Thích Thiện Châu dịch
Nguyên nhângiảng kinh:
Thông thường trước khi nhập hạ, các tỳ kheo từ mọi nơi
đến thăm viếngđức Thế Tôn và xin một đề mục hành thiền,
trong đó có một nhóm 500 thầy tỳ kheo. Sau khi nhận đề mục,
các vị tỳ kheo cùng nhau đi đến một khu rừng vắng thuộc
dãy núi Himavantu để an cư và hành thiền. Hàng ngày, các thầy
đi vào thôn làng gần đó để khất thực. Dân chúng trong
làng hoan hỷcúng dường và cung thỉnh các thầy nhập hạ tại
khu rừng để họ có dịp cúng dường, thọ giới và nghe Pháp.
Các thầy tỳ kheothường hành thiền dưới các cội cây
to lớn. Ban đầuchư thiêncư ngụ trên cây rất vui mừng và
để tỏ lòng kính trọngchư tăng, họ đã tạm dời xuống mặt
đất. Nhưng sau một thời gian, cuộc sống dưới mặt đất rất
bất tiện nên họ đâm ra bực bội. Biết không thể nào chịu
đựng được như vậy trong 3 tháng nên chư thiên đã tìm đủ
mọi cách để xua đuổi các thầy tỳ kheo ra khỏi khu rừng.
Họ đã biến hóa ra những hình ảnhghê sợ, những âm thanhrùng rợn và các mùi hôi thối để làm nản lòng các thầy.
Trước những cảnh tượngkinh hoàng, tâm của các thầy bắt
đầu dao động, sợ hãi, và đâm ra mất ăn, mất ngủ, thân
thểbệnh hoạn, ốm yếu, gầy mòn. Tinh thần không còn yên ổn
để hành thiền. Do đó các thầy cùng nhau quay về Savatthi để
xin đức Phật cho nhập hạ tại một nơi khác.
Đức Phật hỏi nguyên do và nhận thấy không có chỗ nào
thích hợp hơn khu rừng, nên ngài khuyên các thầy nên trở về
chỗ cũ và dạy cho các thầy bài kinhTừ Bi để tự bảo vệ
khỏi sự quấy phá của chư thiên. Các thầy tuân lời và học
thuộc lòngbài kinh này trước khi trở lại khu rừng.
Trên đường trở về cũng như khi đến nơi, các thầy đều
tụng bài kinh này và tập rải tâm từ cho chư thiên khiến họ
hoan hỷ nên họ không còn quấy phá các thầy nữa. Nhờ vậy
mà các thầy sống yên ổntu hành, tinh tấn hành thiền và đều
đắc quả sau mùa an cư năm đó.
Chánh Kinh:
1. Ai khôn ngoan muốn
tìm hạnh phúc
Và ước mong sống với an lành
Phải tài năng ngay thẳng công
minh
Nghe lời phải dịu hiền khiêm tốn.
2. Ưa thanh bần dễ dàng chịu đựng
Ít bận rộn vui đời giản dị
Chế ngựgiác quan và thận
trọng
Không liều lĩnh chẳng mê tục
lụy.
3. Không chạy theo điều quấy nhỏ
nhoi
Mà thánh hiền có thể chê bai
Đem an vui đến cho muôn loài
Cầu chúng sinh thảy đều an lạc.
4. Không bỏ sót một hữu tình
nào
Kẻ ốm yếu hoặc người khỏe mạnh
Giống lớn to hoặc loại dài cao
Thân trung bình hoặc ngắn, nhỏ,
thô.
5. Có hình tướng hay không
hình tướng
Ở gần
ta hoặc ở nơi xa
Đã sanh rồi hoặc sắp sanh ra
Cầu cho tất cả đều an lạc.
6.Với
ai và bất luận ở đâu
Không lừa dối chẳng nên khinh
dễ
Lúc căm hờn hoặc khi giận dữ
Đừng mưu toan gây khổ cho nhau.
7. Như mẹ hiền thương yêu con một
Dám hy sinhbảo vệ cho con
Với muôn loài ân cần
không khác
Lòng ái từ như bể như non.
8. Tung rải từ tâm khắp vũ trụ
Mở rộng lòng thương không giới
hạn
Tầng trên, phía dưới và
khoảng giữa
Không vuớng mắc, oán thù,
ghét bỏ.
9. Khi đi, khi đứng, hoặc nằm ngồi
Hễ lúc nào tinh thầntỉnh
táo
Phát triển luôn dòng
chánh niệm này
Là lối sống đẹp cao nhất đời.
10. Đừng để lạc vào nơi mê
tối
Đủ giới đức, trí tuệ cao vời
Và dứt bỏ lòng tham dục lạc
Được như thế thoát khỏiluân hồi.
(Dịch giả : Thích Thiện Châu)
Metta Sutta còn được dịch là
Kinh Lòng Từ hay Kinh Tâm Từ, thuộc Kinh Tập (Sutta Nipata) của Tiểu Bộ Kinh