Vào Rừng Không Động Cỏ, Vào Nước Không Gợn Sóng | Nguyễn Thế Đăng

VÀO RỪNG KHÔNG ĐỘNG CỎ,
VÀO NƯỚC KHÔNG GỢN SÓNG

Nguyễn Thế Đăng

 

di tren mat nuocdi tren mat nuocVào rừng không động cỏ, vào nước không gợn sóng” (Nhập lâm bất động thảo, nhập thủy bất lập ba) là một thiền ngữ nổi tiếng để chỉ một vị giải thoát đi trên cuộc đời này.

Sau đây chúng ta đi từ những Bộ kinh (Nikaya) của hệ Pali đến Thiền tôngkết thúc bằng những kinh Bát nhã, để học về cách đi trong cuộc đời mỗi người.

Vị chiến thắng không bại
Phiền não không thể theo
Ai có thể vạch ra
Vị không để dấu vết
Trong Phật giới vô biên?
(Kinh Pháp Cú, Phẩm Phật đà, 179)

Một bậc giác ngộ, một bậc A la hán, một đại Bồ tát đi và sống trên cõi đời mà không có dấu vết. Bởi vì chỉ có phiền não, nghiệp, mới để lại dấu vết.

Chữ Như Lai (Tathagata) có nghĩa là đến như vậy, và chữ Thiện Thệ (Sugata) có nghĩa khéo đi. Cả hai chữ đều có nghĩa là đến và đi không ồn ào, không gây xáo trộn, không gây tiếng động, chỉ có đem lại an vui, giải thoát không hình không tướng.

 

Trong kinh Angulimala Sutta, kể về tên cướp Angulimala “luôn luôn giết người, mang một vòng chuỗi làm bằng những ngón tay người”. Một hôm thấy đức Phật đang đi trên đường, tên cướp đuổi theo.

Rồi Thế Tôn hiện thần thông lực khiến tên cướp đi bằng hết tốc lực cũng không thể bắt kịp Thế Tôn đang đi với tốc độ bình thường. Angulimala đứng lại và gọi lớn:
– Hãy đứng lại Sa môn! Hãy đứng lại, Sa môn!
– Ta đã đứng rồi, này Angulimala. Và ngươi hãy đứng lại…
Thắc mắc, Angulimala nói bài kệ với Thế Tôn:
– Người đi lại nói: Ta đã đứng rồi.
Tôi đứng, người bảo: Sao ngươi không đứng?
Sa môn, tôi hỏi về ý nghĩa này
Sao người đã đứng, còn tôi không đứng?
– Angulimala, ta đã đứng rồi
Với mọi chúng sanh, ta bỏ trượng, kiếm
Còn ngươi, chưa kiềm chế với hữu tình
Do vậy, ta đã đứng, ngươi chưa đứng”.

Đức Phật đi với tốc độ bình thường, theo cái nhìn thấy của Angulimala, và nếu lúc đó chúng ta có ở đó, chúng ta cũng thấy và nói rằng đức Phật đang đi. Vậy mà sao đức Phật nói ngài không đi, vì ngài đã đứng từ lâu rồi. Đây có thể được xem là một nan đề, một “công án” về sự đi của Phật.

Mặc dầu kinh nói Phật hiệnthần thông lực, nhưng vấn đề không phải ở đó, mà vấn đề là “ta đã đúng rồi”, và đứng có nghĩa là “đã bỏ trượng, kiếm”, đã bỏ bạo lực và các phiền não trong tâm đối với chúng sanh. Đây mới chính là thần thôngtối cao, thần thông nguồn gốc sinh ra những thần thông trên thế giớivật lý.

Thấy có đi mà thật ra đã đứng, đây là ý nghĩacâu chuyện và cũng là chỗ tu hành cho các hành giả.

 

Đức Phật đã nói về việc đi qua khỏi, vượt quasanh tử trong phẩm Cây lau:

Không đứng lại, không bước tới, Như Lai vượt khỏi bộc lưu”.

Bộc lưu là dòng nước chảy xiết của sanh tử. Và Phật đã vượt qua dòng nước chảy xiết của sanh tử, bằng cách “không đứng lại, không bước tới”.

 

Không những bước đi mà không đi, bước đi mà không gây tiếng động, về Khẩu, đức Phật cũng im lặng. Im lặngvĩnh viễn.

Danh hiệu Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni), chữ Mâu Ni (Muni) vừa có nghĩa là bậc thánh, vừa có nghĩa là ‘bậc Im lặng’.

Thế nên, trong các kinh Đại thừathường có câu nói: “Bốn mươi chín năm ta thuyết pháp, nhưng chưa từng nói một lời nào”.

 

Sau đây sẽ trích ra một vài câu chuyện Thiền, để cho chúng ta thấy một người “vào rừng không động cỏ, vào nước không gợn sóng” là thế nào.

 

*Thiền sư Triệu Châu dặn đệ tử: “Nơi nào có Phật hãy đi qua, nơi nào không có Phật chớ dừng lại”.

 

*Sư Tông Huệ (?-990) đến tham vấnThiền sưVân Môn.

