LUẬT TÔNGPHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN
Thích Tâm Mãn
(CMT)
Ngày Đức Thế Tôn dạy: “ không bao lâu nữa Ta sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn” Ngài A Nan lòng buồn vô hạn, với những nỗi lo hết sứcchân tình, lo Phật
đi rồi lấy ai nương tựa, lo Phật không còn ai là người lèo lái con thuyền Phật Pháp, lo cho sự truyền thừa đạo mạch Phật Giáomai sau. Ngài
A Nan đem những nỗi lo này đến bạch Phật, Đức Điều Ngự dạy rằng: “ Này
A Nan, sau khi Ta diệt độtrong đờitượng Pháp phải vâng kính tôn trọngGiới Ba La Đề Mộc Xoa. Người
năng kính giữ tôn trọngBa La Đề Mộc Xoa là bậc Đại sĩ trong tứ chúng và cũng không khác gì như ta còn tại thế vậy.” vì vậy câu chân ngôn “Giới luật còn là Phật Pháp còn, Giới luật mất là Phật Pháp mất” luôn là
kim chỉ nam, là mạng mạch của Tăng GiàĐạo Phật.
Phật Giáo trong hơn 2500 năm truyền thừa
và phát triển, đi đến đâu, ở phương nào Tăng đoàn cũng tôn trọnggiữ gìn nghiêm trì giới luật, luôn chú trọng việc truyền giới và sách tấn sự
tu trìgiới pháp. Cho nên nghe nơi nào có khai Đàntruyền giới là biết nơi ấy Phật Pháphưng long, Tăng giànghiêm tịnh, vì lẽ đó trong lịch sửPhật GiáoGiới Đàn luôn là những dấu ấn lịch sử và người ta y cứ vào đó
để chứng minh cho sự phát triển của Phật Giáo trong thời đại đó ở địa phương ấy.
Phật Giáo ở Ấn Độ là Phật Giáo từ Hoàng Cung bước vào nhân thế, nhưng khi Phật Giáo được truyền qua Đông Độ thì ngược lại, từ nhân gian đi đến Hoàng Cung. Chính sự khác biệt này tạo thành một nếp văn hóa sống mới trong Phật Giáo, nếp sốngvăn hóaPhật Giáo Bắc Truyền trong tâm niệm “Nhập gia tùy tục”, “Tùy duyên bất biến” để hoằng Phápđộ sanh. Chính vì lẽ đó mà nếp sốngnguyên thủy của Phật Giáo chỉ còn là tính ước lệ nguồn gốc trong Phật Giáo Bắc Truyền, thay vào đó một nếp văn hóatu tập, hoằng Pháp và lối sống mới mang đậm sắc màu văn hóa Phương Đông.
Phật Giáo Bắc Truyền phát triển trong mạch sống văn hóa Phương Đông, đại diện là văn hóa Trung Hoa, hầu hết trên mọi lĩnh vực văn hóa, đời sống, lễ nghi, học thuật, nghệ thuật, kiến trúc, âm nhạcPhật Giáo Bắc Truyền .v.v… đâu đâu cũng thấy sự hiện diện đậm nét của văn hóa Trung Hoa, tính chấtthực tế, hợp tình hợp lý của văn hóa Trung Hoa hòa quyện vào tinh thần “Diệu dụng tùy duyên bất biến” của Phật Giáo như nước với sữa, làm cho người Phương Đông chấp nhậnvăn hóaPhật Giáo Bắc Truyền một cách dễ dàng và đôi lúc còn như quên mất nơi sản sinh ra nền văn hóa đó, lẫn lộn giữa cội nguồn Ấn Độ và
Trung Hoa.
Ngày nay Phật Giáo ở Phương Đông thuộc Phật Giáo Bắc Truyền phần đa ảnh hưởngvăn hóaPhật Giáo Trung Hoa hầu như tất cả các phương diện, sự khác biệt giữa văn hóaPhật Giáo các nước
thuộc Phật Giáo Bắc Truyền và văn hóaPhật Giáo Trung Hoa ở tính độc lậpvăn hóatruyền thống dân tộc, ngôn ngữ địa phương và các tập tục tín
ngưỡng dân gian được đưa vào trong Phật Giáo.
