Vua Thần Bà La La

VUA THẦN BÀ LA LA 
Toàn Không 

(Trung A Hàm, quyển 1, trang 443)

 

 Một thời Đức Phật ngự tại vườn Hoàng Lộ,
Bệ Lan Nhã, bấy giờ Vua Thần (Vua A Tu La) có tên là Bà La La và Thái Tử Thần
tên Mâu Lê Già có tướng sắc uy nghi, ánh sáng chói lọi, vào lúc quá nửa đêm đến
chỗ đức Phậtđảnh lễ rồi đứng một bên. Khi ấy, đức Phật hỏi:


Này Bà La La, có phải mọi Thần đều không bị suy thoái về tuổi thọ, hình sắc,
vui vẻ, sức mạnh, cho nên các Thần thích sống trong biển lớn chăng?

 Vua Thần trả lời:


Bạch Thế Tôn, các Thần chúng con ở trong biển lớn không có sự bất tiện nào về
tuổi thọ, hình sắc, vui vẻ, sức mạnh, cho nên chúng con thích sống trong biển
lớn.

 Đức Phật lại hỏi:

-Này Ba La La, trong biển lớn có những điều gì tốt đẹp đáng quý (vị tằng hữu),
khiến các Thần thích sống ở trong ấy?

 Vua Thần trả lời:


Trong biển lón của chúng con có 8 điều đặc biệt khiến chúng Thần thấy vậy nên
thích sống trong ấy, những gì là tám? Bạch Thế Tôn, đó là:

Thứ nhất: Biển lớn của con từ đáy lên trên, chu vi dần dần lớn
rộng ra, nghiêng nghiêng chênh chếch dần dần cho tới bờ biển. Lại nữa, nước
luôn luôn đầy, do sự đặc biệt này, nên chúng con thích ở trong ấy.

Thứ Hai: Thủy triều trong ấy chưa từng sai thời, khiến chúng
con thích ở trong ấy.

Thứ ba: Nước trong biển lớn của con rất sâu, rất rộng, nên
chúng Thần thích ở.

Thứ tư: Nước trong biển lớn của con đều có một vị mặn, do đó
chúng con thích ở trong ấy.

Thứ năm: Trong biển lớn của con có rất nhiều trân bảo,
lượng
thứ quý báu lạ chứa đầy trong ấy, gồm vàng bạc, thủy tinh, lưu ly, mani,
trân châu, bích ngọc, bạch kha, san hô, hổ phách, mã não, độc mao, xích thạch
v.v… Đó là lý do các Thần chúng con thích ở trong biển lớn.

Thứ sáu: Có nhiều vị Thần cư ngụ trong biển lớn của con. Đó là
Đại Thần Kiền Thấp Bà, La Sát, Ngư Ma Kiệt, Quy Đà, Bà Ưu Nê, Đế Nghê Gia Na
Đề
, Đế Nghê Gia La.

 Lại nữa, trong biển lớn của con rất kỳ lạ
đặc biệt là có những chúng sanhthân thể rất lớn sống ở trong nên chúng con
thích ở biển lớn.

Thứ bảy: Trong biển lớn của con rất trong sạch không dung chứa
tử thi, khi có người chết trong biển thì sóng gió đưa tử thi vào bờ. Khiến các
Thần chúng con thích ở trong đó.

Thứ tám: Trong biển lớn của con có 5 sông lớn chảy vào, đó là
sông Hằng Hà, sông Diêu Vưu Na, sông Xá Lao Phủ, sông A DiLa Bà Đề, và sông Ma
Xí biển lớn của con thâu nhận tất cả nước của 5 dòng sông chảy vào, khiến chúng
con thích sống trong biển lớn ấy.

 Sau khi trình bày tám đặc thù đặc biệt của
Biển lớn khiến các vị Thần thích ở trong ấy, Vua Thần hỏi đức Phật:


Bạch Thế Tôn, trong pháp luật của Ngài có những pháp gì đặc biệt khiến cho các
Tỳ Kheo thích ở trong đó?

