Trong Phật giáo, các từ ngữ “cầu nguyện,” “cầu xin” hay “ước nguyện” được hiểu đồng nghĩa vớithuật ngữ “pràrthanà” (Sanskrit) hay “patthanà” (Pali). Pràrthanà bắt nguồn từ gốc “pra + arth” có nghĩa là ước nguyện, ước muốn, mong cầu, cầu xin.
I. Ý nghĩa của cầu nguyện
Trong Phật giáo, các từ ngữ “cầu nguyện,” “cầu xin” hay “ước nguyện” được hiểu đồng nghĩa vớithuật ngữ “pràrthanà” (Sanskrit) hay “patthanà” (Pali). Pràrthanà bắt nguồn từ gốc “pra + arth” có nghĩa là ước nguyện, ước muốn, mong cầu, cầu xin.
Đàn tràng cầu siêu bạt độ các hương linh tử nạn do động đất sóng thần ở Nhật Bản.
Cầu nguyện, cầu xin hay ước nguyện là một trạng tháitâm lýmong mỏi một điều gì đó sẽ được thực hiện, sẽ được thành tựu hay diễn ra theo chủ ý của người mong đợi. Nó phản ánh một thái độmong chờ một sự kiện diễn ra theo chủ ý của người có ước mong.
Theo đạo Phật, tùy theo đối tượng và mục tiêu của ước muốn, cầu nguyện có thể trở thành một trạng tháitâm lý “tham” tức mong muốn gồm thâu về cho mình, gia đình mình, người thân mình, hay một trạng tháitâm lý “vị tha” mong cho người khác, chúng sanh được điều lợi ích, an lạc và hạnh phúc. Nói cách khác, bản thân của sự cầu nguyện mang tính cáchtrung tính về phương diệnđạo đức. Tính chấtđạo đức của cầu nguyện được xác định tốt hay xấu tùy thuộc vào mục tiêu của nó cũng như hệ quả của nó diễn ra đối với đối tượng được mong cầu. Nếu các ước mong của cầu nguyện hướng về tư lợi, tư hữu, cho cái ta và cái ta sở hữu thì cầu nguyện trong trường hợp này là một lòng tham, đồng nghĩa vớitham ái (patthanà vuccati ta.nhà, tác phẩm Mahà Nidesa I. 316-37). Nói cách khác, cầu mong những điều xấu xa cho mục tiêuvị kỷ, tư hữu, thì cầu nguyện sẽ đồng nghĩa hay mang tính chất của lòng tham (patthana lakkha.no lobho, tác phẩm Nettippakara.na, tr. 27). Ngược lại các ước mưa hòa gió thuận, nông dân được mùa, đất nước hòa bình và thế giới hết chiến tranh là các sự mong cầu “thiện” (kusala) vì tính cáchvị tha của mục tiêumong ước. Ở đây, sự cầu nguyện hướng đến phúc lợi và hạnh phúc của người khác, mong điều vui và an lành đến với xã hộiloài người, hoàn toàn không có bóng dáng của lòng vị kỷ, tóm thâu về cho mình. Một ước nguyện như vậy là ước nguyệnchánh đáng và mang tính cách thiện ích.
II. Cầu nguyệnthấp kém và cầu nguyện cao thượng
Như vừa trình bày, bản chấtđạo đức của cầu nguyện sẽ được phân định tùy theoý tưởng hay chủ tâm mong ước của người cầu nguyện. Nếu đối tượng và mục tiêu của mong ước được phân ra tốt và xấu thì cầu nguyện hay ước nguyện cũng theo đó được phân thành 2 loại: thấp kém và cao thượng.