Lễ Nghi là bản sắc văn hóa, chuẩn mực đạo đức, lối sống thanh cao của người Đông Độ, trong quan niệm sống ảnh hưởngvăn hóaĐạo Nho “Nhân Lễ Nghĩa Trí Tín”, cuộc sống ở Đông Độ hình như không có một sinh hoạt nào của con người mà không gắn với lễ nghi hay nghi thức. Chính vì vậy mà khi Phật Giáo truyền vào Trung Quốc, không sinh hoạt nào trong Phật Giáo lại không được các vị Tôn Túc Tăng Phật Giáo Bắc Truyền đưa nghi lễ vào và soạn ra nghi thức, để phù hợp tính văn hóađạo đứctruyền thống Á Đông và là phương tiện để đưa Phật Giáo hòa quyện vào văn hóa các dân tộc, từ đây tạo dựng Phật Giáo Bắc Truyền để độ người Phương Đông.
Giới LuậtPhật Giáo nguồn gốc từ Ấn Độ và do chính từ kim khẩuĐức Phật thuyết, nhưng Luật Tông của Phật Giáo Bắc Truyền lại do chính các vị Tổ sư người Trung Quốcsáng lập cho nên việc có nhiều điểm không tương đồng với các luật lệPhật Giáo thời nguyên thủy cũng như nghi thứctruyền giới là điều tự nhiên vì địa vực khác nhau, con người và văn hóatư tưởng cũng không đồng. Để phù hợp với
điểm không đồng cũng như khác biệt trên, nên việc vay mượn văn hóaTrung Quốc để hoằng pháp là điều kiện tốt nhất để Phật Giáođi vào Phương đông. Xây Đàn để truyền giới trong Luật TôngPhật Giáo Bắc Truyền
là kết tinh của sự ảnh hưởngvăn hóatư tưởng lễ chế phong kiến Trung Hoa.
Đàn hay Đài theo sách Trung Quốc Kiến Trúc
ghi: “Đàn là là kiến trúc tế tự có lịch sử rất lâu đời trong văn hóa Trung Hoa, trong những di chỉ thời đồ đá mới người ta đã phát hiện dấu vết của tế đàn, đàn thường được đắp bằng đất có ba tầng, hình tròn hoặc vuông, và ngày nay tại Bắc Kinh còn các di tích của tế Đàn, gồm có Thiên
Đàn để tế trời, Địa Đàn, Nhật Đàn, Nguyệt Đàn, Xã Tắc Đàn, Tiên Nông Đàn.v.v…”
Thiên Đàn – Bắc kinh – Trung Quốc
Trong chế độ phong kiếnTrung Quốc các vị vua đều tự cho mình là thiên tử con trời thống trịthiên hạ, cho nên việc cúng tế trời đất là việc của vua vậy “ Vương giả Phụng sự Thiên” vì
vậy việc tế tự trời đất được các vương triều hết sức chú trọng, vì sao không tế trong đại điện mà tế trên đàn ở ngoài trời. Trong Lễ Ký-Tế Pháp chép:
“Khi đốt củi nướng đồ cúng tế làm hương khói bay lên trời gọi tế trời…Thiên thần ở trên trờinếu không đốt lửa cúng tế thì không đủ vậy…”
vì thế việc lập đàn tế thiên ngoài trời là việc tất yếu vậy.
Thiên Đàn
Đàn còn một ý nghĩa khác nữa đó là “Trúc
Đàn bái tướng, kiến tiết phong hầu” vào thời Xuân Thu Chiến Quốc các nước chư hầu đua nhau xưng bá, nước nào lên ngôi bá chủ tập hội chư hầu kiến đàn xưng vương, trong lễ phong vương có tế trời cho nên cũng đắp đàn, trong Yến Tử Xuân Thu có đoạn chép: “ Cảnh công đăng đàn, đàn cao quá lên không tới, buồn giận mà nói rằng, đắp đài cao quá, người bịnh lên không nổi” vậy theo quan niệmvăn hóa Trung Hoa, Đàn
là kiến trúc tế tự đồng thời là nơi để thực hành các nghi thức quan trọng của chế độ phong kiến như lên ngôi vua tế cáo trời đất, phong vương cho các nước chư hầu.
