Tác giả: Bhikkhu khantipālo
LỜI MỞ ĐẦU
Trong kinh điển pali, giáo huấn mà Đức Phật truyền dạy – vẫn còn được bảo tồn và thực hành đến ngày nay – có tên là Dhamma Vinaya. Hai danh từ này thường được phiên dịch là Giáo Pháp và Giới Luật, mặc dầu phải mất nhiều ý nghĩa khi chuyển sang một ngôn ngữ khác. Nhiều kinh sách đã được ấn hành để giải thích các sắc thái khác nhau của Giáo Pháp, nhưng có lẽ tánh cách ít nhiều thiên về đời sống trong các tự viện nên phần Giới Luật hầu như bị lãng quên, không được nhấn mạnh đúng theo tầm quan trọng của nó, quyển sách này nhằm khảo sát tạng Luật (Vinaya) trên một quan điểmđặc biệt – quan điểm của người cư sĩPhật tử muốn tìm hiểu một vài Giới Luật của hàng xuất gia, có thể bổ ích cho mình.
Danh từ Vinaya không phải chỉ có ý nghĩa đối với đời sốngtự viện. Quả thật tạng Luật có đề cập dong dài và đầy đủ chi tiết đến những giới tu tập, những điều không được và những điều được phép làm, cùng với những Giới Luật để quản trị đời sốngxuất gia. Tuy nhiên, ít ra cũng có một trường hợp quan trọng mà danh từ này có thể áp dụng vào phẩm hạnh của người cư sĩ. Một tiểu tựa của bài kinhtrứ danh, “Lời Kêu Gọi Sigāla”, là Gihi Vinaya, hay là Giới Luật của người tu tại gia, một cái tên xứng đáng với lối trình bày vững vàng. Trong ý nghĩa thâu hẹp hơn, Giới Luật của người tại giacư sĩ là Năm Điều Học (Panca Sila, Ngũ Giới) bởi vì năm giới của người cư sĩ cũng cùng một tác dụng “diệt trừ điều bất thiện”, giống như phần lớn toàn bộ giới tu tập trong tạng Luật dành cho chư vị tỳ khưu. Trên thực tế, đó là định nghĩa của danh từ Vinaya: lôi ra, tiêu trừ, đoạn diệt hay dứt bỏ tất cả những gì hiển nhiên ngăn chặn mức tiến trên đường thực hànhGiáo Pháp, những gì bất thiện.
Và bây giờ ta tự hỏi, tại sao ban hành những giới tu tập Vinaya? Ở nhiều đoạn trong Tạng Luật, Đức Phật dạy:
“Này các Tỳ Khưu, xét vì (vài trường hợpcần phải có biện pháp) Như Lai sẽ ban hành giới tu tập này cho chúng Tăng (đôi khi Ngài thêm) dựa trên mười lý do sau đây:
- Vì sự an lành của chúng Tăng (Sangha, Giáo HộiTăng Già).
- Vì sự an toàn của chúng Tăng
- Để kiểm soát những người chưa vững chắc (còn sơ cơ).
- Vì sự an toàn của những vị tỳ khưu có giới hạnhtrang nghiêm.
- Để đè nén những hoặc lậu (āsava) trong kiếp sống hiện tại.
- Để ngăn chặn không cho những hoặc lậu phát sanh trong một kiếp sống tương lai.
- Để làm cho người chưa hoan hỉ (với Giáo Pháp) trở nên hoan hỉ.
- Để cho người hoan hỉ càng thêm hoan hỉ.
- Để thiết lậpChánh Pháp và
- Vì lợi ích của Giới Luật”.[1]
Đức Buddhaghosa, một đạo sưlỗi lạc, vừa là một nhà chú giảitrứ danh, đã định nghĩa Giới Luật trong những vần thơ dịch theo văn xuôi sau đây:
“Giới Luật được gọi là Vinaya
Bởi những người am hiểuý nghĩa của danh từ Vinaya
Vì Giới Luật khép (hành động của) thân và khẩu trong khuôn khổ kỷ cương
(Gồm) nhiều nguyên tắc tuyệt diệuphi thường.”
