Laotse once stood before a jar of vinegar – the emblem of life –
and each dipped in his finger to taste the brew. The matter-of-fact Confucius
found it sour, the Buddha called it bitter, and Laotse pronounced it sweet
.”
(Tạm dịch: Câu chuyện ngụ ngôn đời Tống về ba người nếm giấm giải thíchtuyệt
diệu
xu hướng của ba học thuyết. Thích-ca Mâu-ni, Khổng TửLão Tử cùng đứng
trước một hũ giấm – biểu tượng của cuộc đời – và từng người nhúng ngón tay vào
đó để nếm. Thực tế thấy Khổng Tử thấy chua, Phật bảo là đắng, và Lão Tử thốt
lên ngọt) [Chapter III. Taoism and Zennism; tác phẩm này nguyên tác viết bằng
tiếng Anh chứ không phải tiếng Nhật]. Thì ra thế, muốn nói đến chân sư phải nói
chân sư của tín ngưỡng nào. Khổng gia nhìn cuộc đời bằng con mắt hữu vihiện thực
nên cảm nhận chua nói chua, và tìm cáchchấn chỉnh cho vị chua đó vào trật tựxã hội; Phật gia cho cuộc đời là bễ khổ như vị đắng của thuốc nên tốt hơn hết
nên tịch diệt mọi vướng bận phiền trược của cuộc đời; Lão gia cho rằng đời vốn
thế việc gì phải chấp nhặt nó, cứ nương theo nó mà sống thì thấy nó ngọt
lịm. 

Hình như ngụ
ngôn này chỉ mới nói được ý vị đạo, chưa nói giáo pháp của của ba tôn giáo này.
Tôi xin bổ dung vào một ẩn dụcủa riêng mình: Cuộc đời như dòng nước chảy xiết,
có ba người cùng ngập lặn giữa dòng nước đó. Người theo Khổng gia chống trả lại
dòng nước đó cố bắt nó tùng phục theo ý sống của nhân sinh. Người theo Lão
Trang thả mình trôi theo dòng nước và nương theo nó để tận hưởng sự mát lạnh.
Người theo Phật gia đem tâm quyết từ bỏ những nguy hiểm của dòng nước, muốn đi
trên bề mặt của dòng nước chứ không để nó thấm ướt gót chân mình.

Cho dù lý giải
thế nào, câu chuyện tản mạn cũng phải quay vềchủ đề mài tâm tìm chân sư. Rõ là
chân sư phải được hiểu theo ý nghĩa của chính tôn giáo vị chân sư đó theo. Không
thể lấy ý vị hay phương châmhành đạo của Khổng gia mà xem xét một đạo sĩ Lão
Trang có là chân tu hay không; tương tự, không thể lấy nhãn quan Khổng giáo hay
Lão giáođánh giáđạo hạnh của một bậc đạo sư bên Phật giáo được. Xem xét
các bộ kinhnguyên thủytrước Công Nguyên như 4 bộ A-hàm của Phật giáo Bắc
truyền (Đại thừa), 5 Bộ Tạng kinh của Phật giáo Nam truyền (Tiểu thừa) thấy ít
nhất
tính chất sau: 

Dục giới:
tức lòng ham muốnvật chất. Vị nào thích ăn ngon, mặc đẹp (như áo cà-sa phải
vải tốt), thích ở nơi có tiện nghisung túc, đều không phải chân tu. Xưa Phật
thường ca ngợi những tỳ-kheo thiểu dụcchế giới của ngài luôn quy địnhvật
dụng
, y bát đều làm bằng vật liệu thô thường (không được làm bằng vật liệu quý
hiếm), chế giới phải làm màu vải xấu đi (hoại sắc y), chế giới việc ăn uống
không cầu mỹ vị và yêu sáchcúng dường, … Ngài khuyên thiểu dục (đáp ứng nhu
cầu cơ bản để bảo đảm cuộc sống, Đề-bà-đạt-đa vọng ngôn chế ra 5 điều tu ép xác
và ngoa là Phật dạy) 

