Kinh về Tuổi già và sự Sáng suốt
Hoang Phong
Nakulapita là một
người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổi và thường hay đau
yếu. Ông rất kính mến Đức Phật và Đức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
Mỗi khi Đức Phật đến vùng Bhagga thì thường hay ghé thăm ông, hoặc mỗi khi Nakulapita
nghe tinĐức Phật sắp đi ngang vùng mình ở thì đều tìm đủ cách để gặp Ngài. Các
cuộc gặp gỡ giữa Đức Phật và Nakulapita đã lưu lại cho chúng ta nhiều bản kinh.
Sau đây là một trong số các kinh ấy, với những lời dạy của Đức Phật về tuổi già
và sự sáng suốttâm thần.
Phần chuyển ngữ được dựa vào bản dịch
trực tiếp từ tiếng Pa-li sang tiếng Pháp của Môhan Wijayaratna (Les Entretiens du Bouddha, nxb Seuil,
2001) và hai bản dịch khác từ tiếng Pa-li sang tiếng Anh: một của Thanissaro
Bhikkhu và Bhikkhu
Ñanananda (Samyutta Nikaya An Anthology,
Sn 22.1, 2007-2011), và một của Pya Tan (Samyutta Nikaya, The Connected Sayings of the Buddha, by Piya Tan, 2006).
*****
“Tôi từng được nghe như thế này:
Có một lầnĐấng Thế Tôn ngụ với các người dân vùng Bhagga, tại hang Bhesakala nơi
rừng Lộc Uyển, gần một nơi gọi là Samsumaragiri.
Trong dịp này và vào một hôm, người
chủ gia đình Nakulapita thân hành tìm Đấng Thế Tôn để viếng thăm. Nakulapita tiến
đến gầnĐấng Thế Tôn, đảnh lễ rồi ngồi sang một bên. Sau khi đã ngồi sang một bên
liền cất lời như sau:
– “Bạch Thế Tôn, con quả là một người đã kiệt quệ, già nua, một người
đã trọng tuổi; thân xác bệnh tật, lắm khi thật đau đớn. Hơn nữa, không mấy khi
con được dịp gặp Đấng Thế Tôn hoặc các đồ đệ của Ngài đã từng tu tập về các
phương pháp thăng tiến tâm linh (có nghĩa là không có mấy
dịp để được học hỏi). Con xin Ngài ban cho con những lời khuyên bảo, ban
cho con những lời chỉ dạy cần thiết giúp con tìm thấy an vui lâu dài”.
Đức Phật bèn cất lời như sau:
– Thật thế, này người chủ gia đình, quả đúng như thế. Thân xác của con đã
yếu, lưng đã còng. Khi đã mang một thân xác như thế mà cứ muốn có một sức khoẻ
tốt dù chỉ tạm thời thì đấy quả thật là một ước vọng điên rồ. Vì thế, này ngưòi
chủ gia đình, con phải luyện tập [bằng cách nhắc nhở mình] như thế này: ‘Dù
thân xác tôi yếu đau, thế nhưng tâm thần tôi không bệnh tật gì’. Đấy là cách mà
con phải cố gắng luyện tập”.
Người chủ gia đìnhhân hoan đón nhận
lời chỉ dạy của Đấng Thế Tôn, tạ ơnĐấng Thế Tôn, sau đó kính cẩn đi một vòng chung
quanh nơi Ngài đang ngồi rồi ra đi. Sau đó Nakulapita tìm gặp Vị Tôn KínhXá Lợi
Phất (trong nguyên bản là Ayasmanta Sariputta, chữ Ayasmanta
có thể tạm dịch là Vị Tôn Kính hay Vị Đáng Kính, và đặc biệt chữ này trong
kinh sách Pa-li chỉ được dùng để chỉ các vị đệ tử trực tiếp của Đức Phật).
Nakulapita tiến đến gần rồi ngồi sang một bên. Vị Tôn KínhXá Lợi Phất bèn hỏi
Nakulapita :
– “Này người chủ gia đình, sao [tôi thấy]các giác cảm của ông hôm
nay lại có vẻ an bình và tinh khiết đến thế. Dung nhan của ông thật sáng lạn. Có
lẽ ông vừa mới được Đấng Thế Tôn giảng cho giáo lý, có phải thế không?”.