 Đức Phậttrả lời:


Này Bà La La, trong chính pháp luật của Ta cũng có 8 pháp đặc biệt khiến các đệ
tử
thấy được liền hân hoan thích ở trong đó, đó là:

Thứ nhất: Cũng giống như biển lớn chênh chếch lên khiến chu vi
rộng lớn ra dần dần tới bờ và luôn luôn đầy nước. Trong chính pháp của Ta có sự
giáo
hóa dần dần, học dần, thực hành dần, đoạn trừ dần dần, ngày càng tiến bộ
hơn; đây là cái đặc điểm thứ nhất trong chánh pháp của Ta khiến các đệ tử thấy
rồi thích an trú ở trong đó tu hành.

Thứ hai: Cũng giống như thủy triều trong biển lớn chưa hề sai
thời, trong pháp luật của Ta có những cấm giới cho Tỳ Kheo (Tăng), Tỳ Kheo Ni
(Ni), Ưu Bà Tắc (Cư sĩ Nam), Ưu Bà Di (Cư sĩ Nữ). Dù cho đến khi qua đời, các
thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy vẫn giữ giới, đó là điểm đặc biệt thứ hai trong
chính pháp của Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích an trú ở trong ấy.

Thứ ba: Cũng giống như biển lớn rất sâu rộng, giáo pháp của
Ta rất sâu rộng, khó lường. Đó là pháp vịđặc biệt thứ ba khiến cho các đệ tử
thấy rồi rất thích an trú ở trong ấy tu hành.

Thứ tư: Cũng như biển lớn chỉ có một vị măn, chính pháp luật
của Ta chỉ có một vị giải thoát, nó vô dục, tịch tĩnh, đó là pháp vị thứ tư
trong chánh pháp của Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích thú ở trong ấy.

Thứ năm: Cũng như biển lớn có nhiều trân bảo, có vô lượng thứ
quý báu chứa trong ấy. Trong giáo pháp của Ta có Bốn Chính Cần, Bốn Như Ý Túc,
Năm Căn, Năm Lực, Bảy Giác Chi, Tứ Niệm Xứ, Bát Chính Đạo v.v… Đó là những
pháp vịđặc biệt thứ năm trong giáo pháp của Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích
an trú ở trong đó tu hành.

Thứ sáu: Cũng giống như trong biển lớn có các Đại Thần cư trú
và các chúng sanh lớn ở trong ấy, trong chính pháp luật của Ta có Thánh chúng
trú ở trong, đó là các bậc Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, và A La Hán. Đó là
pháp vịquý báu thứ sáu trong giáo pháp của Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích
an trú ở trong.

Thứ bảy: Cũng giống như biển lớn trong sạch không chứa tử thi,
trong chánh pháp luật của Ta, tất cả các đệ tử đều thực hànhphạm hạnh (khuôn
phép), các Thánh chúng đều thanh tịnh. Nếu có đệ tử nào không tinh tấn sinh ra
điều ác không phạm hạnh mà xưng là phạm hạnh, người ấy dù giống như người tu,
dù người ấy ở trong Thánh chúng, nhưng cách Thánh chúng rất xa. Đó là pháp vịđặc biệt quý giá thứ bảy khiến cho các đệ tử thấy rồi thích an trú ở trong đó.

Thứ tám: Cũng giống biển lớn dung chưa nước của năm dòng sông
lớn chảy vào, chính pháp luật của Ta tiếp nhậnthiện nam thiện nữ của năm giai
cấp
trong xã hội. Đó là dòng Sát đế lợi, dòng Phạm chíBà La Môn, dòng Dân giả,
dòng Thợ thuyền, dòng thấp kém nhất trong xã hội. Tất cả đều cạo bỏ râu tóc,
khoác áo Cà Sa, chí tín, rời bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất giahọc đạo,
bỏ tên cũ có tên là Sa Môn. Đó là pháp vịđặc biệt thứ tám trong chính pháp của
Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích an trú ở trong đó tu hành.