Sắc giới:
tức lòng ham muốndanh tiếngđịa vị. Vị nào háo danh hiếu thắng đều không phải
chân tu. Chẳng hạn kinh điển chưa hiểu bao nhiêu vội đi thuyết giảng (như
rắc cát vào mắt chúng sinh làm chúng sinhmù lòa không thấy chánh pháp
) là
háo danh, cứ tưởng mình mặc được mặc chiếc áo vàng là cao trọng hơn người khác,
gặp ai cũng cho là tội lỗi còn mình thì thanh khiết. Đua đòi làm chùa chiềng to
rộng một cách quá nhu cầu, tổn hại sức bá tánh, nhằm tự hào mình “hoằng
dương đạo pháp
” cũng là háo danh ham địa vị. Trong Luật tạng Phật nhiều
lần chê trách việc này. 

Vô sắc
giới
: là lòng tham cầu hư danh, hay còn gọi là vọng tưởng. Không phải
đến thời nay mới có, từ thời Đức Phật đã có nhiều tỳ-kheo tuyên xưng mình đắc
pháp
dù chưa đắc pháp và Phật đã chế giới cử tội. Những người này không là chân
tu
. Dùng Niết bàn hay địa ngục để làm hoang mang chúng sinh cũng lọt vào vô sắc
giới
, mượn Phật để mê hoặcchúng sinh vào con đườngmê tín cũng là vô sắc giới,
Luật tạng có ghi lại nhiều chuyện giống như vậy đã bị Phật chê trách

Không ưa
thanh tịnh
: tức thích đua đòi nơi ồn ào náo nhiệt. Khi xưa Phật thường
khen ngợi những tỳ-kjeo biết tìm nơi vắng lặng (kinh sách gọi là A-lan-nh ã) để
thiền quán suy tư những giáo pháp của ngài. Người thích lễ lạc huyên náo, ưa
quy tụ đông người để gọi là “hoằng dương Phật pháp” mà chẳng lo
tu tập suy nghiệm đều chẳng thể là châu tu. Ý của tôi ở đây muốn nói “ưa” có
nghĩa là luôn tìm cách và chủ tâm đầy bản ngãvận động làm việc ấy, chứ hoằng
dương đạo pháp một cách chừng mực và thực sự hữu ích là điều rất hoan nghinh.
Hình như chùa chiền bây giờ khó tìm được sự thanh tịnhvô vi

Dĩ nhiên
người sẽ phản bác: trong tám nạn (Bát nạn 八難) trên đường tu tập
nạn: Sống nơi biên địa (nơi xa xôi không gần thầy gần bạn tu học). Nên hiểu các
bậc chân tu tìm nơi thanh vắng không phải là nơi hẻo lánh không
người. Nơi thanh vắng đó có thể một tịnh xáthanh u ngay giữa thành phố lớn.
Nơi đây không có những hoạt độngphàm tục xô bồ và ầm ỉ. Truy xa hơn thì điều
này nói trong kinh Bát nạn của Tăng Nhất A-hàm: “Lại nữa, khi Như Laixuất hiện ở đời giảng rộng giáo pháp, nhưng chúng sanh này sanh ở biên địa, phỉ
báng
Hiền Thánh, tạo các tà nghiệp. Đó gọi là nạn thứ năm
” như vậy càng
không có nghĩa nơi xa xôi hẻo lánh không có chân tu; biên địa đó nên hiểu là
không được gần Phật hay người chân tu

Tâm không
tập tự tại
: tức tâm hay lệ thuộccầu xin. Khi xưa việc khất thực
Phật răn dạy điều này rất nhiều. Ngày nay nhiều chùa chiềng ưa thích dạy Phật
tử
cầu giàu cầu sang như kiểu Phật là một thần linh ưa ban phúc hay giáng họa.
Đây là điều hủy bang trí huệ bát-nhã ghê tỡm nhất. Những tăng ni thích những
huyễn hoặc như vậy không thể là chân tu vì điều Phật răn không nên làm. Việc
thị hiệnthần thôngxưa kia là điều Phật dạy không nên trừ khi cần giáo hóa một
căn cơ nào đó. Nay biến Phật thành đấng luôn phải thị hiệnthần thông rõ là
điều sai trái