Atthasālini
Những dòng trên đây nhấn mạnh đến lợi ích của Giới Luật trong công cuộc đào luyện thân khẩu (cũng như năm giới đào luyện thân khẩu của người cư sĩ) và một lần nữa, chứng tỏ rằng Giới Luật hỗ trợ Giáo Pháp. Đứng về phương diệnPhật giáo, thật sự không thể quan niệm cái này mà không có cái kia. Dạy Pháp mà không có Luật thì không khác nào dạy suông một giáo lý mà không mở cửa, hay không hướng dẫn người học khởi đầu bước vào con đườngthực hành. Đàng khác, Luật mà không có Pháp thì chỉ là một nghi thức trống rỗng, một qui phạm không đem lại lợi ích hay kết quả nào. Cả hai phần trong Phật sự – Pháp và Giới – phải song hành, phải kề vai sát cánh, dầu trong sự tu tập của người cư sĩ hay của bậc xuất gia.
Người cư sĩPhật tửthuần thành tận dụng mọi nổ lực để nghiêm trì năm giới và thực hành ít ra Giáo Pháp trình bày trong “Lời kêu gọi của Sigāla”. Cùng thế ấy, thầy tỳ khưu có phẩm hạnh trong sạch phải tận lực cố gắng để khỏi rơi vào một trong 227 giới tu tập của Giới Bổn (Patimokkha, giới căn bản) mà thầy đã long trọngchấp thuận và chú nguyện nghiêm trì trong lúc thọ lễ xuất gia.
Ta thường nghe nói cư sĩ có 5 và tỳ khưu có 227 giới phải giữ tròn. Đúng ra, đó chỉ là một phần sự thật vì ngoài những giới căn bản Patimokkha còn có rất nhiều giới nhỏ khác rải rác đó đây trong tạng Luật.
Ở đây ta có thể ghi nhận sự khác biệt giữa Giới Luật của người cư sĩ và bậc xuất gia. Giới Luật của người tu tại gia có tính chất thiên về luân lý, tương tự như các điều răn cấm trong phần đông các tôn giáo khác (có lẽ trừ giới thứ năm, vì một vài tôn giáo khác không kiêng cử dùng rượu). Vì lẽ ấy, ngũ giới thuộc về loại “tự nhiên” (pakatisila, giới thiên nhiên). Trái lại, ngoài những giới thuộc về loại tự nhiên, thầy tỳ khưu còn nhiều giới khác nữa để khép mình vào một lối sốngđặc biệt. Các giới này được gọi là pannatti sila, “Giới Luật công thức hoá”. Mặc dầu người Phật tửtại gia có thể thấy không có, hay có rất ít, cơ hội để áp dụngtrong đời sống mình, đối với hàng tỳ khưu điều dạy “công thức hoá” này cực kỳ quan trọng, gồm những điều phải xa lánh và những việc phải làm để nâng cao phẩm hạnh. Không nên nghĩ rằng những Pháp tu học này kém quan trọng hơn các giới thuộc loại luân lýthiên nhiên bởi vì đây là những điều học để áp dụng vào đời sống thông thường, ở mức thế gian, nhưng có khả năng đem mức ấy đến lối sốngsiêu thế.
Đối với người cư sĩ cũng như hàng xuất gia, sự quan tâmlo lắng để cố gắnggiữ gìnGiới Luậttrang nghiêm, không để phải rơi vào sơ xuất nào có thể gọi là “thận trọng”. Trong tạng Luật có nhiều đoạn đề cập đến các “tỳ khưu thận trọng” (kukkuccāyanta bhikkhū) không chịu chấp nhận một vài điều luật cho đến khi Đức Thế Tôn cho ban hành. Lại nữa, ta cũng thường gặp những đoạn nhắc lại từ ngữ “các tỳ khưu ít tham vọng” (appiccha bhikkhū) xấu hổ vì hạnh kiểm không thích đáng và không thận trọng của những vị khác. Ở đây, một tia sáng đã rọi vào mối liên hệ quan trọng giữa Giáo Pháp và Giới Luật, một cách tổng quát. Do sự thận trọng này hay tính cách ít tham vọng, một số yếu tố tinh thần (tâm sở) phát sanh, hữu ích cho việc tu tập. Trong các tâm sở ấy, cặp “Hổ Thẹn và Sợ Sệt” lời khiển trách (hiri ottappa – hổ thẹn sợ sệt, tàn uý) thật sự được Đức Phật gọi là “những vị thần bảo vệ thế gian”. Hổ thẹn được nhận diện khi ta tự trách vì một hành động xấu đã hoặc sắp làm và khi cảm thấy lo sợ vì nghĩ đến hậu quả không tốt mà ta sẽ phải chịu, do nghiệp xấu đã tạo. Lo sợ bị chính mình tự khiển trách là sự kiềm hãm phát sanh do nỗi sợ người khác khiển trách, hay nỗi lo sợ rằng việc làm không tốt đẹp của mình sẽ đến tai những người mình kính trọng, như cha mẹ, thầy tổ v.v… Ít tham vọng là một danh từ khác để chỉ sự tri túc (santutthi), một đức tánh quý báu của hàng xuất gia. Yếu tố quan yếu khác của phẩm hạnh thận trọng và khiêm tốn là tâm niệm (sati), căn bảnhiển nhiên của mọi tu tập của tất cả những người Phật tử, dầu ở mức độ nào. Dầu ở vị trí phải giữ trong sạch bao nhiêu giới tu học, phải có tâm ghi chú, thận trọng, hay biết việc đang làm, mới mong bảo vệgiới đức. Không cần phải đề cập đến thân và khẩu nghiệp, chí đến việc tạo nghiệp bằng tư tưởng đi nữa, tâm niệm cũng giúp ta thận trọng và sáng suốt. Tâm niệm giúp ta thu thúc tất cả, và ta có thể hình dung sự thu thúc này xuyên quahình ảnh con rùa là một động vật, mỗi khi có chuyện bất thường xảy đến thì lật đật rút cẳng và đầu vào núp trọn vẹn bên trong cái vỏ, để tránh hiểm hoạ bên ngoài.
