VỀ NGUYÊN TẮC KHÔNG GÂY HẠI (AHIṂSĀ) Thích Nguyên Hiệp Không gây hại (ahiṃsā/ bất hại) là một nguyên tắc sống quan trọng trong ba tôn giáo lớn ở Ấn Độ, như Ấn giáo, Phật giáo và Kỳ-na giáo. Thuật ngữahiṃsā, có nghĩa là không giết hại hay làm tổn thương những chúng sanh khác (ahiṃsā = a+hiṃsā. Chữ “a” là một tiền tố mang nghĩa phủ định; “hiṃsā” có nghĩa là giết hay làm tổn thương. Như vậy ahiṃsā có nghĩa là không giết hại hay làm tổn thương). Nhưng ahiṃsā cũng được hiểu là không sử dụng bạo lực, không gây chiến và tạo xung đột, không làm hại kẻ khác bằng ngôn ngữ và hành vi của mình; và cả không được quyên sinh hay tự làm hại bản thân mình. Trong niềm tin chung của một số tôn giáo lớn Ấn Độ, những hành vi bạo lực là không tốt và sẽ tạo nên nghiệp (karma) xấu, trong khi bất hại và không bạo lực sẽ tạo nên những thiện nghiệp, đưa đến những cảnh giớitái sinhtốt đẹp. Tuy nhiên, vẫn có những sai khác về cách hiểu và sự thực hành trong ba tôn giáo về nguyên tắc này. Trong Phật giáo, không gây hại trước hết liên hệ đến vấn đềsát hại. Vì sao không được sát hại? Kinh Pháp cú viết: “Mọi người sợ hình phạt/ Mọi người sợ tử vong/ Lấy mình làm ví dụ/ Không giết, không bảo giết” (PC 129). Nhưng sự giết hại không chỉ khu biệt vào con người, mà cũng bao gồm những chúng sanh khác. Thực ra, nguyên tắc ahiṃsā trong Phật giáothời kỳ đầu chính yếu tập trung vào việc không sát hạithú vật. Vào thời Đức Phật, việc tế lễ muông thú theo nghi lễ Bà-la-môn giáo là rất phổ biến. Những tế lễ như thế này là những sinh hoạttôn giáo nhằm mục đích làm hài lòngthần linh với mong muốn nhận lấy những ân sủng hay sự che chở. Việc thần linh có hài lòng với những loại tế lễ như thế này hay không thì thật khó biết, nhưng hẳn nhiên nó là một loại sinh hoạttôn giáo đem lại lợi ích kinh tế cho những người tổ chức. Đức Phậtnhận thấy không có giá trị hay lợi íchtinh thần nào ở nơi những loại tế lễ như thế này, ngược lại thấy nó đem lại những tác hại cho người thực hành tế lễ vì tạo nên ác nghiệp. Trong năm giớicăn bản của người Phật tử, ahiṃsā thuộc về giới thứ nhất; nhưng nếu hiểu theo nghĩa rộng, nó cũng bao hàm cả những giới khác. Nếu việc thực hànhnăm giới là để bảo vệ mình và bảo vệ người, hay không làm hại mình và làm hại người, thì “không gây hại” là nền tảng căn bản của năm giới. Bởi vì mọi người luôn mong muốn được hạnh phúc và sợ khổ đau, nên họ không được phép xâm phạm hay làm hại kẻ khác. Một bài kệ ở trong Udana nói rằng: “Tâm ta đi cùng khắp/ Tất cả mọi phương trời/ Cũng không tìm thấy được/ Ai thân hơn tự ngã/ Tự ngã đối mọi người/ Quá thân ái như vậy/ Vậy ai yêu tự ngã/ Chớ hại tự ngã người” (Udana Varga, chương V). Giữ giới là một trong những cách thức giúp ta sống được như vậy. Thêm nữa, không gây hại cũng bao gồm việc không làm hại bản thân mình. Theo Phật giáo, đắm chìm trong dục lạc hay khổ hạnhép xác đều được xem là đang làm hại bản thân, bị tham-sân-si chi phối cũng là đang làm hại bản thân, tạo nghiệp ác cũng đang làm hại bản thân, sử dụng những thực phẩmvật chất và tinh thần không lành mạnh cũng là làm hại bản thân… Trong kinh Giáo giới La-hầu-la ở rừng Ambala, không gây hại bao gồm việc kiểm soát thân-khẩu-ý, không để những hành vi, lời nói, hay ý nghĩ của mình gây hại cho cho chính mình và cho người khác: “Này Rahula, khi ông muốn làm một thân nghiệp gì, hãy phản tỉnh thân nghiệp ấy như sau: ‘Thân nghiệp này của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báođau khổ. Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh, Ông biết: “Thân nghiệp này, ta muốn làm. Thân nghiệp này của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể đưa đến hại cả hai; thời thân nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ”. Một thân nghiệp như vậy, này Rahula, Ông nhất định chớ có làm…”. Cũng tương tự như vậy với khẩu và ý. Ahiṃsā, ở khía cạnh tích cực, là thực hànhlòng từ bi và tạo dựng sự an bình cho bản thân và xã hội. Trong kinh điển Pāli, một vị vua được xem là lý tưởng khi ông không gây chiến và sát hại thần dân, tức ông cai trị thần dân bằng đạo đức và không tạo nên bạo lực. Tuy nhiên, trong Phật giáo, không gây hại không phải là một nguyên tắc cứng nhắc áp dụng trong mọi tình huống. Trong văn học Pāli, như ở trong các Jātaka (chuyện tiền thân), ta thấy có những trường hợp tự hy sinhthân mạng, mà có thể được xem như một hình thức bạo lực, vì lợi ích của kẻ khác. Tuy nhiên, trong văn học Pāli, chiến tranh không được tán thành, cho dù với lý do gì. Trong nhiều trường hợp, Đức Phật đã khuyên răn các vị vua về tác hại của chiến tranh và xung đột; và trong một số câu chuyệntiền thân, ta thấy có những vị vua đã chấp nhận dâng hiến vương quốc để chiến tranh không xảy ra, nhằm giữ lấy tính mạng của bách tính. Tuy nhiên, trừ những người xuất gia, trong Phật giáo Theravāda, không có việc ngăn cấm người cư sĩtại giatham gia vào những hoạt động quân sự, cho dù trong kinh có khuyên rằng không nên làm nghề buôn bán vũ khí. Như vậy người cư sĩvẫn cóthể tham gia vào quân đội, và hẳn nhiên là khi tham gia vào thì họ sẽ phải thực hiệnchức năng của họ ở trong vai trò này. Trong văn họcĐại thừa, trong một số trường hợp, ta thấy bạo lực có thể được sử dụngvì lợi ích của số đông cũng như sự an bình của xã hội. Trong kinh Phương tiện thiện xảo (Upāya-kauśalya Sūtra), ta đọc thấy câu chuyện kể về vị trưởng đoàn thương nhân đã giết một tên cướp để cứu lấy năm trăm vị thương nhân, và hành vi này được cho là cần thiết và không tạo nên tội lỗi, và không sai về phương diệnđạo đức. Trong kinh Hoa nghiêm (Avataṃsaka Sūtra), ta thấy có vị vua đã xử phạt nặng nề những kẻ phạm tội, nhằm ngăn chặn tội ác và vì lợi ích của vương quốc, và việc làm đó được xem là cần thiết. Và ở một cấp độ khác, bạo lực được xem như một phương tiện, mà nói theo kinh Duy Ma Cật là: “Thị hiện hànhsân hậnthù nghịch mà không có thù hận ác ý đối với các chúng sinh”. Tuy nhiên, một vài bản kinhĐại thừa khác, chẳng hạn như kinh Phạm võng Bồ-tát giới, đưa ra những giới luật ngăn cấm điều này. Nhưng cũng cần lưu ý rằng, kinh Phạm võng Bồ-tát giới là dành cho những người thông thường, và mang tính đạo đứcquy phạm. Còn vấn đề được đề cập trong kinh Phương tiện thiện xảo hay kinh Hoa nghiêm, lại là những hành hoạt của chư Bồ-tát, người