Cầu nguyệnthấp kém là lòng mong ước những điều bất chính, những gì có hại cho nhân quần, xã hội, những gì đi ngược lại lợi ích của số đông. Một ước muốn giết người (dù là kẻ thù), cướp đoạt tài sản của người khác, chiếm đoạt vợ / chồng người khác, lừa đảo người khác bằng lời nói v.v. là những ước muốn thấp kém về đạo đức. Những cầu nguyện cho chiến tranh xảy ra, cho người khác bị giết chết, bệnh tật, tán gia bại sản, cho những món lợi lộcbất chánh, phi pháp cho mình, gia đình mình, người thân mình, cộng đồng mình, xã hội mình và đất nước mình v.v. đều là những thứ cầu nguyện hay ước muốn trái lại với sự phát triển đạo đứcbản thân và cộng đồng, do đó được xem là các ước muốn hay cầu nguyệnthấp hèn. Có nhiều lời cầu nguyện xấu đã trở thành những lời nguyền rủa, trù ẻo, thư ếm, để hại người khác. Có lời cầu nguyện phản ánh thái độbỏn xẻn, vị kỷ, cá nhân và không tùy hỷ với thành công và hạnh phúc của người khác. Tất cả những ước nguyện như vậy đều thuộc thấp kém, và không có giá trịđạo đức.
Cầu nguyện cao thượng, trái lại phát xuất từ tấm lòng vô ngã, vị tha, từ tình thương không phân biệt giới tính, giai cấp xã hội, không phân biệtthân sơ, bạn thù, chỉ vì mang lại lợi ích, phúc lợi và niềm an vui cho người khác v.v. Đó là những cầu nguyện hay ước muốn thiện và đạo đức. Những ước muốn cho chiến tranh chấm dứt, không còn cảnh máu đổ, không còn cảnh sát hạicon người, động vật và môi trường; những ước muốn cho hạnh phúc đôi lứa của kẻ khác được lâu bền, cảnh chia rẻ, phân hóa trở nên đoàn tụ, liên kết nhau; những ước muốn cho mọi người có công ăn việc làm ổn định, không ai cướp bóc sức lao động và tài sản của ai, mọi ngườithương yêu, đùm bọc và giúp đỡ nhau v.v. là những ước muốn hay cầu nguyện cao thượng, và có giá trịđạo đức.
Theo lời Phật dạy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến các ước muốn hay cầu nguyệnthấp kém và cao thượng. Trong bài kinh nói về các hạt giống tâm thuộc bộ Tăng Chi (A. V. 213) đức Phật đưa ra mười nguyên nhânsâu xa dẫn đến các ước muốn và cầu nguyệnthấp kém. Mười nguyên nhân đó là: (1) quan niệmsai lầm, (2) tư duysai lầm, (3) lời nóisai lầm, (4) hành visai lầm, (5) lập nghiệpphi pháp, (6) nỗ lựcsai lầm, (7) chú tâmsai lầm, (8) thiền địnhsai lầm, (9) kiến thứcsai lầm, (10) tự dosai lầm. Mười nguyên nhân này thực chất có nguồn gốc sâu xa từ quan niêm sai lầm. Chính “quan điểm” là chủ não của nhận thức và hành động. Một khi nhận thức sai thì hành động trở nên nguy hại cho đạo đức và phúc lợi của người khác. Ví dụ khi một người nào đó nhận thứcsai lầm rằng giết người, cướp của, quan hệ tình dụcphi pháp, nói láo để lừa gạt người, uống rượu, hút thuốc và ăn chơixa xỉ, là không có hại hay không trái với nguyên tắc đạo đứccăn bản của xã hộiloài người, thì chắc chắn rằng người đó không những có những ước muốn xấu ác, tổn hạitha nhân và xã hội mà còn có thể có các hành vibất thiện, để đem về lợi íchvị kỷ cho bản thân mình. Trong trường hợp này, người cầu nguyện hay có ước nguyệnthấp kém sẽ bất chấp luật pháp, làm những điều bất chính, tổn hại cho đạo đứcxã hội. Do đó, để chặn đứng các cầu nguyện hay ước muốn xấu xa đó, trước nhất và hơn bao giờ hết, chúng ta nên phát triển quan điểm chân chánh (sammà-di.t.thi). Nói cách khác quan điểm chân chánh là đầu mối của tất cả hành viđạo đức đem lại lợi ích cho bản thân và tha nhân.
Cũng trong bài kinh trên, đức Phật trình bày 10 nguyên nhân của ước muốn hay cầu nguyện cao thượng, đó là: (1) quan niệm chân chánh, (2) tư duy chân chánh, (3) lời nói chân chánh, (4) hành vi chân chánh, (5) lập nghiệp chân chánh, (6) nỗ lực chân chánh, (7) chú tâm chân chánh, (8) thiền định chân chánh, (9) kiến thức chân chánh, (10) tự do chân chánh.