 Này Bà La La, ý ông nghĩ thế nào? Trong
chính pháp của Ta có 8 pháp vị như thế, trong biển lớn của Ông có 8 điều đặc
biệt
như thế, hai loại ấy, loại nào hơn, loại nào tối thắng, loại nào vi diệu,
tối thượng?

 Vua Thần thưa:


Bạch Thế Tôn, tám pháp vị trong biển lớn của con không thể so sánh với tám pháp
vị quý báu của Thế Tôn, không bằng một phần nghìn, không bằng một phần vạn,
không thể so sánh, không thể ví dụ, không thể tính kể; chỉ có tám chánh pháp
luật của Thế Tôntối thắng, tối vi diệu, tối thượng.

 Vua Thần Ba La La nói tiếp:


Hôm nay, con đem thân đến xin quy yThế Tôn, quy y Pháp của Như Lai, quy yđại
chúng Tỳ Kheo
. Cúi xin Thế tônchấp nhận cho con làm Ưu Bà Tắc từ nay đến trọn
đời
.

LỜI BÀN:

 Bài Kinh trên cho chúng ta biết Vua A Tu
La
trong biển Ấn Độ nối liền với Nam Băng Dương rộng lớn, điều này nói lên cõi
Thần không chỉ ở lưng chừngnúi Tu Dilưng chừnghư không, mà còn ở cả trong
các biển lớn như Đại Tây Dương, Thái Bình Dương và Bắc Băng Dương nữa; và như
vậy có nhiều Vua Thần, chứ không phải chỉ có một Vua Thần Bà La La.

 Bài Kinh trên đức Phật giảng cho Vua Thần
Bà La La và Thái Tử Mâu Lê Già nghe về tám điều đặc biệt trong giáo pháp của
Ngài để so sánh với tám điểm của Vua Thần, nhưng cũng là bài giảng cho chúng
sinh
đời sau như chúng ta để học hỏi; chúng ta phân tích sơ qua những điểm đức
Phật
đã nêu ở trên để tìm hiểu cùng học hỏi.

1) – Trước hết, đức Phật nói: “Trong
chính pháp của Ta có sự giáo hóa dần dần, học dần dần, thực hànhdần dần, đoạn
trừ dần dần, ngày càng tiến bộ hơn. Đây là cái đặc điểm thứ nhất trong chánh
pháp
của Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích an trú ở trong đó tu hành
.”

 Điều này nói rằng đức Phật dạy từ dễ dần
dần
đến khó, dần dầnhọc hỏithực hành, làm cho các đệ tử không nản lòng mà
thích theo đuổicho đếnmục đíchcuối cùng.

2) – Thứ hai, đức Phật nói: “Trong
pháp luật của Ta có những cấm giới cho Tỳ Kheo (Tăng), Tỳ Kheo Ni (Ni), Ưu Bà
Tắc
(Cư sĩ Nam), Ưu Bà Di (Cư sĩ Nữ). Dù cho đến khi qua đời, các thiện nam tử,
thiện nữ nhân ấy vẫn giữ giới. Đó là điểm đặc biệt thứ hai trong chính pháp của
Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích an trú ở trong ấy tu hành
.”

 Đức Phật đã tùy theo mỗi loại người để
thiết lập ra giới luậtthích nghi, vì sự thích hợp ấy, cho nên tất cả bốn loại
đệ tử của Phật đều cảm thấy có thể thực hành được, nên đều hoan hỷthi hành cho
tới khi chết cũng không bỏ.

3) – Thứ ba, đức Phật nói: “Giáo
pháp
của Ta rất sâu rộng, không có đáy, không có bờ, khó lường. Đó là pháp vịđặc biệt thứ ba khiến cho các đệ tử thấy rồi rất thích an trú ở trong ấy tu
hành
.”

 Quả thậtgiáo pháp của đức Phậtvô cùngsâu rộng, chúng ta dù có học hết cả đời cũng chưa hết được, nhất là phần thực
hành
để đạt bậc Thánh lại càng khó khăn, nên các đệ tử đều cố gắngkiên trìhọc
hỏi
, hành trì để mong đạt mục đíchtốt đẹp.