Vân Môn hỏi: vừa rời nơi đâu?
Sư thưa: Tra Độ.
Vân Môn hỏi: Hạ vừa rồi ở đâu?
Sư thưa: Ở chùa Báo Từ, Hồ Nam.
Vân Môn: Rời chỗ ấy lúc nào?
Sư thưa: ngày 25 tháng 8.
Vân Môn nói: Tha cho ngươi ba gậy.

 

*Thiền sư Lâm Tế nói trong Ngữ lục:

thượng đường:

– Có một người mãi ở ngoài đường mà chẳng lìa nhà. Có một người lìa nhà mà chẳng ở giữa đường. Người nào đáng được trời, người cúng dường?

Bèn xuống tòa”.

 

*Có vị tăng hỏi Thiền sưNghĩa TồnTuyết Phong:

Hòa thượng gặp Đức Sơn được cái gì liền thôi?
Sư đáp:
– Ta đi tay không, về tay không.

 

*Thiền sư Linh Mặc (748-818), khi sắp tịch, tắm gội xong, thắp hương ngồi ngay thẳng, bảo chúng:

Pháp thânhoàn toànlặng lẽ, thị hiện có đến đi. Ngàn thánh đồng nguồn, vạn linh về một. Nay ta bọt tan đâu bởi hưng suy, không tự nhọc thân phải giữ chánh niệm. Nếu tuân lời dạy này là đền ơn ta, nếu cố trái lời thì chẳng phải con ta.

Có vị tăng hỏi:
Hòa thượng đi về đâu?
Sư bảo:
– Không có chỗ đi.
– Sao con chẳng thấy?
– Chẳng phải chỗ mắt thấy.
Nó xong, an nhiênthị tịch, thọ 72 tuổi.

 

Kinh Phóng QuangBát Nhã, phẩm Đại thừa như hư không(Tam tạngVô La Xoa dịch) nói:

Phật dạy: Tu Bồ Đề! Nói về Đại thừa thì không thấy lúc đến, không thấy khi đi, không thấy chỗ trụ. Vì sao thế? Vì các pháp không lay động, các pháp cũng không đi, không đến, không có chỗ trụ. Vì sao thế? Vì tánh của năm ấm, tướng của năm ấm, sự của năm ấm, chân như của năm ấm cũng không đến, không đi, không chỗ trụ.

Tu Bồ Đề! Như lời ông nói, Đại thừa cũng chẳng thấy Đông Tây Nam Bắc, bốn góc, trên dưới, cho nên đại thừabình đẳng với ba đờiquá khứ, hiện tại, vị lai, vì vậy gọi là Đại thừa”.

 

Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật đa, Tam tạngCưu Ma La Thập dịch, phẩm Thán tịnh:

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh này chẳng tương tục.

Đức Phật nói: Vì rốt ráothanh tịnh vậy.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Những pháp nào chẳng tương tục nên thanh tịnh này chẳng tương tục?

Đức Phật nói: Vì sắc chẳng đi, chẳng tương tục nên thanh tịnh này chẳng tương tục. Cho đếnnhất thiết chủng trí chẳng đi, chẳng tương tục nên thanh tịnh này chẳng tương tục.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh này vô cấu(không vết dơ).

Đức Phật nói: Vì rốt ráothanh tịnh vậy.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Những pháp nào vô cấu nên thanh tịnh này vô cấu?

Đức Phật nói: Vì tánh sắc thường thanh tịnh nên thanh tịnh này vô cấu. Cho đến vì tánh nhất thiết chủng trí thường thanh tịnh nên thanh tịnh này vô cấu.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Bạch Thế Tôn! Thanh tịnh này vô sanh.

Đức Phật nói: Vì rốt ráothanh tịnh vậy.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Bạch Thế Tôn! Những pháp nào vô sanh nên thanh tịnh này vô sanh?

Đức Phật nói: Vì sắc vô sanh, cho đếnnhất thiết chủng trívô sanh nên thanh tịnh này vô sanh”.

 

Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Không thối chuyển nói:

Lại nữa Tu Bồ Đề! Đại Bồ táttâm an trụ chẳng lay động, thâm nhậptrí huệ, nhất tâm thọ nhận pháp và làm theo pháp, mọi sự việc thế gian đều hợp với Bát nhã ba la mật(tức là hợp với tánh Không). Chẳng thấy có sự nghiệp, việc làm nào mà chẳng nhập vào pháp tánh, thấy tất cả đều hợp với Bát nhã ba la mật. Đây là tướng khôngthối chuyển của đại Bồ tátkhông thối chuyển”.

 

Bồ tát thấy tánh Không, sống trong tánh không, nên mọi công việc, mọi hành động đều nhập vào pháp tánh, tức là tánh Không. Như vậy làm mà vẫn giải thoát, sống ở thế gian để hóa độchúng sanh mà trọn cả cuộc đời đều “nhập vào pháp tánh”.

Bất thối chuyển là cấp độ tâm thức của Bồ tát Địa thứ Tám. Địa này còn được gọi là Bất động địaVô công dụng địa (“Tâm vô công dụng, trí nhậm vận”_ Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập địa, phần Địa thứ Tám).

Bởi vì bất động địa, vô công dụng địa, nên đi trong đời mà:

Vào rừng không động cỏ,
Vào nước không gợn sóng.