Đề cập đến lối sống của thầy tỳ khưu chơn chánh, có những câu kinh sau đây:
“Thu thúc nhãn căn là hữu ích,
Nhĩ căn thu thúc cũng hữu ích,
Thu thúc tỷ căn là hữu ích,
Thiệt căn thu thúc cũng là hữu ích,
Thu thúc thân căn là hữu ích,
Lời nói thu thúc cũng hữu ích,
Thu thúc ý căn là hữu ích,
Bất luận ở nơi nào, kềm chế được là hữu ích,
Ở đây, thầy tỳ khưu tự kềm chế bằng nhiều lối,
Rõ ràng là tự do. Vị tỳ khưu ấy thoát ra khỏi mọi bất hạnh.”
Pháp Cú Kinh 360
Tất cả Giới Luật trong tạng Luật có thể tóm tắt trong những câu này. Ở nơi khác, có lời kêu gọi chư tỳ khưu như sau:
“Này hỡi các tỳ khưu, hãy giữ giới hạnh (sīla) cho thật trang nghiêm, hãy thật trong sạch nghiêm trì các giới căn bản (Patimokkha), hãy sống thu thúc theo tinh thần các giới căn bản. Hãy có phẩm hạnh (và chỗ ở) toàn hảo, hãy nhận ra mối hiểm hoạ của những lỗi lầm, dầu hết sức nhỏ nhen, và hãy rèn luyện để hiểu biết chơn chánh các giới tu tập.”
Đức tánh thận trọng của thầy tỳ khưu chơn chánh phát sanh do những lời kêu gọi tương tợ. Và đã thận trọng, vị tỳ khưu tận lực cố gắng trau dồi như sau:
“Ta sẽ có giới hạnhtrang nghiêm. Giới bổn của ta sẽ hoàn toàntrong sạch. Ta sẽ sống thu thúc. Phẩm hạnh (và chỗ ở) của ta sẽ toàn hảo, vì ta đã nhận ra mối hiểm hoạ của những lỗi lầm, dầu hết sức nhỏ nhen…”
Nếu quan sát tận tường tánh cách bất cẩn, không thận trọng, dưới ánh sáng của các đoạn kinh trên ta sẽ thấy rõ ràng trong sự bất cẩn ít ra không có hạnh thu thúc, thiếu tâm niệm và cũng có thể có tâm không hỗ thẹn và sợ lời khiển trách (ahiri anottappa). Thông thường, trong tâm bất cẩn, có những luồng ái dục (tanhā) mà lắm khi ta không nhận ra. Tánh ngã mạn (māna) cũng có thể gieo ảnh hưởng (không muốn tự uốn mình vào khuôn khổ của Giới Luật) và tà kiến (miccha diṭṭhi) thường dính liền với ngã mạn, có thể làm vấn đề thêm phức tạp bằng cách bao trùm tất cả trong làn khói “lý do”.
Tuy nhiên, dầu thế nào chăng nữa, Đức Phật đã ca tụng những giới tu tập với những lời lẽ có thể ngăn ngừa những ai muốn xem đó là những “kỷ cương bề ngoài”, không quan trọng.