4) – Thứ tư, đức Phật nói: “Chính
pháp luật
của Ta chỉ có một vị giải thoát, nó vô dục, tịch tĩnh; Đó là pháp vị
thứ tư trong chánh pháp của Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích thú ở trong ấy
.”

 Nói đến giải thoát, giác ngộ, ra khỏi sinh
tử
khổ đau, được Niết Bàn, thì đệ tử nào của Phật mà không cầu mong, nên những
người đã hiểu giáo lý rồi, không ai là không thích thútheo đuổitới cùng.

5) – Thứ năm, đức Phật nói: “Trong
giáo pháp của Ta có Bốn Chính Cần, Bốn Như Ý Túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Giác
Chi
, Tứ Niệm Xứ, Bát Chính Đạo v.v… Đó là những pháp vịđặc biệt thứ năm trong
giáo pháp của Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích an trú ở trong đó tu hành
.”

 Đây là 37 Đạo Phẩm giúp cho người tu đạtgiác ngộgiải thoát, những thứ nêu trên còn quý hơn trân bảo quý kim, tại sao?
trân bảo quý kim không thể làm cho chúng ta thành bậc Thánh được, những thứ
nêu trên giúp chúng tatrở thành bậc Thánh được. Chỉ cần thực hànhđúng đắn,
kiên cố bền bỉ là chúng tathể đạtmục đích, chúng ta phân tích sơ qua về 37
Đạo Phẩm:

1 – Thế nào là Bốn Chính Cần?

 Bốn chính cần là bốn việc chính, cần siêng
năng cần cù làm cho được kết qủa tốt đẹp, làm cho tăng tiến mỹ mãn hơn lên, bốn
chính cần còn được gọi là Bốn chính đoạn;
bốn chính cần ngầm ý có sự quyết tâm, nhẫn nại, chịu đựng, dẻo dai, cố gắng,
bền bỉ làm cho sự việc đang có xấu giảm đi dứt luôn, sự xấu chưa có không để
sinh ra, sự tốt đẹp đang có tiếp tục phát triển hơn lên, sự tốt chưa có làm cho
phát sinh ra.

2 – Thế nào là Bốn Như Ý Túc?

 Là bốn điều được như ý muốn, bốn cách làm
cho thiền định được kết qủa mỹ mãn đầy đủ, đó là ý chíquyết tâm, tinh tấn,
nhất tâm nhất ý, và quán sát; đó là bốn nẻo đường dẫn tới thần thông, nên còn
được gọi là “Bốn Thần Túc”. Để giúp cho người tu hànhtiến tới đạo qủa, Phật đã
chế ra “Bốn Như Ý Túc”, mà người tu hànhcần phải học và hành khi thiền định để
đi đến giải thoát; khi đạt được tới đích, sự thù thắng sẽ thành tựu.

3 – Thế nào là Năm Căn?

 Năm
Căn là năm vấn đềcăn bản, năm cội gốc, năm nguồn căn bản cho việc tu hành, đó
Tín Căn, Tinh Tấn Căn, Niệm Căn (nhớ nghĩ), Định Căn, và Huệ Căn.

4 – Thế nào là Năm Lực?

 Năm
Lực
năm sức mạnh mẽ, là năm năng lực, năm sức lực, Năm Căn ví như năm ngón
của bàn tay, còn Năm Lựcví như sức co ruỗi của các ngón tay để cầm, nắm, cấu
véo, bóp, xoa. Năm Lựcgồm có: Tín Lực, Tinh Tấn Lực, Niệm Lực, Định Lực, và
Huệ Lực.

5 – Thế nào là Bảy Giác Chi?