Và nhiều điều
khác nữa dung để nhận biết

Rõ là một vị
chân tuPhật giáo thật khó tìm. Khổ nỗi chân sư không thể là người không phải
chân tu. Những bậc chân tu không chuộng 5 điều nói trên ắt khó hiển
hiện
cho chúng ta thấy vì sự xao động trong cuộc sống này luôn cuốn hút chúng
ta
vào những nơi các bậc chân tu không ưa lui tới
. Cho nên, một người
muốn tầm chân sưtrước tiên phải mài tâm xa lánh dục vọng cõi đời, tìm đến
những nơi có các ngài mới hy vọng gặp được. Ý nghĩa sự mài tâm đó là một sự
thiết tha tột cùng, tâm hướng về Phật đạo không đổi mới có thể làm được. Nói
ngược lại những vị tìm đến chúng ta nơi phồn hoa đô hội thì khó là một chân tu,
trừ khi duyên phước từ kiếp nào mới có một vị chân sư chịu đi vào cảnh ngài
không thích để cho chúng ta hội ngộ.

Nhưng nhìn
chung một vị chân sư đều toát lên một vẽ rất khác thường nhân. Nhưng vẻ đó
không phải ai cũng có thể nhận ra. Phải có tâm hướng về đạo pháp của vị chân tu
đó mới nhận ra vị ấy là chân tu. Nói theo lối dung tục chỉ hai tâm hồn đồng cảm
với nhau mới tìm đến nhau và yêu thương nhau, sau đó thành đôi lứa. Trong chừng
mực
nào việc nhận ra một vị chân cũng tu cũng vậy. Chúng ta có công mài tâm
trên lãnh vựcđạo học sẽ có lúc đạt đến khả năng nhận biếtchân sư, cao hơn chỉ
cần đọc một bài viết có thể nhận ra vị đó có là chân tu hay không chứ chẳng cần
gặp mặt.

Có hai ví dụ
thuyết giải điều này: 

1.- Sau khi
thành đạo, Đức Phật đến Lộc uyển để thuyết pháp cho 5 anh em Kiều Trần Như
trước kia cùng tu với Phật nhưng trách Phật bỏ giới tu nhịn mà đi. Lúc ấy 5
người này khi thấy Phật đến mới bảo nhau không chào hỏi, nhưng khi Phật đến gần
thấy thần tháiđắc đạo của Ngài liền thi lễ. Tại sao vậy? Vì Phật và 5 anh em
này đã có thời gian cùng nhau đi một hướng tu đạo tuy có một số chỗ khác biệt.
Nhờ sự cảm thông đó mà 5 anh em Kiều Trần Như mới nhận ra sự giác ngộ hiện trên
thân Phật; 

2.- Ngược lại
Uất-tì-la ca-diếp là bậc đạo cao tu hạnh Bà-la-môn phái bện tóc có đến 500 đồ
đệ
. Phật muốn giúp ông ta giác ngộ để thoát khỏiluân hồi nên nhiều lần thị
hiện
thần thông để nhiếp phục. Lần nào Uất-tì-la ca-diếp cũng nghĩ “Sa-môn
Cù-đàm có đại oai đức, thần túctự tại, nên mới có thể [làm việc gì đó]. Sa-môn
Cù-đàm này, tuy đạt thần túctự tại, nhưng ông không bằng ta, người đã chứng
đắc
A-la-hán
.”. Rất nhiều lần như vậy mới nhiếp phục được, lúc đó Uất-tì-la
ca-diếp liền đến chỗ đệ tử, nói: “Các ngươi biết chăng? Nay thầy muốn theo
Sa-môn Cù-đàm để tu phạm hạnh. Nếu tâm các ngươi muốn thì tùy ý các ngươi.

Vì sao có thần lực như thế mà không nhận ra Như Lai? Vì tâm ngạo mạn che lấp
hướng tu dị biệt.