Người chủ gia đình Nakulapita đáp lại
như sau:
– “Thưa Vị Tôn Kính, quả đúng là như thế. Tôi được Đấng Thế Tôn rưới
xuống cho tôi tinh hoa của giáo lý”.
– Này người chủ gia đình, hãy nói cho tôi biết tại sao ông lại được Đấng
Thế Tôn rưới xuống cho ông tinh hoa của giáo lý như thế?
– Thưa Vị Tôn Kính, hôm nay tôi đến viếng Đấng Thế Tôn. Tôi tiến đến gần
Ngài, đảnh lễ rồi ngồi sang một bên. Sau khi đã ngồi sang một bên, tôi cất lời
như sau: “Bạch Thế Tôn, con quả là một người đã kiệt quệ […], lắm khi thật
đau đớn, […], và Đấng Thế Tôn bảo rằng:‘Thật thế, này người chủ gia đình, quả
đúng như thế. Thân xác của con đã yếu lắm.[…] Vì thế, này người chủ gia đình, con phải luyện tập như thế này: ‘Dù
thân xác tôi yếu đau, thế nhưng tâm thần tôi không bệnh tật gì. Đấy là cách mà
con phải luyện tập’. Ngài nói với tôi như thế.
– Này người chủ gia đình, thế sao ông lại không nghĩ đến là cần phải hỏi
thêm Đấng Thế Tôn như thế này: ‘Bạch Thế Tôn, xin Ngài chỉ dạy thêm là bằng cách
thức như thế nào để tâm thần không bị bệnh tật, trong khi thân xác phải gánh chịu
ốm đau?’
– Thật thế, Thưa Vị Tôn Kính, tôi từ xa đến đây để gặp ngài chính là để
được nghe ngài giảng giải cho về ý nghĩa thật sự trong lời dạy của Đấng Thế
Tôn. Thật không gì bằng được chính ngài Xá Lợi Phấtgiải thích cho tôi ý nghĩa
trong lời chỉ dạy mà Đấng Thế Tôn đã ban cho tôi.
– Vậy thì, này người chủ gia đình, hãy cố gắngchú tâm và lắng nghe nhé.
Tôi sẽ giải thích cho ông điều ấy.
Vị Tôn KínhXá Lợi Phất cất lời như
sau:
– Trước hết này người chủ gia đình, [cần phải hiểu] tại sao thân xác và
tâm thần lại bị mọi thứ bị bệnh tật. Một người thường tình (tiếng Pa-li là puthujjana, có nghĩa là một người không hiểu
biết gì về Đạo Pháp, M. Wijayaratna dùng nguyên chữ này và không dịch) tức
không được hưởng sự giáo huấn nào (trong nguyên bản là
assutava puthujjano, có nghĩa là những người chất phác, vì vào thời bấy giờ không
mấy người được học hành và có cái may mắn được tu tập), không đủ sứcnhận
ra những gì khác thường nơi những bậc cao quý, không đủ khả nănghấp thụ những
lời giáo huấn của các bậc cao quý, không đủ sứcnhận ra những gì khác thường nơi
các vị hiền nhân, không hề bị thu hút bởi sự giáo huấn của những bậc hiền nhân,
người này xem hình tướngvật chất
(rûpa) là cái Ngã, hoặc xem cái Ngã chính là hình tướngvật chất. [Để rồi] tự nghĩ rằng: ‘Tôi chính là hình tướng vật chất’ hoặc tự nghĩ rằng: ‘Hình tướng vật chất chính là của tôi’,
và cứ yên trí là như thế. Đến lúc cái hình
tướngvật chất ấy biến đổi vì nguyên nhân của bản chấtvô thường, tức là lúc
mà hình tướngvật chấttrở thành khác
đi, thì nơi hắn sẽ sinh ra sự ta thán, khổ nhọc, đau buồn, phiền muộn và bực dọc.