Quan niệm chân chánh được xem là yếu tốdẫn đầu của chín loại chân chánh còn lại. Theo lời Phật dạy, quan điểm chân chánh là cái nhìn về con người và sự vật dưới ánh sáng của nguyên lý duyên khởi hay tương thuộc, không có một nguyên nhân khởi thủy, sanh ra muôn vật. Quan niệm như vậy đánh đổ hoàn toàn một niềm tinsai lầm về một đấng tạo dựng, sanh ra sơn hà vũ trụ do đó nắm lấy cán cân thưởng phạt đạo đứccon người. Người có quan niệm chân chánh sẽ làm chủ bản thân mình, không than trời trách đất về những đau khổ khách quan, vì nhận thức rõ rằng nguyên nhân của nó là những hành vitham lam, sân hận, si mê và tham ái trong hiện đời hay trong quá khứ. Người có quan điểm chân chánh cũng nhìn thấy được phương diện khác của cuộc đời là trạng tháihạnh phúc và an lạc do vắng bónghoàn toàn các khổ đau tâm sinh lý. Để đạt đượcan lạc này, không thể cầu xin một đấng thần linh ban giáng hay mua đổi bằng tiền bạc, danh vọng, chức sắc, trái lại chỉ có phát triển chín điều chân chánh còn lại (như đã nêu ở trên) mới giúp cho chúng ta có được an lạc và hạnh phúc thật sự và bền lâu.
Nói tóm lại nếu mười tà là những nguyên nhân, là chất xúc tác, là chất dẫn đạo, là cội nguồn của những nguyện vọng hay cầu mong thấp kém thì 10 chân chánh là những nguyên nhân ngược lại, mang lại kết quả an lạc và hạnh phúc cho mình và người, đời này và đời sau. Người đệ tử của đức Phật nói riêng, và người mong mỏitiến bộđạo đức nói chung nên phát triển 10 chân chánh để sống an vui trong đời.
III. Khái niệm cầu an và cầu siêu
Đạo Phật không chú trọng đến ước muốn thuần túy. Đạo Phật chủ trương hành động thực tiễn. Mặc dù trong đạo Phật có nhiều bài kinh dạy về cách thế nào để đạt đượcan lạc và hạnh phúc trong cuộc sống, cũng như cách tu tập để sanh về thế giới của các đức Phật, khái niệm “cầu an và cầu siêu” không những không phản ánh được điều trên mà còn có thể gây hiểu lầm rằng đạo Phật là đạo của cầu nguyện và van xin, đạo tùy vào tha lực.
Về từ nguyên, khái niệm “cầu an” và “cầu siêu” mới xuất hiệngần đây trong giới Phật giáo Việt Nam. “Cầu an” có nghĩa là đen là “cầu cho một người nào đó được khỏe mạnh và an lạc,” trong khi “cầu siêu” có nghĩa là “cầu cho người chết được siêu độ, được sanh về thế giới của chư Phật.”
Như vậy cầu an là sự mong muốn, là ước vọng được khỏe mạnh, an lạc và hạnh phúc. Nó không giới hạn ở việc cầu cho người bệnh sớm lành mạnh, tai qua nạn khỏi, như nhiều người đã hiểu lầm. Để được khỏe mạnh, tai qua nạn khỏi và sự an lạcnội tâm, theo đức Phật là mỗi người phải tự trau dồi đời sốngđạo đức và trí tuệ, phát huy các hạnh lợi tha, giúp đỡ mọi người, sống an trụ, chánh niệm và tỉnh thức trong từng phút giây của hiện tại. Không hoài vọng về quá khứ để thoát khỏithế giớikinh nghiệmđau thương. Không hoài vọng về tương lai để không lo âu và sợ sệt. Sống một cách sáng suốt, bình thản trong hiện tại để khắc chế mọi tham ưu ở đời. Người sống được như vậy thì lúc nào cũng “an” lúc nào cũng khỏe mạnh, cũng hạnh phúc, không cần cầu nguyện và mong mỏi cũng được. Trái lại, nếu chúng ta sống buông lung, sa đọa, bỏ rơihiện tại, không làm các điều thiện, trái lại rơi vào con đườngtội lỗi thì dù có cầu nguyện bao nhiêu cũng không thể an ổn được. Trên tinh thần đó, để tránh hiểu lầm, kinh cầu an nên đổi thành “kinh an lạc.”