có đủ bi-trí và phương tiện thiện xảo trong giáo hóa và cứu độ, và đã thực hiện những việc làm này không bằng một tâm thứchận thù hay sân hận. Ở góc độ nào đó, nguyên tắc ahiṃsā trong một vài bản kinh Phật giáo Đại thừa là tương tự với Ấn giáo mà nó cho rằng nguyên tắc ahiṃsā không áp dụng với những kẻ phạm tội, những kẻ hành ác và trong chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh phòng thủ. Trong Ấn giáo, một vị vua hay người lãnh đạo phải trừng trị những kẻ tạo ác và không được phép do dự, cho dù kẻ tạo ác đó là những người thân thích của mình. Ta có thể tìm thấy điều này ở trong Bhagavad-Gita, qua những đối thoại giữa Thần Krishna và hoàng tử Arjuna. Thánh điển này đã đặt ra những nguyên tắc mà một người thuộc tầng lớp Chiến sĩ (Kshatriya) phải thực thi, trong đó bổn phận chính là phải chiến đấu, ngay cho dù đối phương của mình là những người thân thích. Và khi người ta thực hiện theo nghĩa vụ và bổn phận của mình, thì dù hành vi được xem là bất nhẫn nhất như giết hại, không bị xem là sai về phương diệnđạo đức, và thậm chí không sai về phương diệntôn giáo trong sự liên hệ đến nghiệp (karma). Nhưng ta cũng cần nên biết rằng, khái niệm ahiṃsā không được xem như một nguyên tắc đạo đức ở trong những thánh điển sớm nhất của Bà-la-môn giáo, mặc dù trong Rig-Veda có đề cập đến việc “không gây hại”; và khái niệm này cũng xuất hiện trong một số thánh điển khác như Taittiriya Shakha của Yajur-Veda và Shatapatha Brahmana. Nhưng không gây hại (ahiṃsā) ở trong Yajur-Veda chỉ đề cập cụ thể đến việc không được làm hại người thực hành tế lễ mà không mang tính phổ quát, và không mang một hàm nghĩa đạo đức nào. Và, như đã nói, tế lễ muông thú là một trong những sinh hoạttôn giáo của Bà-la-môn giáo. Trong Mahabharata và Manusmṛti, tế lễ thú vật và ngay cả việc săn bắn được coi là hợp pháp, cả về phương diệnxã hội lẫn tôn giáo, cho dù Mahabharata có nói rằng “không bạo lực là bổn phận đạo đức tối thượng” (ahimsa paramo dharma). Như vậy, trong Bà-la-môn giáo thời kỳ đầu, không gây hại chỉ khu biệt vào một vài nhóm đối tượng, và chưa phải là một nguyên tắc đạo đức mang tính phổ quát. Dần dần, khái niệm này được phát triển và được áp dụng một cách phổ quát hơn. Trong Chāndogya Upaniṣad, việc không gây hại đối với tất cả loài vật được xem như là một nguyên tắc cần phảithực hiện, và việc tuân theo nguyên tắc này là một trong các điều kiện cho việc thoát lyvòng luân hồi sanh tử. Về sau, người Ấn giáo xem ahiṃsā như một nguyên tắc đạo đức thật sự cốt yếu; việc tôn trọng và tránh giết hay làm hại chúng sanh khác được xem như một nguyên tắc căn bản trong việc thực hànhđời sốngtôn giáo, và đây cũng là lý do tại sao nhiều người Hindu đã chọn chế độ ăn chay, hay ít nhất tránh giết hại sinh vật một cách trực tiếp vì nhu cầu ăn uống của mình. Có lẽ trong những tôn giáoẤn Độ, Kỳ-na (Jainism) là tôn giáothực hiện nguyên tắc ahiṃsā một cách nghiêm ngặt nhất, và nguyên tắc này đã trở thành một trong những thề nguyện của người Kỳ-na, cả Tăng sĩ lẫn tín đồtại gia. Biểu tượng của Kỳ-na giáo là bàn tay có bánh xe ở giữa lòng; và biểu tượng này tượng trưng