“Và hơn thế nữa, này người chủ
gia đình, con người thường tình (puthujjana) ấy không hề được hưởng sự giáo huấn,
hắn không đủ sứcnhận ra những gì khác thường nơi những bậc cao quý, […] xem giác cảm (vedanâ) là cái Ngã, hoặc là
xem cái Ngã hàm chứa giác cảm, hoặc cái
Ngã chính là giác cảm, hoặc cái Ngã nằm
bên trong giác cảm. [Để rồi] hắn tự
nghĩ rằng: ‘Tôi chính là giác cảm’ hoặc
tự nghĩ rằng: ‘Giác cảm chính là của tôi’,
và cứ yên trí như thế. Đến lúc các giác cảm
ấy biến đổi vì nguyên nhân của bản chấtvô thường, tức là lúc mà các giác cảmtrở thành khác đi, thì nơi con
người hắn sẽ sinh ra sự ta thán, khổ nhọc, đau buồn, phiền muộn và bực dọc.
“Và hơn thế nữa, này người chủ
gia đình, con người thường tình ấy không hề được hưởng sự giáo huấn, hắn không đủ
sứcnhận ra những gì khác thường nơi những bậc cao quý, […] xem sự nhận thức (sanna) là cái Ngã, hoặc
xem cái Ngã hàm chứa sự nhận thức, hoặc
cái Ngã chính là sự nhận thức, hoặc cái
Ngã nằm bên trong sự nhận thức. [Để rồi]
hắn tự nghĩ rằng: ‘Tôi chính là sự nhận
thức’, hoặc tự nghĩ rằng: ‘Sự nhận thức
chính là của tôi’, và cứ yên trí như thế. Đến lúc sự nhận thức ấy biến đổi
vì nguyên nhân của bản chấtvô thường, tức là lúc mà sự nhận thứctrở thành khác đi, thì từ nơi con người hắn sẽ sinh ra
sự ta thán, khổ nhọc, đau buồn, phiền muộn và bực dọc.
“Và hơn thế nữa, này người chủ
gia đình, con người thường tình ấy không hề được hưởng sự giáo huấn, hắn không đủ
sứcnhận ra những gì khác thường nơi những bậc cao quý, […] xem các thành phần cấu hợp duy ý (sự chủ tâm hay các tác
ý – sankhâra – còn gọi là hành uẩn)
là cái Ngã, hoặc xem cái Ngã hàm chứa sự các thành phần cấu hợp duy ý, hoặc cái Ngã chính là các thành phần cấu hợp duy ý, hoặc cái
Ngã nằm bên trong các thành phần cấu hợp
duy ý. [Để rồi] hắn tự nghĩ rằng: ‘Tôi
chính là các thành phần cấu hợp duy ý’, hoặc tự nghĩ rằng: ‘Các thành phần cấu hợp duy ý là của tôi’,
và cứ yên trí như thế. Đến lúc các thành
phần cấu hợp duy ýbiến đổi vì nguyên nhân của bản chấtvô thường, tức là lúc
mà các thành phần cấu hợp duy ý trở
thành khác đi, thì nơi con người hắn sẽ sinh ra sự ta thán, khổ nhọc, đau buồn,
phiền muộn và bực dọc.
“Và hơn thế nữa, này người chủ gia đình, con người
thường tình ấy không hề được hưởng sự giáo huấn, hắn không đủ sứcnhận ra những
gì khác thường nơi những bậc cao quý, […] xem tri thức (vinnâna – consciousness) là cái Ngã, hoặc xem cái Ngã hàm
chứa tri thức, hoặc cái Ngã chính là tri thức, hoặc cái Ngã nằm bên trong tri thức. [Để rồi] hắn tự nghĩ rằng: ‘Tôi chính là tri thức’, hoặc tự nghĩ rằng:
‘Tri thức chính là của tôi’, và cứ yên
trí như thế. Đến lúc cái tri thức ấy
biến đổi vì nguyên nhân của bản chấtvô thường, tức là lúc mà cái tri thức ấy trở thành khác đi, thì nơi
con người hắn sẽ sinh ra sự ta thán, khổ nhọc, đau buồn, phiền muộn và bực dọc.