Cầu siêu là nguyện vọng hay ước muốn một người nào đó được siêu thoát hay sanh về thế giới chư Phật. Do đó, chữ “cầu siêu” có thể là hình thức viết ngắn của từ “cầu siêu độ” hay “cầu siêu sanh” hay đầy đủ hơn “cầu siêu sanh Tịnh độ.” Như vậy cầu siêu là nguyện vọng và ước muốn nhắm tới chủ yếu là người quá cố. Trong các nước Phật giáoBắc tông do chịu ảnh hưởng của pháp mônTịnh Độ, các kinh được đọc tụng vào các lễ tang và đám giổ thường là kinh A-di-đà, kinh Địa Tạng và Vu-lan. Tụng kinh A-di-đà chủ yếu là nhắc cho người chết nhớ lại pháp môn niệm Phật thiền “nhất tâm bất loạn” như là điều kiện tiên quyết để vãng sanh Tịnh Độ, để hương linh nương theo đó niệm Phật mà vãng sanh. Tụng kinhĐịa Tạng một mặt nhằm ôn lại công đứchiếu thảo của bồ-tát này, mặt khác phát huy và tu tập mảnh đất tâm (địa = tâm địa). Khi tụng kinh này, con cháu của người quá vãng được dịp học hỏi về hiếu hạnh và còn có cơ hội để trau dồi tâm tánh cho thuần thục. Đọc kinh Vu-lan để học hỏi tấm gương báo hiếuđặc biệt của ngài Mục-kiền-liên. Nói chung các bài kinh trên không chỉ có tác dụng tốt cho người quá cố mà hơn hết làm nhằm giáo dục cho thân quyến của người chết về các phương pháptu tập và làm phước. Theo đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai. Không ai có thể giải thoát cho ai. Sự cầu nguyện chỉ mang tính cáchbiểu tượng, thể hiện tấm lòng thương kính và biết ân đối với người quá cố, và ở phương diện khác nhằm nhắc cho người quá cố biết về quy luậtsanh tử mà không còn quyến luyếnthế gian, dễ dàng ra đi hay tái sanh. Do đó, để tránh hiểu lầm, thuật ngữ “kinh cầu siêu” nên đổi thành “kinh siêu độ” hay “kinh siêu thoát.”
Nói tóm lại, để được sức khỏe và an lạc, theo đạo Phật, chúng ta phải tu tậpcông đức, làm việc lành, sống tiết chế, ngủ nghỉ ăn uốngthích hợp, an trụ vào hiện tại, lấy chánh niệm và sự tỉnh thức làm phương châm của cuộc sống. Được như vậy thì sự an lạc sẽ hiện diện như người bạn đồng hành của ta trong cuộc đời. Tương tự, để được siêu thoát, mỗi người phải tự trang bị cho mình các hành trang đạo đức khi còn khỏe mạnh, để khi cơn vô thường đến, nhắm mắt xuôi tay, nghiệp thiện của chúng ta sẽ dẫn dắt chúng tatái sanh về cảnh giới tốt hay vãng sanh về cảnh giới của chư Phật. Ở đây, không hề có yếu tốtha lực. Tất cả tùy thuộc vào đời sốngđạo đức, trí tuệ và thái độsáng suốt của chúng ta.
IV. Cầu nguyện và kết quả
Trong đạo Phật, cầu nguyện hay ước muốn dù là đạo đức và cao thượng cũng có giá trị rất giới hạn, ở phạm vi của ý chí, chứ chưa thể hiệncụ thể ở hành động. Đạo Phật do đó đề cao chủ thuyết hành viđạo đứccó chủ ý (cetana) như là nền tảng của các thành công và toại nguyện trong cuộc sống. Nói cách khác cầu nguyện hay ước muốn dù tốt đẹp đến đâu nếu không có hành động hay ứng dụngcụ thể cũng trở nên vô ích. Học thuyếthành viđạo đức của Phật giáo trên cơ sở này đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống đạo đức của con người. Đạo Phật không dạy ta sống với những ước muốn hay cầu nguyện suông, trái lại dạy ta các phương phápcụ thể để biến niềm mơ ước chân chánh và cao đẹp trở thànhhiện thực.