 Giác chữ Phạn là Boddhi (Bồ Đề) là giác
ngộ
, Chi là nhánh, loại, phần, Bảy Giác Chi là bảy loại tu tuần tự sẽ đạt đến
đạo qủa; Bảy Giác Chi còn gọi là “Bảy Giác Phần”, hay còn gọi là “Thất Bồ Đề”,
bảy phương tiệnthực hành sẽ đi đến giải thoát. Bảy giác chigồm có: Niệm Giác
Chi
, Trạch Pháp Giác Chi (lựa chọn), Tinh Tấn Giác Chi, Hỷ Giác Chi, Khinh An
Giác Chi
, Định Giác Chi, và Xả Giác Chi.

6 – Thế nào là Tứ Niệm Xứ?

Niệm là nhớ, nghĩ, để ý, biết, chú ý, tỉnh táo, ý thức, chú tâm, tỉnh thức,
quán sát.

Xứ là: nơi, chỗ, lĩnh vực, thứ, loại, hạng, phần.

Tứ Niệm Xứ là bốn lĩnh vực, bốn loại cần để ýchú tâmtỉnh táoquán sát tỉ mỉ.

 Đức
Phật
nói Kinh “Tứ Niệm Xứ” trong đó có bốn phần cần biết ghi nhớ thực hành, đó
là “Niệm Thân, Niệm Thụ, Niệm Tâm, Niệm Pháp”. Đây là một Kinh căn bản quan
trọng để tiêu diệt buồn khổ, phá chấp ngã, xa lià chấp pháp, và đạt tới cứu
cánh
giải thoát.

7 – Thế nào là Bát Chính Đạo?

 Tám Chính Đạo còn được gọi là Tám Thánh Đạo
con đườnggiải thoát, gồm có tám nhánh là Chính kiến (nhìn biết như thật),
Chính tư duy (suy nghĩ đúng như thật), Chính ngữ (nói năng đúng sự thật), Chính
nghiệp
(hành động phải đạo), Chính mệnh (nghề nghiệp chân chính), Chính tinh
tấn
(siêng năng cần mẫn), Chính niệm (nhớ nghĩ không quên), Chính định (thanh
tịnh
sáng suốt), thiếu một trong tám nhánh không thành Bát chính đạo.

 Bát
chính đạo
con đường dẫn đến Niết Bàn, nhưng cũng có ý nghĩa rằng Bát chính
đạo
là để giải thoát khỏi vô minh, để giác ngộ tính “không”.

6) – Thứ sáu, đức Phật nói: “Trong
chính pháp luật của Ta có Thánh chúng trú ở trong, đó là các bậc Tu Đà Hoàn,
Đà Hàm
, A Na Hàm, và A La Hán. Đó là pháp vịquý báu thứ sáu trong giáo pháp
của Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích an trú ở trong.

 Đây là bốn quả vị do tu hànhđạt được theo
giáo pháp của Phật, từ quả vị thấp nhất đến quả vị cao nhất của Tứ Thiền như
sau:

1
– Người chứng quả vị thứ nhất gọi là Tu Đà Hoàn. Nếu chưa đạt được qủa vị thứ
hai, sẽ còn phải tái sinh lại cõi người bảy lần nữa mới đạt tới quả Niết Bàn, nhưng
các vị này đã tạo được tâm tin Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) vững chắc, nên không
còn bị tái sinh vào các cõi dữ nữa.

2
– Người đạt qủa vị thứ hai gọi là Tư Đà Hàm, chứng bậc thứ hai, các vị này nếu
chưa chứng bậc thứ ba, sẽ tái sinhcõi ngườimột lần rồi tu tiếp cho tới đạt
Niết Bàn.

3
– Người đạt qủa vị thứ ba gọi là A Na Hàm. Nếu chưa đạt quả A La Hántrong đờihiện tại, các vị này sau khi mạng chung sẽ không còn tái sinh lại cõi người,
cũng không tái sinh lên cõi trời Dục giới, mà sẽ tái sinh lên cõi trờiVô phiền
Sắc giới; vị ấy sẽ tiếp tục tu ở đấy, và đắc qủa A La Hán rồi nhập Niết Bàn
khi hết tuổi thọ.