“Này người chủ gia đình, chính
đấy là cách mà thân xác và tâm thần trở nên bệnh hoạn. Vậy đến đây chúng ta thử
xét xem phải làm thế nào để giúp cho tâm thầntránh khỏi không bị bệnh hoạn,
trong khi thân xác phải chịu mọi ốm đau. Một người đệ tử cao quý được hưởng sự
giáo huấn (sutavâ arya-savâko) quý trọng những bậc cao quý, noi theo giáo huấn
của những bậc cao quý, được giáo huấn bởi những bậc cao quý, ngưỡng mộ các vị hiền
nhân, noi theo sự giáo huấn của các vị hiền nhân, được giáo huấn bởi các vị hiền
nhân, hắn sẽ không xem hình tướngvật chấtlà cái Ngã, hoặc không xem cái Ngã chính là hình tướngvật chất. Hắn sẽ không tự nghĩ
rằng: ‘Tôi chính là hình tướng vật chất’
hay là ‘hình tướng vật chất là của tôi’,
và hắn không hề bám vào cái ý nghĩ ấy. Đến lúc cái hình tướngvật chất ấy biến
đổi vì nguyên nhân của bản chấtvô thường, tức là lúc mà cái hình tướngvật chất ấy trở thành khác đi,
thì nơi con người hắn sẽ không xảy ra sự ta thán, […], và bực dọc.
“Này người chủ gia đình, người
đệ tử cao quý ấy được hưởng sự giáo huấn, biết quý trọng những bậc cao quý,
[…], sẽ không xem giác cảmlà cái Ngã, hoặc không xem cái Ngã chính là giác
cảm. Hắn sẽ không tự nghĩ rằng: ‘Tôi
chính là giác cảm’ hay là ‘giác cảm
chính là của tôi’, và hắn không hề bám vào cái ý nghĩ ấy. Đến lúc các giác cảmbiến đổi vì nguyên nhân của
bản chấtvô thường, tức là lúc mà các
giác cảmtrở thành khác đi, thì nơi con người hắn không hề xảy ra sự ta thán,
[…], và bực dọc.
“Này người chủ gia đình, người
đệ tử cao quý được hưởng sự giáo huấn, biết quý trọng những bậc cao quý, […],
sẽ không xem sự nhận thức là cái Ngã,
hoặc không xem cái Ngã chính là sự nhận
thức. Hắn sẽ không tự nghĩ rằng: ‘Tôi
chính là sự nhận thức’ hay là ‘sự nhận
thức chính là của tôi’, và hắn không hề bám vào các ý nghĩ ấy. Đến lúc sự nhận thức ấy biến đổi vì nguyên nhân
của bản chấtvô thường, tức là lúc mà sự
nhận thức ấy trở thành khác đi, thì nơi con người hắn không hề xảy ra sự ta
thán, […], và bực dọc.
“Này người chủ gia đình, người
đệ tử cao quý ấy được hưởng sự giáo huấn, biết quý trọng những bậc cao quý, […],
sẽ không xem các cấu hợp duy ý là cái Ngã,
hoặc không xem cái Ngã chính là các cấu hợp
duy ý. Hắn sẽ không tự nghĩ rằng: ‘Tôi
chính là các cấu hợp duy ý’ hay là ‘các
cấu hợp duy ý chính là của tôi’, và hắn không hề bám vào cái ý nghĩ ấy. Đến
lúc các cấu hợp duy ý ấy biến đổi vì nguyên nhân của bản chấtvô thường, tức là
lúc mà các cấu hợp duy ýtrở thành khác
đi, thì nơi con người hắn không hề xảy ra sự ta thán, […], và bực dọc.
“Này người chủ gia đình, người
đệ tử cao quý ấy được hưởng sự giáo huấn, biết quý trọng những bậc cao quý, […],
sẽ không xem tri thức là cái Ngã, hoặc
không xem cái Ngã chính là tri thức.
Hắn sẽ không tự nghĩ rằng: ‘Tôi chính là tri
thức’ hay là ‘tri thứcchính là củatôi’, và hắn không hề bám vào cái ý nghĩ ấy. Đến lúc cái tri thức ấy biến đổi vì nguyên nhân
của bản chấtvô thường, tức là lúc mà cái
tri thức ấy trở thành khác đi, thì nơi con người hắn không hề xảy ra sự ta
thán, […], và bực dọc.
“Này người chủ gia đình, đấy chính
là cách giữ cho tâm thần không bệnh hoạn, trong khi thân xác phải chịu mọi thứ ốm
đau”.
Vị Tôn KínhXá Lợi Phất đã giảng như
thế. Người chủ gia đình Nakulapita thật sung sướng và cảm thấyhân hoan trước
những lời giải thích của Vị Tôn KínhXá Lợi Phất.