Trên tinh thần hành động là quan trọng, ước muốn là phụ thuộc, đạo Phật đã dạy chúng ta sống với một thái độ tự tin vào các hành thiện và đạo đức của bản thân trong việc mang lại hạnh phúc và sự toại nguyệntrong đời. Một khi hiểu được đạo lýnhân quả của Phật, nghĩa là hiểu rằng không có ai cầm cân cuộc sống thưởng phạt, ngoài chính hànhvi thiện ác của chúng ta, người Phật tử không phải mất thời giờ để cầu nguyện hay ước muốn này nọ. Nếu thần linh không thể giúp được họ trong các hành vibất thiện nếu có của họ, thì thử hỏi làm sao họ có thể cứu giúp được chúng ta. Thần linh và thượng đế nếu có cũng không sống ngoài quy luậtnhân quả tương duyên. Do đó, người Phật tử không dại gì phải trông chờ vào một quyền năng bất thật của thượng đế, chúa trời, mẹ sanh mẹ độ, đức ông, đức bà v.v. Người Phật tửý thức sâu sắc rằng, một khi đã tạo nghiệp ác, dù có van xin, chúng ta cũng phải là người gặt hái kết quả đau khổ của nó. Không ai có thể đánh đổ quy luật muôn đời này. Sau đây là một đoạn kinh cho thấy rõ điều đó:
“Nếu ai làm 10 nghiệp ác, rồi một quần chúng đông đảo đến cầu khẩnvan xin, thành kính mong rằng người ấy sẽ được sanh thiện thú. Sự cầu khẩn như vậy là vô ích. Làm 10 nghiệp ác phải rơi vào đọa xứ. Sự thể như có một người quăng tảng đá vào hồ nước, rồi nhiều người đến cầu khẩnvan xin cho tảng đá ấy được nổi lên. Sự cầu khẩn như vậy là vô ích. Vì tảng đá, với sức nặng của nó, không thể nổi lên, không thể trôi vào bờ như lời cầu khẩn. Cũng vậy, tạo 10 nghiệp ác thì phải rơi vào đọa xứ “(Tương Ưng IV, 313).
Ở đây lời của Phật nhằm xác quyết rằng hành vi ác và bất thiện là nguyên nhân gây ra các hậu quả khổ đau, mà người đã tạo ra nó phải gánh chịu trong đời của mình, dù hiện tại hay về sau. Sức gia trì và cầu nguyện trong trường hợp này không có giá trịđạo đức nào cả. Bởi lẽ, nếu cầu nguyện có kết quả thì chắc chắc rằng những người triệu phú, tỷ phú trên thế gian này phải là những người siêu sanh trước nhất, được hết tội trước nhất, do tiền rừng biển bạc của họ tung ra trong các buổi cầu nguyệntôn giáo.
Theo đức Phậtnhân quả là người thẩm phán tuyên ánđau khổ cho người đã tạo ra nghiệp xấu ác và ban thưởnghạnh phúc cho người hiền lương. Vị thẩm phán này không thể bị các hình thức hối lộ thế giantác động, để cải đen thành trắng, để trắng án, như trong các trường hợp của pháp luật đời. Vị thẩm phán của nhân quả rất công minh, chính xác và không lầm lẫn trong khi phán quyếtnghiệp báo của các hành vithiện ác.