Do vậy một
người chí tâm theo Phật khó nhận ra một đạo sĩchân tu, và người thấm nhuần
Khổng Mạnh khó nhận ra một cao tăng. Trừ phi những người này đổi hướngtín
ngưỡng
của mình. Những việc này tôi gọi là mài tâm.

Nếu duyên đạo
chúng
ta bạc mỏng cả đời không tìm được chân sư thì thầy của chúng ta chính là
kinh sách và nhờ kinh sách dẫn ta đến ông thầy như Krishnamurti nói dưới đây.
Krishnamurti có câu chuyện sau: 

Ngày kia
có một người tìm thầy học Đạo.

“Gặp một
ông dạy đạo, ông này đưa gã ta xuống một hầm sâu và dặn : Ngươi cứ siêng sắng
ngồi tịnh nơi đây, đúng năm sau sẽ thấy mặt Thầy.

“Năm sau,
ông kia vào hỏi gã ta đã gặp mặt Thầy chưa.

“- Thưa,
đã gặp rồi.

“- Vậy
ngươi ngồi tịnh thêm một năm nữa rồi sẽ nghe Thầy nói.

“Quả đúng
năm sau, Thầy đến nói chuyện với gã thật.

“Ông kia
lại đến dặn gã : Ngươi cần tịnh thêm một năm nữa để nghe Thầy dạy đạo.

“Trong năm
ấy, gã ta được Thầy hiện đến truyền cho giáo lý.

“Rồi cuối
năm
thứ ba, ông kia lại đến nói với gã : Ngươi đã sống chung với Thầy, được
nghe Thầy dạy đạo. Bây giờ ngươi còn phải ngồi tịnh cho đến khi nào mất luôn
Thầy, lúc ấy ngươi sẽ chứng được chân lý

Trúc Thiên
bình
: Chân lý ấy là sự thật của nội tâm, không ai dạy ai được, nên không
ai là thầy của ai cả, mà tự mình phải là thầy của chính mình
. [trích
HIỆN TƯỢNG KRISHNAMURTI – Tác giả: Trúc Thiên – NXB An Tiêm – 1969]. Trúc Thiên
là người đầu tiên dịch bộ Thiền Luận của Daisetz Teitaro Suzuki , đang làm dỡ
dang thì mất nên Thích Tuệ Sĩ tiếp nối công việc. Khi tác giả viết dòng tường
thuật đó hẳn tác giả viết theo dòng suy tư thiền học. Và Krishnamurti, một người
Ấn, theo thiền học từ nhỏ từng học đạo với nhiều đạo sư, sau khi ngộ ra mới tầm
học bậc Vô Sư (tức là thầy trong nơi tâm mình). 

Khi Hội Thông
Thiên Học muốn tôn Krishnamurti lên ngôi vị Chưởng giáo toàn thế giới, ông
thẳng thắn từ chối với giáo phápvô ngã: “Tôi chỉ chú ý đến điều cốt yếu là
giải phóng con người, giải phóng khỏi tất cả chậu lồng, tất cả lo sợ, chứ
quyết không phải là lập giáo, mở phái, hoặc đưa ra một luận thuyếttriết học
mới.
Hẳn các ông lại hỏi nếu thế thì tôi đi du thuyết làm gì, tôi xin đáp:
Không phải để rủ người theo tôi, càng không phải để kết nạp một số môn đồ chọn
lọc thành một nhóm kỳ đặc. Vẫn hay đời ai cũng muốn khác hơn thường tình, dầu
chỉ khác một cách quá lố và tồi, và phi lý ; sự phi lý ấy, tôi không khích lệ.
Tôi không có sứ đồ.”
Và nói thêm: “Các ông mải tin rằng có đôi người
nào đó độc quyền nắm chìa khóa cửa Cực Lạc. Không ai nắm được đâu, mà cũng
chẳng ai có được cái quyền ấy. Chìa khóa ấy ở ngay trong người các ông. Các ông
cứ khai thông, cứ gạn lọc, cứ nhất quyết liêm chánh một lòng là sẽ thấy Cực Lạc
.”,
v.v.…[Sđd]