*****
Vài lời
góp ý
Trên phương diệnhình thức thì đây là
một bản kinhtrọn vẹn và đầy đủ, tức gồm phần mở đầu và cả phần chấm dứt: phần
mở đầu cho biết về bối cảnh hình thành của bài kinh và phần chấm dứt là hiệu quả
của bài kinh đối với người được nghe. Tương tự như hầu hết các bản kinh Tạng khác,
mỗi câu kinh được lập đi lập lại nhiều lần và chỉ thay đổi một hay hai chữ, có
thể đấy là cách giúp để dễ nhớ, dễ học thuộc lòng và nhất là giữ cho câu kinh ít
bị sai lạc. Nhờ vào cách lập đi lập lại bất tận đó mà các câu kinh được lưu
truyền sau hàng nhiều trăm năm bằng cách truyền khẩu và sau đó là hàng ngàn năm
bằng cách ghi chép, thế mà vẫn giữ được sự mạch lạc và chính xác một cách thật
tuyệt vời, bởi vì nếu có một câu nào nhớ lầm (trong giai đoạn truyền khẩu) hay có
một chữ viết sai (trong giai đoạn ghi chép) thì đã có một câu khác tương tự để chỉnh
lại.
Nakulapita là tên gọi thân mật của một
người lớn tuổi. Một số học giả, trong số này có Pya Tan và Môhan Wijayaratna, đã
viết chữ này rời ra thành hai chữ là Nakula-pitâ. Chữ pitâ có nghĩa là “bố”
(cha) và Nakula-pitâ thì có nghĩa “bố
Nakula”, và vợ của người này mang tên là Nakulamata (Nakula-matâ) có
nghĩa là “mẹ Nakula”. Trong
các bản kinh Nakulapita, Đức Phật cũng đã gọi các nhân vật vừa kể bằng các tên
thân mật của họ. Chi tiết này chứng tỏ cho thấy một vài nét thật “chân tình”,
“nhân bản” và thật gần gũi với con người trong các kinh sách Phật Giáo
Nguyên Thủy. Trong khi đó thì Đại Thừa Phật Giáo phát triển sau đó có xu hướng chủ
trương Phật Giáo là một tôn giáo như những tôn giáo khác vào thời bấy giờ, và nâng
Đức Phật lên một cấp bậc tối thượng và thiêng liêng, đồng thời khai triển thêm một
số khía cạnh trong giáo lý, nêu lên khái niệm về người bồ-tát và hình dung ra vô
số các vị thần linh và các vị Phật khác.
Ngoài ra còn một chi tiết khác cũng đáng
để chú ý là Đức Phật đã giải đáp thắc mắc của Nakulapita bằng một câu giảng thật
trực tiếp nhưng rất bao quát và sau đó thì Xá Lợi Phất mới giảng giải thêm cho ông
ta một cách chi tiết hơn, cả về nội dung cũng như về phép thực hành. Đây cũng là
một hình thức trình bày thường thấy trong kinh sách, tức là Đức Phật chỉ nêu lên
chủ đề và các đệ tử của Ngài đứng ra thuyết giảng. Thí dụ như trường hợp của Kinh
Bát-nhã Ba-la-mật-đa, trong kinh này Đức Phật ngồi một bên, lắng sâu vào thiền định
và đã cảm ứng cho Quán thế Âmthuyết giảngbản Tâm Kinh cho Xá Lợi Phất.
Trên phương diện nội dung thì kinh Nakulapita
trên đây sử dụng hai khái niệm căn bản của giáo lý là Ngũ Uẩn và Vô Ngã để phân
tích và chữa trị tâm thứcbệnh hoạn của những người lớn tuổi. Thật vậy bệnh tật
và các dấu hiệu già nua trên thân xác đôi khi có thể nhận biết khá dễ dàng, không
cần phải khám nghiệm y khoa, thế nhưng khi bệnh tật và các dấu hiệu già nuaxuất
hiện trong tâm thức thì rất khó để nhận biết hơn.