Về phương diệncầu nguyện hay ước muốn thiện, đức Phật cũng khẳng định rằng cầu nguyện về điều thiện mà không nỗ lựcthực hiện thiện cũng trở nên vô ích và không có kết quả nào cả. Trong các buổi cầu nguyện cao đẹp, thường người ta mong mỏi cho mình nào là có sức khỏe, sống thọ, có danh thơmtiếng tốt, có được sắc đẹp, có hạnh phúc v.v. Đức Phật khẳng định rằng những thứ này không thể do cầu nguyện hay ước muốn suông mà có được:
“Này các vị, có năm điều sau đây không thể do cầu nguyện hay ước muốn mà có được: (1) tuổi thọ (àyu), (2) sắc đẹp (va.n.na), (3) hạnh phúc (sukha), (4) danh tiếng (yasa) và (5) sanh cõi trời (sagga).” [Tăng Chi, A”nguttara Nikàya, III. 47]
Nghĩa là theo đức Phật, muốn có sức khỏechúng ta phải sống tiết độ, thiền định, không sa đắm sắc dục, không rượu chè, hút sách, siêng thể thao, và ngủ nghỉ thích hợp. Muốn có sắc đẹp ta phải biết giữ gìnsức khỏe, ăn uống kiêng cử, nghỉ ngơi hợp lý, làm việc điều độ v.v. Muốn có đời sốnghạnh phúc ta phải làm thiện, bỏ ác, tuân thủpháp luật, sống vì lợi ích của mình và người khác. Muốn có danh tiếng ta phải siêng năng học tập, làm việc chăm chỉ, sống có lương tâm, đạo đức, cương trực, liêm sĩ, công bằng, thanh cao, rộng lượng giúp đỡ người khác và làm nhiều việc tốt. Muốn sanh cõi trời thì phải tu nhân tích đức, phát triển 10 hạnh lành, tu thiền định, bố thícúng dường và làm nhiều việc từ thiện. Nói chung tất cả những thứ đó không thể do cầu nguyện hay ước muốn mà có được. Ở đây, chúng ta thấy chủ nghĩa hành động đạo đức là phương châm của một đời sống hạnh phúc và an lạc theo Phật giáo.
Kinh điểnPhật giáo cũng xác định rằng một đời sống an lạc, hạnh phúc và giải thoát không phải là hệ quả của những ước muốn cao đẹp mà là kết quả của quá trình nỗ lực trau dồi đạo đức, thiền định và trí tuệ:
“Một người không chú tâm trong sự tu tập, dẫu có khởi lên ước muốn được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không còn chấp thủ, ước muốn ấy nhất định không được toại nguyện” (Tăng Chi III A, 123. Tương Ưng III, 184).
Nói cách khác các ước muốn hay cầu nguyện cao đẹp trái với nguyên lý nhân quả báo ứng chỉ là một sự mỏi mòn chờ đợi, vô ích và không cần thiết, và đôi khi còn mang lại sự chán chường và thất vọng:
Vắt sữa nơi “sừng” con bò cái
Tìm dầu nơi thùng cát có nước
Dầu ước nguyện cũng không thành tựu — (Kinh Trung Bộ I, 103).
Sự giác ngộ, giải thoát hay chứng đắc trong Phật giáo là kết quả của quá trình dày côngtu tập, chặt đốt phiền não, lậu hoặc. Sự tận diệt phiền não là cội nguồn của Niết-bàn, của đạo quảVô thượng Bồ đề. Nhưng đó không phải là hệ quả của cầu nguyện hay cứu rỗi:
“Muốn chứng được Vô thượng Bồ đề mà không đoạn trừ Sát Đạo Dâm Vọng, chẳng khác nào như nấu cát muốn thành cơm, dù trải qua ngàn ức kiếp cũng không thể nào thành tựu được” (Lăng Nghiêm, VI, 234-242).
Trong quá trình hướng đến giải thoát của mọi hành giả, Đức Phật đã tuyên bố là Ngài chỉ đóng vai trò của Đạo Sưdẫn đường, không thể ban bố cho chúng ta kết quả giải thoát. Do đó để đạt chân lýgiải thoát, chúng ta phải là hành giảtu tập, như bài kệ dưới đây, Đức Phật đã khuyên:
“Hãy tự siêng trau dồi,
Như Lai chỉ thuyết dạy.
Tự hành trì thiền định,
Tự giải thoát ác nghiệp” (Kinh Pháp Cú, kệ 276)
Sự tu tập trên cơ sở nỗ lực của tự thân còn được Đức Phật sánh ví với ốc đảo vững chắc, chính trên cơ sở này hoa tỉnh thức sẽ nở rộ, phiền nãonghiệp chướng bị tiêu trừ:
“Hãy tự làm hòn đảo,
Tinh cần gấp sáng suốt,
Trừ cấu uế: thanh tịnh.