Đàn Tế Trời của Vua
Giới Đài của Luật TôngPhật Giáo Bắc Truyền được ra đời trong quan niệmvăn hóa của phương Đông đại diện là tư tưởngvăn hóa Trung Hoa. Truyền giới trong Phật Giáo Bắc Truyền ngoài
tính chất thiên liêng cần cầuGiới Pháptu hànhgiải thoát ra nó còn mang một tính chất khác đó là một lễ phong chức. Vì giới tử khi thọ giới
xong trở thànhTỳ Kheo hay Sa Di là đầy đủ pháp nhân trở thành thành viên trong Tăng đoànPhật Giáo, còn các vị Tôn Túc đăng đàn truyền Giới theo thông lệngày xưa đều được tấn phong giáo phẩm chức vị trong Phật giáo. Vì là một lễ tấn phong Giáo chức, mà ngày xưa khi đăng đàn truyền Giới thường là các vị Đại Tăng có địa vị trong Phật Giáo cũng như ngoài xã hội rất cao, như Quốc Sư hoặc là Tăng Cang nên lễ Tấn Phong của các vị này không thể làm sơ sài được.
Thứ nữa đôi lúc truyền giới cho chính nhà Vua cho nên việt kiến đàn là viêc làm cần thiết. Trong Tông Phụng Tạp Tập chép:
“Tùy Dưỡng Đế thỉnh Thiên Đài TôngTrí Khải Đăng Đài Truyền Bồ Tát Giới
cho nhà vua…” cho nên sử dụngthể chế phong vương của triều đình trong
Giới Đàn là việc tất nhiên trong Phật Giáo Bắc Truyền và vị vua đầu tiên cho xây Giới Đàn để truyền giới trong Phật Giáo Băc Truyền đó là Vua Lương Võ Đế. Theo NAM Sử chép: “ Năm Thứ 18 niên hiệu Thiên Giám (519) Vua Lương Võ Đế vì muốn hoằng truyền Giới Luật phổ cập đến chúng dân, nên phát nguện tự mình thọ giới… xây Giới Đài hình tròn… thỉnh Ngài
Huệ Ước đăng đàn truyền Bồ Tát Giới…”
Giới Đài – Chùa Đàm Chá – Bắc Kinh
Sách Thích Thị Yếu Lãm định nghĩa về Giới Đàn: “ Đàn được xây cao lên khỏi mặt đất, trường là mặt đất bằng được kết giới để truyền giới, thời nay gọi chung Đàn Trường
là có sự ngộ nhận vậy”. Giới luật là mạng mạch của Tăng Già là Pháp Luật của Phật Giáo, cho nên phàm chế ra điều gì có liên quan đếnGiới luật đều phải có nguồn gốc để y cứ. Như lập Giới Đàn để truyền giới.
Trong Thích Thị Yếu Lãm
chép: “tại Kỳ Viên ở Tây Thiên, Tỳ Kheo Lâu Chí thỉnh Phật lập Đàn, cho
Tăng thọ Tỳ Kheo Giới. Đức Như Lai dạy lập Đàn phía ngoài Viện Kỳ Viên hướng Đông Nam, đây là Giới Đàn đầu tiên của Phật Giáo có nguồn gốc từ Phật vậy.” Lịch sử kiến đàn truyền giới của Luật TôngTrung Quốc có từ thời Nhà Tấn cho đếnthời đại Tùy, Đường trong suốt 300 năm, theo sách Trung quốc Phật GiáoĐại Quang
chép: “Như ngài Pháp Thái đời Đông Tấn lập Giới Đàn tại chùa Ngõa Quan ở
Dương Đô, Ngài Chi Đạo Lâm lập Giới Đàn ở Thạch Thành và Ốc Châu, ngài Chi Pháp Tồn lập Giới Đàn ở Thiệu Hưng…..Ngài Tăng Hữu lập Giới Đàn ở Bốn Chùa Vân Cư, Thê Hà, Quy Thiện, Ái Kính.v.v… đến đời Đường đã có gần
300 giới Đàn, tất cả những Giới Đàn này được xây dựng như thế nào hình thức ra sao đến nay không thể khảo cứu được…”
Thời Đường niên hiệu Càn Phong năm thứ hai (667) Ngài Đạo TuyênLuật Sư lập Giới Đàn tại chùa Tịnh Nghiệp-Tây An mới bắt đầu định ra các phép tắc và hình dạng của Giới Đài. Theo Tứ Phần LuậtHành Sự Sao