Thời đó người
ta hết sứcca ngợitư tưởng này. Nhưng thực ratư tưởng đó không có gì mới vì
tổ Bồ-đề Đạt-ma từng chỉ dạy. Có khác chăng mọi người lúc nào cũng ca ngợi tổ
nhưng chẳng mấy người tìm hiểusâu xa lời huấn giáo của Ngài cả. Trong Thiếu
Thất Lục Môn
Luận (Luận về sáu cửa vào động Thiếu Thất) ngài tuyên bố: “Chúng
sanh
điên đảo không biết tự tâm là Phật, cứ hướng ngoài cầu cạnh giữ gìn, suốt
ngày lăng xăngniệm Phậtlạy Phật. Phật tại nơi đâu? Đừng nên có những lối thấy
như vậy
.” Vì thế Bồ-đề-Đạt-ma cũng nói: “Nếu thấy tâm mình là
Phật thì không cần cắt tóc cạo râu, hàng áo trắng vẫn là Phật. Nếu không thấy
tánh, cắt tóc cạo râu, vẫn là ngoại đạo
.” [Huyết Mạch Luận] 

Ngược dòng Phật
sử
ta lại thấy câu nói nổi tiếng của Phật Tổ: “Bốn mươi chín năm thuyết
pháp
ta chẳng nói câu nào
Phải chăng Ngài chối bỏ những điều Ngài đã nói?!
Thưa không, Ngài nói với một ẩn ý sâu thẳm của trí huệ bát nhã. Tôi nhiều lần
đem câu này hỏi một số thượng tọahòa thượng, có người không giải đáp được
và có người nói là “Ngài thuyết vô tự chân kinh”. Tôi lại hỏi: “
tự chân kinh ấy tìm ở đâu?
Ngài đã dạy thì ắt phải có, chẳng lẽ
là lời hư dối
” Những vị tôi từng vấn nạn chưa ai trả lời được câu hỏi
cuối đó. Tiếc cho mấy mươi năm tu học chỉ sáo rỗng ngôn từ, trí huệ ấy thuyết
pháp
có gây mê lầm cho người khác chăng?! 

Thực ra đây là
một lối nghịch luận (tiếng Anh: paradox và tiếng Pháp: paradoxe; có người dịch
là ‘phản luận’ một phương pháplý luậntriết học độc đáo mà Lão Tử hay dùng)
nhằm phá tan vô minh của kẻ phàm phuthế tục vội tin mà không suy nghiệm. Lời
Phật từng cơ duyên nên đôi lúc sẽ thấy nghịch lý, biết suy nghiệm cơ duyên sẽ
thấy ý thâm diệu mà Ngài muốn dẫn đường cho chúng ta đi. Suy nghiệm đó là quán
chiếu
nơi tâm những lời vàng ngọc Ngài thốt ra, ông thầy trong tâm quán xét
duyên
của từng người mà răn dạy thật chi li và cụ thểđạo pháp. Lời ông thầy
trong tâm của mình chính là vô tự chân kinh. Ông thầy trong tâm đó là bậc chân
vô thượng được gọi là bậc Vô Sư

Quay trở về
trong lòng dân tộc chúng ta cũng thấy tư tưởng đó được Phật Hoàng Trần Nhân
Tông
thuyết trong bài “Cư Trần Lạc Đạo Phú”: 

Tịnh độ
lòng trong sạch chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương

Di Đà là tính
sáng soi mựa phải nhọc tìm về cực lạc

………………………………………………………….
Chỉn bụt là lòng
ướm hỏi đòi cơ Mã tổ

Vong tài đổi
sắc ắt tìm cho phải thói Bàng công

………………………………………………………….
Biết chân như,
tin bát nhã, chớ còn tìm phật tổ tây đông

Chứng thực
tướng
nên vô vi, nào nhọc hỏi kinh nam bắc

……………………………………………………………
Tích nhân nghì
tu đạo đức, ai hay này chẳng Thích Ca

Cầm giới hạnh
đoạn ghen tham, chỉn thực ấy là Di Lặc

……………………………………………………………
Chuộng công
danh
, lồng nhân ngã, thực ấy phàm phu

Say đạo đức,
dời thân tâm, định nên thánh trí 

…………………………………………..