Đến thánh địa chư Phật” (Kinh Pháp Cú, kệ 236).
Và Đức Phật cũng lưu ýchúng ta, không phải từ Ngài, không phải từ ân sủng cứu chuộc của Thiên Chúa, không phải do một ai, mà chính do sự tự tu tập của chúng ta dẫn chúng ta đến sự giác ngộ. Có như vậy, sự giác ngộ ấy mới vững chắc:
“Chẳng phải nương người khác,
Mà đạt được Niết-bàn,
Do tự điều, tự nương,
Mà đích đến kiên cố ” (Kinh Pháp Cú, kệ 323).
Do đó, người Phật tử khi nắm vững nguyên lý nhân quảnghiệp báo là cán cân thưởng phạt chính xác, công bằng, nên không hoài công nhọc sức mong đợi, vọng cầu. Trái lại khi làm xong bất kỳ việc thiện nào, họ trở nên thản nhiên, ung dung, không chờ đợi kết quả, vì họ biết chắc chắn rằng kết quả tốt sẽ đến, không chóng thì chày. Hai câu thơ vô danh sau đây cho thấy một niềm tin chân chánh đó:
Khai trì bất đãi nguyệt
Trì thành tất tự lai
Tạm dịch là:
Đào ao chẳng đợi trăng sao
Khi ao có nước trăng sao hiện về!
Nói tóm lại, cầu nguyện có giá trị rất giới hạntrong đời sống đạo đức của người Phật tử. Người Phật tử theo đúng tinh thầnPhật giáo là người theo chủ nghĩa hành động thiện, chứ không phải là người chỉ biết ước vọng thiện. Chính hành động thiện quyết địnhđời sốngđạo đức chứ không phải những cầu nguyện hay ước nguyệnchân thành.
V. Cầu nguyện, phát nguyện và hồi hướng
Trong Phật giáoĐại thừa còn có hai khái niệm liên hệ đến cầu nguyện là “phát nguyện” và “hồi hướng” hay “hồi hướng công đức.” Hai khái niệm này chứa tải ý nghĩađạo đức rất cao và đã trở thànhnếp sống của các Phật tử theo truyền thốngBắc tông hay Đại thừa.
Trong nhiều trường hợp như chúng tachứng kiến trong cuộc sống, cầu nguyện thường phản ánh thái độtâm lý mong cầu hay mong đợi những lợi ích hay hạnh phúc cho bản thân mình, gia đình mình, đất nước mình. Dù là các ước muốn hay mong mỏi thiện, nó cũng thường xoay quanh cái ta, vì cái ta, dù nhỏ hay lớn. Nó có thể mang dáng dấp của vị kỷ, trong sự sâu kín nhất của tâm hồn. Người ta thường cầu nguyện cho người thân mình, chứ ít ai nghĩ đến việc cầu nguyện những điều tốt lành cho kẻ thù mình, cho những người hảm hại mình. Thái độtâm lý này giới hạn vào người thân, người làm tốt cho mình, người có ân ích với mình đã trở thànhthói quen và tập khí của chúng sanh nhiều đời.
Các bậc bồ-tát của Phật giáo thì khác hẳn. Các ngài không còn thái độnhận thức lập cước trên thân sơ. Đối với các ngài, tất cả chúng sanh là thân bằng quyến thuộc từ nhiều đời kiếp trong quá khứ. Chúng ta đã từng là cha mẹ, anh em, bạn bè, thân thuộc, vợ chồng của nhau trong chuổi dài vô thủy của sanh tử. Tình thươngthân quyến và đồng loại không thể ngăn cản được các ngài. Lòng từ bi của các ngài đã siêu vượt ranh giới của bỉ thử, ta người, thân sơ, thù bạn, mà còn trải rộng đến các loài động vật và cây cỏ, côn trùng. Một tình thương vô bờ bến như vậy đã thúc giục các ngài không sớm chứng đắcđạo quảvô thượng bồ-đề để cứu độchúng sanh đang đau khổ trong ba cõi.