Thí dụ như nếu bị lãng tai, ta nói
chuyện oang oang mà không ý thức được là ta nói quá lớn tiếng, hoặc ta mở máy
truyền hình quá to làm phiền người khác mà không hay biết. Đấy là trường hợpgiác cảm bị suy thoái (bệnh tật) vì già
nua, tiêu biểu cho uẩn thứ nhất gọi là Thụ
(vedanâ).
Trời vừa nhá nhem tối là ta đã lo cài cửa, trong
lòng lo sợ, đem đặt bên cạnh giường một cái gậy hay một con dao, khi nghe thấy một
tiếng động là tưởng tượng ra có ma hay một tên trộm lẻn vào nhà… Đấy là sự vận
hành của uẩn thứ ba gọi là Tưởng
(sanna), tức có nghĩa là sự cảm nhận
hay nhận biếtxuyên quatrung gian của
một giác quan về một xúc cảm hay một khái niệm nào đó hiển hiện ra trong đầu,
tức là một sự kiện nào đó mà ta đã có kinh nghiệm từ trước (tác động của nghiệp).
Đấy là một thứ bệnh hoạn của người già nua gây ra bởi uẩn thứ ba.
Khi hình ảnh con ma hay tên trộm hiện
ra trong đầu, ta vừa run bần bật vừa với cây gậy để sẵn sàng tự vệ, ấy là sự vận
hành của uẩn thứ tư gọi là Hành (sankhâra).
Hành là “các nhân tố kết hợp”
hay “sức mạnh thúc đẩy” để
tạo ra nghiệp. Tuy rằng ta chưa kịp khua chiếc gậy để đuổi ma hay đập lên đầu tên
trộm, thế nhưng nghiệp cũng đã hình thành, bởi vì nghiệp là một ý định, một chủ
đính, một tác ý… phát sinh trong đầu. Bản kinh Nakulapita trên đây gọi “sức mạnh thúc đẩy” ấy là “các cấu hợp duy ý”. Nghiệp phát
sinh từ các tác ý hay các cấu hợp duy ý đó sẽ tác động ngay tức
khắc và tạo ra một bầu không khí lo âu, căng thẳng, sợ sệt và bệnh hoạn nơi người
già nua không hề biết tu tập (assutava puthujjano).
Đối với uẩn thứ năm gọi là Thức (vinnâna) tức là tri thức, thì xin đưa ra một thí dụ
“vui vẻ” hơn. Ta chuẩn bị đi ra ngoài, thay quần áo, đội mũ lên đầu, tìm đôi giày, ngồi vào
ghế và cúi xuống loay hoay buộc dây giày…, sau đó thì cầm chìa khóa và mở cửa
định bước ra ngoài. Tuy nhiên chưa kịp bước ra ngoài thì lại thấy trời có gió và
khá rét, ta vội quay vào đi tìm cái mũ để đội. Tìm mãi không thấy cái mũ đâu cả,
ta bực bội, khó chịu, tự hỏi không biết có bỏ quên cái mũ ở nhà ai không, hay có
ai dọn dẹp nhà cửa đem cất nó vào xó nào mà ta tìm không thấy. May mà không có
ai ở nhà lúc ấynếu không thì ta đã mắng cho một trận. Đấy là sự vận hành của
tri thức đã suy thoái với tuổi tác và của nghiệp tạo ra bởi sự suy thoái đó (có
ý định mắng một trận). Tri thức (consciousness) hay uẩn thứ năm tượng trưng cho
sự kết hợp tất cả các “thông tin” phát sinh từ các uẩn khác (thân xác,
giác cảm, nhận thức, diễn đạt) để phối kiểm và tạo ra một sự hiểu biết mạch lạc.
Thế nhưng trong trường hợp của một người lớn tuổi thì sự phối kiểm ấy lại trở nên
thiếu mạch lạc và chính xác (đi tìm cái mũ mà không biết là chính mình đang đội
trên đầu).