Rõ là nhiều bậc giác
ngộ
thành Tổ, thành Phật đều nói như vậy. Há chúng ta dám không nghe sao? Vì
thế mới gọi là mài tâm tìm chân sư. Mài ở đây không phải là mài cho mỏng hay cho
nhọn, mà mài cho sáng như mài ngọc vậy.

Buồn nỗi thế
nhân thích nghe lời ngọt ngào của kẻ tu hành chưa giác ngộ (thậm chí là kẻ giả
danh
tu hành dùng đầu môi chót lưỡi ma mị) hơn là tìm chân lý dẫn đến giác ngộ của
chư Phật chư Tổ thời xưa ghi lại trong kinh sách. Đáng lo chăng cho đạo pháp?!
Còn hơn thế nữa có người sẳn sàng làm việc không nên làm nếu ai đó lấy lời Phật
và Tổ ra nói chạm đến kẻ giả danhtu hành hay tu hành chưa chín đã thuyết lời
sai giáo pháp. Phật sử có ghi tổ Bồ-đề Đạt-ma từng 5 lần bị đầu độc, ai là kẻ
làm chuyện đó. 

Tôi không phủ
nhận trên đời có một số bậc cao tăng trong đạo học, nhưng dù gì đi nữa những
bậc này vẫn tồn đọng chút ít cơ duyêncủa riêng mình. Cơ duyên đó có thể chẳng phù
hợp
với một ai đó trong chúng ta. Và những bậc chân tu đó sẽ rất thận trọng
trong lời giáo pháp vì e lời nói của mình gây ra một nghiệp chướng do không
đúng cơ duyên

Chẳng hạn
thuyết về nghiệp báo có lợi cho tâm sơ cơ về thiện ác của một ai đó, nhưng với
một tên cướp thì gã đó có quyền an ủilương tâm của mình: “Những người mình
cướp có thể là do kiếp trước họ đã vay của mình
”. Giảng “lục căn” cho
nhà quảng cáo họ sẽ vận dụng để khai thác sáu thức của chúng sinh mà mưu lợi.
Như thế chẳng phải lấy lời Phật đặt không đúng cơ duyên là giết chúng sinh hay
sao? Vì thế trong kinh Hoa Nghiêm có nói “Mọi thứ đều là thuốc, thuốc này
có thể cứu người cũng có thể giết người
”. Thuốc là pháp đấy. dùng đúng cứu
người dùng sai giết người. Chớ ngụy biện những người này có thể đọc kinh sách
lợi dụng. Đó là việc của họ, nhưng lời chúng ta nói với họ tức là xui họ
làm, chuyện hoàn toàn khác với việc họ tự làm. Lời lẽ của ma tăng thường hayngụy biện lắm, không ngụy biện sao thành ma tăng. 

Vì thế Phật
Hoàng Trần Nhân Tông cũng chẳng ngại ngùng

Buông lửa
giác ngộ đốt hoại thảy rừng tà thời trước

Cầm kiếm trí
tuệ
quét cho khôngtính thứcthuở nay
. [Sđd] 

Cái tôi (tức
bản ngã) của chúng ta dễ dàng lung lạc tâm thứcchúng tasuy nghĩ theo
hướng tự an ủi, tự thỏa mãn hay tự ngụy biện cho hành visai trái của mình. Do
vậy việc mài tâm không là việc dễ và càng chẳng phải là việc không nên làm.
Chẳng tăng ni nào mài tâm giúp ta được, và chẳng mài tâm chẳng bao giờ giác ngộ
trong đờithực hiệnhằng hà sa sốthiện nghiệp. Ai nói cứ cúng chùa, độ
tăng
, bố thí thì thành chánh quả, tôi bảo đó là ma pháp lừa bịp chúng sinh.
Bồ-đề Đạt-ma chẳng đã trả lờiLương Võ Đế rồi còn gì! Và vì long từ bi thương
chúng sinhmê lầm đã nói: “Niệm Phật thì được nhân tốt, Tụng kinh thì
được thông minh, Giữ giới thì được sanh lên cõi trời, Bố thí thì được phước
báu. Nhưng tìm Phật bằng những cách ấy quyết chẳng được vậy
.” {Thiếu Thầt
Lục Môn Luận – Huyết Mạch Luận] .