cho sự vô uý và không gây hại. Bên dưới biểu tượng là câu kinh nỗi tiếng của tôn giáo này: “Parasparopagraho Jīvānām” được rút ra từ Tattvārthasūtra, mà nó có nghĩa là “sống và hãy để sống”; hay được dịch theo cách khác là “mọi chúng sanh cần giúp đỡ lẫn nhau”, hay “tất cả mọi đời sống là tương thuộc và hỗ trợ lẫn nhau”. Bởi vì mọi loài sống đều tương thuộc và hỗ trợ nhau để tồn sinh, do đó ta không chỉ tôn trọngđời sống của mình mà cũng phải tôn trọngđời sống của kẻ khác. Đây chính là nền tảng triết học để tín đồ Kỳ-na thực hành nguyên tắc không gây hại. Ở điểm này ta thấy quan điểm của Kỳ-na giáo về con người và thế giới rất gần với thuyết Duyên sinh của Phật giáo. Bên cạnh, nguyên tắc không gây hại trong Kỳ-na giáo cũng được đặt trên học thuyết nghiệp (karma) và tái sanh. Nghiệp sát rõ ràng là nghiệp ác, và sẽ không đưa người thực hiện điều đó đến một sự tái sanh tốt. Và cũng chính từ đây, Kỳ-na giáo đề ra một chế độ ăn chay trường nghiêm ngặt cho cả người xuất gia lẫn tại gia. Theo Kỳ-na giáo, ăn mặn, cho dù không trực tiếp sát hạiđộng vật, cũng đã gián tiếp tạo nên sự sát. Ngay cả những sản phẩm liên quan đếnđộng vật như sữa và mật ong, cũng không được phép dùng, bởi vì được nghĩ rằng để có những thực phẩm đó người ta phải tước đoạt công sức của chúng sanh khác. Cũng giống như Phật giáo, Kỳ-na giáo phê phán và tránh mọi loại tế lễ muông thú và những việc làm như săn bắn và những nghề nghiệp liên quan đến giết hại súc vật; và thậm chí cố gắng tránh những việc làm gây hại đến cây cỏ một cách không cần thiết như phóng hỏa đốt rừng. Việc đốt rừng không chỉ làm tổn hại cây cỏ, mà qua đó cũng có thể giết hại những loài vật sống ở trong đó. Giống với Ấn giáo, Kỳ-na giáo cho rằng bạo lực để phòng vệ là được chấp nhận. Người ta không được tạo nên chiến tranh, không bức hại, đàn áp hay bóc lột kẻ khác, nhưng họ được phép chiến đấu chống lại những vấn đề trên để bảo vệbản thân, người thân, cộng đồng hay đất nước của họ. Thêm nữa, mặc dù xem mọi chúng sanh đều bình đẳng và nương tựa vào nhau để tồn sinh, nhưng Kỳ-na giáo vẫn xem có một sự phân loại cao thấp trong những loài sống khác nhau; chẳng hạn như đời sốngcon người thì cao hơn đời sống của thú vật; đời sống của một con khỉ thì cao hơn đời sống của những loài sâu bọ côn trùng; và hẳn nhiên đời sống của loài sâu bọ côn trùng thì cao hơn các loài cây cối. Do đó sự bất sát phải được ưu tiên theo thứ tự. Ahiṃsā là một nguyên tắc đạo đức tạo nên nhiều tranh luận ngày hôm nay, bởi nó không chỉ liên quan đếnvấn đềsát sinh thông thường mà còn liên quan đến những nan đềđạo đứchiện đại như phá thai, tự tử, trợ từ, hành hình, trừng phạt, chiến tranh, môi sinh… Nhưng thực ra, một số những nan đề này cũng đã có mặt trong quá khứ, chẳng hạn như hành hình, trừng phạt và chiến tranh. Và trong quá khứ cũng như hiện tại, những Phật tử đã có những cách nhìn khác nhau, hay sự giải thích khác nhau, về vấn đề này. Có người cho rằng sử dụng vũ lực và bạo động không phải là giải pháptối hậu. Nhưng một số người, chẳng hạn như B.R. Ambedkar, biện minh rằng Đức Phật dạy nên yêu thương tất cả, mà không bảo rằng