Bài kinh trên đây dạy rằng “lãng
tai” (giác cảm) không phải là cái
Ngã hay là cái của tôi, “nhận biết một tiếng động và ngỡ đấy là con ma
hay tên trộm” (sự nhận thức hay diễn
đạt) không phải là cái Ngã hay cái của tôi, “sẵn sàng vung gậy để đuổi
ma hay để đập lên đầu tên trộm” (tác
ý) không phải là cái Ngã, cũng không
phải là cái của tôi, đi “tìm cái
mũ đang đội trên đầu (tâm thứcxao lãng) và phát lộ sự bực dọc” không
phải là cái Ngã, cũng không phải là cái của tôi. Đấy chỉ là sự vận hành của
bốn uẩn thuộc tâm thức làm phát sinh ra các thứ xúc cảm và các tác ý trong tâm
thức, chúng có thể phát hiện thànhngôn từ hay hành động trên thân xác. Nếu chúng
ta xem chúng là cái Ngã hay những biểu hiện của cái Ngã thì đấy là cách tạo ra
mọi thứ bệnh hoạn cho tâm thần.
Tóm lại, rất dễ để nhìn thấy sự suy thoái của cơ thể và bệnh tật trên thân xác
phát sinh khi tuổi già đã đến, thế nhưng lại rất khó cho ta để chận đứng quá trình ấy của sự già nua trên thân xác.
Trái lại đối với tâm thức thì lại rất khó
để nhìn thấy những thứ bệnh tật tâm thần, bởi vì vô minhhiển hiện qua bóng dáng
của cái Ngã luôn tìm cáchche đậy chúng để đánh lừa ta, thế nhưng những thứ bệnh
tật tâm thần ấy lại có thể chữa khỏi được bằng những liều thuốc của giác ngộ.
Thân xác và tâm thức tương tác với
nhau một cách thật chặt chẽ, một thân xác khoẻ mạnh là một trong các điều kiệnthuận
lợi giúp mang lại một tâm thức an vui, và một tâm thứclành mạnh luôn góp phần
không nhỏ để tạo ra một thân xác đủ sức đứng thẳng trên đôi chân của nó. Tuy thế,
tâm thức và thân xác hàm chứa một số đặc tính và khả năng rất khác biệt nhau.
Thí dụ một lực sĩ phải luôn luôn luyện tập mới giữ được các thành tích mà mình đã
đạt được, sau đó vì tuổi tác hay kém luyện tập thì các thành tích ấy không còn
giữ được nữa. Thế nhưng sự hiểu biết, ngoại trừ những sự hiểu biếtsai lầm, sẽ
không bao giờ thụt lùi, tuy rằng sự hiểu biết đó vẫn phải lệ thuộc vào thân xác
như một cơ sở chuyển tải. Khi nào cơ sở đó bị thoái hóa nặng nề hay hoàn toànsuy sụp thì khi đó sự hiểu biết đã đạt được từ trước mới bị lôi kéo theo.
Bài kinh trên đây dạy cho chúng ta
phải làm thế nào để duy trì được một thể dạng tâm thầnlành mạnh, sáng suốt, không
bệnh hoạncho đến lúc thân xác hoàn toàn bị hư hoại. Thế nhưng muốn đạt đượcmột
thể dạng tâm thầntinh khiết và an vui thì phải luyện tập trước khi tuổi già kéo
đến, tức phải lấy đà khi thân xác còn đứng vững. Không nên chờ đến lúc tuổi
cao, khi mà lo sợ, hận thù, hoang mang, hối tiếc, oán hờn… đã tràn ngập trong
tâm thức, thì khi đó mới nghĩ đến các phương pháp luyện tập trí nhớ, chú ý đến
việc ăn uống dưỡng sinh, lo tập thể dục, múa tài chi, khí công…, và mỗi đêm uống
thuốc an thần trước khi lên giường.
Bài kinh trên đây là một liều thuốc
cực mạnh, không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai
muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thứcan bình và trong sáng. Thiết
nghĩbài kinh là một liều thuốc thật triệt để, giúp loại bỏvô minh để quán thấy
bản chấtVô Ngã của một cá thể. Thế nhưng tiếc thay liều thuốc cũng thật là khó
nuốt, bởi vì các khái niệm về vô ngã và ngũ uẩn không dễ để thấu triệt và đem
ra áp dụng. Dầu sao đi nữa nếu chỉ loại được một phần nào ý nghĩsai lầm về sự
hiện hữu của cái Ngã thì biết đâu việc này cũng đủ để giúp cho chúng ta giữ được
sự thanh thản trong lúc ốm đau đang hành hạ thân xác, và tìm thấy một niềm an
vui trong lúc tuổi già.
16.11.11 Hoang Phong