của Ngài Đạo Tuyên quyển thượng có ghi: “Các Giới Đàn ở các nước ngoài đa số đều ở ngoài trời cũng như Đàn Tế Nam Giao ở nước ta vậy”. Căn cứ theoGiới Đàn Đồ Kinh của ngài Đạo TuyênLuật Sư, Giới Đài gồm có ba tầng, tầng thứ nhất mỗi tầng dài rộng 8m chiều cao1,2m, tầng thứ nhì dài rộng 7m cao 0,9m, tầng thứ ba dài rộng 6m cao 0,7m. Giới Đài tạo theo hình dáng của Tu Di tòa trên Giới Đài có tôn trí tượng
72 vị Hộ Giới Thần và Tứ Thiên Vương, trên tầng cao nhất nếu như Phương
Đẳng Giới Đài thì Phụng thờĐức Phật Lô Xá Na, nếu như Cam Lộ Giới Đàn thì Phụng thờ Đức Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đàn Nam Giao – Huế – Việt Nam
Phương Đẳng Giới Đàn theo Tăng Sử Lược
chép: “Pháp truyền GiớiThọ GiớiThanh Văn, nhất nhất đều phải theo luật nếu như người thọ giới các căn không cụ túc, không được thọ giới, nếu cố đăng đàn thọ giới thì cũng không đắc giới vậy. Nay có Pháp Phương
ĐẳngBồ Tát GiớiĐại Thừa, những người không cụ túc các căn nhưng phát tâmlãnh nạp thì đều được đắc Giới, cho nên gọi là quảng đạibình đẳng cùng khắp vậy. Nên xưng là Phương đẳng Giới Đàn”. Cam Lộ Giới Đàn theo Thích Thị Yếu Lãm
chép: “Cam lộ tức là dụ cho Niết Bàn vậy, vì Giới là cánh cửa đầu tiên đưa con ngườiđi vàoNiết Bàn, cho nên gọi Giới là Cam Lộ vậy”.
Đàn Tế Giao có ba tầng tượng trưng cho thuyết “Tam Tài” Thiên, Điạ, Nhân, ở đây người là mối liên kết giữa trời
và đất, cho nên việc cúng tế được thực hiện theo lễ chế thế gianmục đíchcầu nguyện sự oai linh của trời đất gia hộ cho đất nước phong điều vũ thuận quốc thái dân an. Giới Đàn cũng có ba tầng tượng trưng cho “Tam
Giới” Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc Giới, con người muốn thoát ra ba cõi vào cứu cánhNiết Bàn điều trước tiên phải phát tâm đăng Đàn thọ trìGiới Pháp.
Trong Sa DiLuật Nghi chép: “nhơn Giới sanh Định, nhơn Định phát Huệ, là những bước cơ bản để thành tựu Thánh Đạo”. Người thế gian đăng đàn cúng tế trời đất để cầu nguyệntha lựcbảo hộche chở, người xuất gia đăng đàn thọ Giới vì phát tâm muốn giải thoát sanh tửđạt đếncứu cánhNiết Bàn cho nên thọ giới rồi phải tự mình tự lực tấn tu. Vua khi lên ngôi đăng đàn tế Thiên Địa bố cáo với muôn dân, thế thì một vị Phật trong tương lai khi bắc đầu cuộc hành trình đi đến quả vị “Vô Thượng Bồ Đề” hay “Nhơn Thiên Chi Đạo Sư” có lý nào lại không lập Đàn thọ Giới .
Giới Đài trong Luật TôngPhật Giáo Bắc Truyền với ý nghĩa đầu tiên là tôn trọng kính ngưỡng đối với địa vịtôn quívô thượng Giới Pháp của Phật, thứ đến là tỏ niềm cung kính đối với các bật Bồ Tátsơ phát tâm bước vào sơ địa. Giới Đài là nơi phô diễn lý tướng, nghĩa sự của Đại ThừaThánh Giáođồng thời cũng chứng minh cho sự
phát triển của Phật Giáo Bắc Truyền, sự hòa nhập văn hóa của Phật Giáo trên tinh thầntiếp thu làm đẹp xây dựng bản sắc văn hóa riêng của Phật GiáoĐông Độ, với hình tượngtrang nghiêm, hùng tráng của Giới Đài làm cho Giới tử khi thọ giới khởi đại tín tâm đắc được Giới Thể. Giới Đài là
tướng đại hùng của Phật, là đại lực của Ba La Đề Mộc Xoa, là đại từ bi trong tinh thầnvô ngã của Đạo Phật.