tuyệt đối không được sát hại (trong ngữ cảnh phòng vệ hay chiến tranh). Bên cạnh, một số người cho rằng bạo lực có thể được sử dụng trong một số trường hợpcần thiết: sử dụng bạo lực để chấm dứt bạo lực. Nhưng rõ ràng cách nghĩ này là trái ngược với những gì được đề cập trong kinh Pháp cú: “Sự thật, hận thù không bao giờ chấm dứt được bằng hận thù ở trong thế giới này. Chỉ có lòng từ bi mới chấm dứt được hận thù. Đây là định luật muôn đời”. Chiến tranh hẳn nhiên là luôn gắn liền vớithắng bại và hận thù. Những người bị sát hại trong chiến tranh, bởi sự khổ đau và hận thùchi phối, sẽ không có một sự tái sanh tốt. Và trong nhiều trường hợp, nguyên tắc ahiṃsā cũng đã gây nên những bối rối, và có khi người ta từ chối nó vì những xung độtquan điểm, như trường hợp của Maung Win: “Tôi không thể biện hộ việc ngồi thiền trong khi những anh chị em của tôi đang bị giết hại. Những vị thầy của tôi dạy rằng phải yêu thương những người căm ghét chúng tôi. Nhưng hay thử yêu thương với một khẩu súng chỉa thẳng vào đầu bạn. Sau khi họ tra tấn người anh của tôi, tôi đã cởi áo cà-sa và tham gia vào cuộc kháng chiến. Trái tim của tôi ở cùng với dân tộc của tôi, không ở cùng với sự giác ngộ của tôi.” (Journal of Buddhist Ethics, Vol. 16, tr.41). Thêm nữa, như được thấy nơi lịch sử một số nước Phật giáo, cả theo Phật giáo Theravāda và Đại thừa, nguyên tắc bất hại trong nhiều trường hợp đã bị gác bỏ khi có sự lựa chọn về các giá trị. Nguyên tắc không gây hại, theo một số người, phải được đặt trong những tình huống cụ thể. Nhưng như vậy sẽ nảy sinh câu hỏi: Trong những tình huống nào thì người ta có thể phá vỡ nguyên tắc bất hại? Câu trả lời thường là: bạo lực có thể được sử dụng khi điều đó giúp ngăn chặn cái ác, vì lợi ích của số đông, và được thực hiện với lòng từ bi và trí tuệ; và nguyên tắc không gây hại cần phải được nhìn theo cái nhìn duyên sinh của các mối quan hệ trong xã hội. Một mặt, người ta phải nhận thức sự tuỳ thuộc và tương tác của các mối liên hệ ở trong đời sống để kính trọngđời sống, và nói theo cách của Kỳ-na giáo là sống và để kẻ khác cùng sống. Nhưng mặt khác người ta cũng cần “phải bảo vệ mình và bảo vệ người” trước những hành vi gây hại và lấn ép của kẻ khác. Một nguyên tắc đạo đức-tâm linh, để thực hiện, đòi hỏi phải có rất nhiều sự nỗ lực. Sự thực hành nguyên tắc bất hại hay phát khởilòng từ bi trong mọi tình huống không phải là sự dễ dàng, mà đòi hỏi phải có sự kiên định và sức nhẫn nhục cao. Con đườngtu đạo thường không phải dễ đi. Và, cho dù một vài nơi trong kinh sách bạo lực đã được xem như là “phương tiện thiện xảo” vì lợi ích của số đông, thì hầu hết kinh điểnPhật giáo, những nguyên tắc như từ bi, nhẫn nhục, không làm hại kẻ khác với nhiều phương diện khác nhau… luôn được đề cao và bàng bạc khắp nơi, và là những nguyên tắc không thể thiếu trong lộ trình tu đạo. Và một người, không thể trở nên cao quýnếu khôngthực hành nguyên tắc ahiṃsā, và đây là một trong những tiêu chí xác định nên phạm hạnh của họ: “Bỏ trượng, đối chúng sanh/ Yếu kém hay kiên cường/ Không giết, không bảo giết/ Ta gọi Bà-la-môn” (PC 405). Thích Nguyên Hiệp |