Bây giờ, những giới ấy phối hợp lại, tạo thành ba sự tu tập. Ba sự tu tập là gì? Là sự tu tập trong Giới tối thượng, sự tu tập trong Định tối thượng và sự tu tập trong Tuệ tối thượng. Ở đây, một và tất cả các giới ấy phối hợp lại… Vậy, này các Tỳ Khưu, người gìn giữtrang nghiêm được phần nào các giới sẽ chứng ngộ sự thành đạt từng phần tương xứng và giữ được toàn hảo các giới sẽ chứng ngộtrọn vẹn sự thành đạt. Như Laituyên bố rằng các giới tu tập này sẽ đem lại thành quả”.
Anguttara Nikaya 111,9,86
Và trong Pháp Cú Kinh có câu:
“Vị tỳ khưu đã thích thú trong sự thận trọng
Và nhìn sự bất cẩn với tâm sợ hãi
Cũng như đám lửa trong rừng khô, cháy vồ đến rất mau chóng,
Thiêu đốt tất cả những dây trói buộc, dầu nhỏ hay lớn”.
Câu 31
Bấy nhiêu, âu cũng đủ lý do để cho vị tỳ khưu đã quyết tâmgiải thoát, trong sạch bám chặt vào các giới tu tập!
Bây giờ, con đường của người đã ra đi – từ đời sốnggia đình vào trạng thái không nhà cửa – và đã thành thậtcố gắng trau dồi các giới tu tập mà chính mình đã chấp nhận, được xem là con đường dẫn ngay đến Niết Bàn. Do đó, quả thật là “bất thiện” nếu ta có hành động nào tạo trở ngại trên con đườngquả thật là một phước báu vô cùngtrọng đại.
Trong lối thực hànhPhật sự, có sự tương trợ lẫn nhau giữa hàng xuất gia và người cư sĩ. Một đàng hỗ trợ dưới hình thức truyền dạy Giáo Phápthích hợp để thực hànhtrong đời sống và một đàng nâng đỡtiện nghi vật chất, bằng cách cung phụng bốn món vật dụng: vật thực, thuốc men, chỗ ở và y bátcần thiết. Không có vị tỳ khưu nào xứng đáng với y bát nếu còn gây phiền phức, bất ổn cho người cư sĩ, thay vì chỉ mong giúp đỡ, tế độ.
Cùng thế ấy, người cư sĩhiểu biết, có nhiệt tâm với đạo pháp, chỉ nghĩ đến việc hỗ trợ và nâng đỡ các tỳ khưu và sa di.
Để thực hành điều này một cách chơn chánh, cả hai đàng tức nhiên phải có ít ra một ý niệm về cái gì có thể làm và cái gì không, theo tinh thầnGiới Luật mà Đức Phật đã ban hành.
Trong hiện tại, các tỳ khưu có phương tiệndi chuyểnrộng rãi hơn và có thể sống trong nhiều quốc gia mà trước kia không thể đến. Cũng có nhiều người từ những nơi không có Phật giáo sang ở trong một xứ đã sẵn có nếp sống theo truyền thốngPhật giáo. Như vậy ắt có người muốn tìm hiểu những điều nên làm và những việc không nên làm đối với nhà sư. Cũng có người cư sĩ muốn biết những điều cần thiết để cư xửthích nghi – nghĩa là đúng theo Giới Luật – đối với nhà sư.
Như vậy, người thiện tínthí chủ, cũng như những người thiện tín khác, cần phải biết vài điểm trong Giới Luật (Vinaya). Quyển sách nhỏ này chỉ đề cập đến những giới của hàng xuất gia có liên quan đến người cư sĩ. Người muốn hiểu biết đầy đủ các giới khác, thuần tuý tự viện, có thể tham khảo các quyển sách có nhiều chi tiết hơn.
[1] . – Trong kinh Tăng Nhứt A Hàm (Anguttara) ta còn tìm thấy hai lý do khác là: “Vì thiện cảm của người cư sĩ” (một quan điểm rất quan trọng) và “Để ngăn chặn những mối chia rẻ do các tỳ khưu có tâm dạ xấu” (chú trọng đến điều Giới LuậtTăng Già.)
Giới Luật của Hàng Xuất Gia Tỳ Khưu Khantipalo
Xem thêm:
https://thuvienhoasen.org/p18a13808/gioi-luat-pdf
Trọn Bộ Bản Dịch Về Tạng Luật Pāli (9 Tập) Tỳ Khưu Indacanda
Tứ Phần Luật