Hãy nhó những
việc làm trên rất tốt vì là công cụ để rèn tâm chứ không phải phương tiệnsoi
sáng
tâm Phật trong mỗi chúng ta. Và dù với công cụ hay phương tiện nào, điều
chúng ta cần là trí huệ bát-nhã, tức giác ngộ chứ không phải là sang giàu
kiếp sau hay quyền năngpháp thuật
. Ngày xưa khi đi đến một bến sông
Đức Phật và chư đồ đệ gặp một đạo sĩngoại đạo. Ngài hỏi đạo sĩ đó đã tu chứng
được gì. Đạo sĩ đó nói tu 40 năm thành tựu phép đi trên mặt nước không ướt bàn
chân. Phật quay sang bảo các đồ đệ: Với thần thông đó ta chỉ cần tốn vài xu
tiền đò chẳng phải mất 40 năm. Ẩn dụ này man mác trong nhiều sách và nhiều tăng
ni
đem ra thuyết pháp, nhưng sau đó cũng lại nói cúng Phật cúng chùa sẽ giàu
sang
, được phước báu sinh thiên, … Thế thì hiểu hay không hiểu lời Phật dạy,
lung lạc hay không lung lạc nhân tâm. 

một lần
trong lễ cầu siêu 100 ngày của người quen, nhà sưtụng kinh đó thuyết điều nói
trên, nhất là việc cúng chùa mau thành chánh quả. Tôi hỏi ngay: “Thành
chánh quả
thành Phậtphải chăng thầy. Vậy thành Phật để làm gì vậy?

Vị sư này không sao trả lời được. Dĩ nhiênmọi việc làm đều lấy một mục đích
làm hướng nhắm đến, vậy hướng nhắm đến sau khi thành Phật để làm gì. Để có thần
thông
ư ? Nhiều tôn giáohuyền học có dạy điều này và xem ra dễ đạt hơn. Để cứu
nhân độ thế
ư? Cứu độ bằng cách nào khi thành Phậtchúng ta sẽ ở Niết-bàn xa
xôi nào đó mà tôi cũng chẳng biết nơi đó là đâu và chẳng sư sãi nào chỉ rõ vị
trí
Niết bàn là chỗ nào với ý nghĩa trong trường hợp này. Để không bi khổ ải
chăng? Ham muốnthành Phật là nỗi khổ ải tột cùng và Phật chẳng bao giờ thành
cả vì vọng cầu là lọt vào vô sắc giới rời làm sao chứng ngộ. Làm những việc để
tâm
mình khổ sở vì tham cầu mà chẳng đạt được thì quả là mê tâm. Thế mà nhiều
tăng ni vẫn thuyết như thế và người đời không ít kẻ nghe theo. (Kẻ mê mặc sức
múa máy theo người, phút chốc đọa sanh tử. Đó là những người không thấy tánh
xưng càn là Phật. Hạng chúng sanh ấy phạm tội lớn, phỉnh gạt tất cả chúng sanh
đưa vào vòng ma giới
. – Huyết Mạch Luận)

Vài dòng mạn
đàm, mấy chén trà đã thấm vị. Thế là xong một buổi tối. Xin kỳ nhân dị sĩ,
thượng tọa, hòa thượng nào lui tới trên diễn đàn này giảng giúp công án: “Tu
thành Phật để làm gì?”
. Chúng sinh cứ đăm đăm vọng tưởngthành Phật
chẳng biết thành Phật để làm gì. Chẳng biết thành Phật để làm gì mà cứ bô bô
giảng thuyết“Phật là thế này, Phật là thế kia”. Hóa chẳng là lời ngoa
ngữ hư dối ư! Người tin theo ngoa ngữ hóa chẳng là “kẻ mua trâu vẽ bóng ư!”
Mong chờ lời giải ngộ

Mùa thu Kỷ
Sữu – 2009 

An Huy 08