4
– Người đạt quả vị thứ tư gọi là A La Hán. Vị A La Hán biết rõ ái dục đã sạch,
vô minh đã tiêu diệthoàn toàn, mọi ô nhiễm đều sạch hết, hành giả biết như
thế, thấy như thế, tâm giải thoátdục lậu (ô uế), tâm giải thoáthữu lậu, tâm
giải thoát
vô minh lậu, giải thoát tri kiến. Vị ấy tự thấy rõ rằng: “Sự sinh
của ta đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, các điều cần làm đã làm xong, tự biết
chẳng còn thọ thân sau nữa”; bấy giờ, vị ấy chứng nghiệmhạnh phúc tối thượng.

7) – Thứ bảy, đức Phật nói: “Trong
chánh pháp luật của Ta, tất cả các đệ tử đều thực hànhphạm hạnh (khuôn phép),
các Thánh chúng đều thanh tịnh. Nếu có đệ tử nào không tinh tấn sinh ra điều ác
không phạm hạnh mà xưng là phạm hạnh, người ấy dù giống như người tu, dù người
ấy ở trong Thánh chúng, nhưng cách Thánh chúng rất xa. Đó là pháp vịđặc biệt
quý giá thứ bảy khiến cho các đệ tử thấy rồi thích an trú ở trong đó
.”

 Ý đức Phật nói là một số người mặc áo tu
nhưng không giữ giớinghiêm chỉnh, phạm giới, không tu hành đàng hoàng, người
ấy chẳng thể hưởng quả vị nào cả, mà khi chết phải đọa địa ngụclâu dài, tai
sao? Vì người ấy ăn của tín thí mà không tu, nên mắc nợ, xuống địa ngục phải
đền trả là lẽ công bằng của luật nhân quả; người ấy, cho dù đời này mặc áo nhà
tu
, cho rằng là người tu hành, nhưng sự thực cách xa với người tu như trời với
đất.

8) – Thứ tám,đức Phật nói: “Trong
chính pháp luật của Ta tiếp nhậnthiện nam thiện nữ của năm giai cấp trong
hội
, đó là dòng Sát đế lợi, dòng Phạm chíBà La Môn, dòng Dân giả, dòng Thợ
thuyền. Tất cả đều cạo bỏ râu tóc, khoác áo Cà Sa, chí tín, rời bỏ gia đình,
sống không gia đình, xuất giahọc đạo, bỏ tên cũ có tên là Sa Môn. Đó là pháp
vị
đặc biệt thứ tám trong chính pháp của Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích an
trú
ở trong đó tu hành
.”

 Thật vậy, trong Tăng đoàn của đức Phật
đủ các thành phần khác nhau trong các đẳng cấp của Ân Độ. Có đệ tửtừ hàng
vương giả đến, có đệ tửtừ hàngquan đại thần vào, có đệ tửtừ hàngBà la môn
nhập. Lại có đệ tử đã từng là người làm mướn, người hớt tóc, người hốt rác, gái
giang hồ, con nông gia, con thợ lò rèn v.v… Lại có đệ tử là người hiền lươngđạo đức, nhưng cũng có đệ tửkẻ trộm cắp, kẻ giết người v.v…, nghĩa là trong
Tăng đoàn của đức Phật có đủ các thành phần của xã hộị tốt xấu đủ cả. Thế
nhưng, đẹp đẽ thay! Qúy hóa thay! Những người vừa kể trên đều nghiêm trì giới
luật, vâng theo lời dạy bảo của đức Phật, tinh tấnhành trìthiền định, và tất
cả đều đã đắc qủa Thánh.

 Bởi vậy, Vua Thần đã ca ngợigiáo pháp của
Phật là tối thắng, tối vi diệu, tối thượng, nghĩa là không có gì có thể so
sánh
, chẳng có gi bằng được, và cuối cùng Vua Thần xin quy y Tam Bảo cũng như
chúng ta. Do đó, chúng ta nên biết rằng Phật pháp có ở cõi Ngườicõi Trời,
còn ở cõi Thần cũng biết Phật, cũng có vị Thần quy y PhậtPháp Tăng, cũng có vị
học Phật pháp vậy.

 

Toàn
Không

̏