Đạo lý bồ-tát đã dạy người Phật tửmở rộngtình thương và trí tuệ đến với mọi người và mọi loài. Một khi dấn thân trên con đường bồ-tát, người Phật tử trước nhất phải biết “phát tâm.” Sự phát tâmbao gồm 2 bước: trước nhất là phát tâmgiác ngộ như Phật và bồ-tát (phát bồ-đề tâm) sau đó là phát tâm độ chúng sanh. Phát tâm độ chúng sanh chính là “phát nguyện” của người học theo hạnh bồ-tát. Phát tâmgiác ngộ là một quá trình tự tu, tự độ. Phát tâm độ chúng sanh và quá trình lợi tha, và cứu độtha nhân. Hạnh bồ-tát bao trùm tự độ và độ tha, chứa đựng đầy đủ nhân hạnh và quả chứng.
Ngoài ra, người Phật tử còn phải biết hồi hướng công đứctu tập của mình đến với tất cả chúng sanh trong ba cõisáu đường. Nếu phát tâmgiác ngộ và phát nguyệnđộ sanh là những tấm lòng vì đạo cao cả, vì thương xótchúng sanh thì hồi hướng công đức là một thể hiện cụ thể của tấm lòng giác ngộ và bao la đó. Nghĩa là người Phật tửtu tập không phải vì cho mình mà cho người, thành quảgiác ngộ và công đức thu hoạch được không phải để dành riêng cho mình, mà còn san xẻ đều cho chúng sanh. Chia xẻcông đức như vậy chính là làm cho tâm mình giác ngộ, làm cho tình thương trở nên siêu vượt biên giới, thời gian và không gian.
Nói một cách khác, người Phật tửhiểu rõđạo lý của đức Phật sẽ không còn cầu nguyện mang tính chất “thu hẹp” lợi lạc cho bản thân mình, gia đình mình, quốc gia mình, mà hơn hết, phải biết phát nguyện để “mở rộng” tấm lòng ra, hướng đến lợi ích của người khác và tất cả chúng sanh; để có những hoạt độngcụ thể, giác ngộ mình và người. Tình cảm vị kỷ và mang tính giới hạn của “cầu nguyện” đã được tình thương của “phát nguyện” thay thế. Phát nguyệngiác ngộ để tự độ. Phát nguyệnhồi hướng công đức cho tha nhân và chúng sanh là độ tha. Đây là hai đặc tính thay thế hoàn toàn những cầu nguyện và ước muốn có tính cách hạn cuộc.
Không có gì cao đẹp cho bằng khi người Phật tử làm bất kỳ việc thiện gì không phải chỉ cho mình, vì mình, mà còn cho người khác, vì người khác và nói rộng ra là tất cả chúng sanh. Sự nghiệp cũng như mục tiêu lớn nhất của người Phật tử là hướng đến sự giác ngộ chính mình và chúng sanh. Sự phát nguyện và hồi hướng công đức của người Phật tử cũng không ra ngoài mục tiêugiác ngộtrọn vẹn, nghĩa là cùng nhau tu hành và thành Phật:
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
VI. Kết luận
Như vậy, đạo đức của người Phật tử không nằm ở những hành viđạo đức cho bản thân, mà cốt là cho xã hộiloài người và các loài động vật. Mục tiêuđạo đứcrộng rãi như vậy rõ ràng không thể phát sanh từ ước muốn đơn thuần, mà phải phát xuất từ từ nhận thứcgiác ngộcụ thể, hành động lợi thacụ thể, để tất cả chúng ta và chúng sanh cùng từng bước hướng đến và thành tựucon đường và đạo quảgiác ngộ, vượt thoát vĩnh viễnđau khổ.
Đây chính là điểm khác biệt căn bản nhất và quan trọng nhất, giữa đạo Phật và các tôn giáo khác, không những về ý nghĩacầu nguyện mà còn ở tính chấtvị tha, vô ngãbao la trong hành viđạo đức và thiện ích của người Phật tử trên con đường tu tập hạnh bồ-tát: phát tâmgiác ngộ, phát nguyệnđộ sanh, tu tậpcông đức và hồi hướng công đức đó đến muôn loài, cốt chỉ để giác ngộ cho mình, người và tất cả chúng sanh.