Sách “Nhận Thức Quán – Mười liệu pháp chánh niệm” của tác giả Henepola Gunaratana

blank
Tứ Đế, giáo lý căn bản của Phật giáo đã chỉ ra rằng sự tham ái, những khát vọng mù quáng cho dục vọngcá nhân, là nhân đưa đến tất cả những khổ đau và trôi lăn trong vòngsanh tử luân hồi. Tuy nhiên, ở một số giáo lý khác, Đức Phật cũng đã chỉ ra rằng mối liên hệnhân quả giữa tham ái và khổ đau không phải là cuối cùng. Tham ái, bản thân nó là nhân duyên, xuất phát từ căn nguyên sâu thẳm hơn, chính là Vô minh. Vô minh, Pāli là 
avijjā, là một ý nghĩa phủ định – sự thiếu hiểu biếtđúng đắn (vijjā). Điều này có nghĩa rằng, những gì thuộc về tham ái và những cảm xúc uế trược khác như lòng căm thù, giận dữ, ngã mạn, đố kỵ… là sự thất bại trong nhận thức.
Mục đíchtối hậu của việc thực hànhPhật đạo đó là việc đạt được sự đột phá về nhận thức để bạt nhổ gốc rễ vô minh vốn câu hữu trong tận sâu thẳm nơi tâm thứcchúng ta. Chính điều này đòi hỏi phải phác thảo một tiến trình tỉ mỉ. Để đạt được chiến thắng tối hậu, bên cạnh việc chặt đứt mối liên hệ giữa cảm thọái dục – điều đã được nói đến trong rất nhiều Kinh điển – mà còn là đảo ngược những tiến trình từ vô minh đến tà kiến. Điều này có nghĩa là sự nhận thức của chúng ta phải được chuyển hóa.
… Trong truyền thốngThượng Tọa Bộ, bài kinhnổi tiếng nhất về sự chuyển hoánhận thức là Kinh Girimānanda (Tương Ưng, 10.60). Trong Kinh này, Đức Phật dạy mười sự nhận thức, mà thực chất là mười lĩnh vực quán chiếu. Ngài không chỉ liệt kê chúng như đã làm trong bài kinh ngắn liên hệ trước, mà còn giải thích ngắn gọn tuần tự từng lĩnh vực bằng con đườngthực tập. Bài Kinh do đó cũng được xem là bảng trích yếusúc tích về chủ đềthiền quán. Song, Kinh Girimānanda lại được phổ biến một lí do khác nhau chẳng hạn như: Nó cũng dạy như một bài ‘Kinh Phòng Hộ’, (paritta), một bài Kinh của sự che chở, một ý nghĩa chữa lành. Như một bối cảnh để cho bài Kinh ra đời, Đức Phật dạy mười phép nhận thứcvì lợi ích cho vị Tăng đang bệnh tên là GirimānandaTỳ-kheo này được mô tả là người bệnh trầm trọng, có lẽ sắp mất. Và chúng ta được kể rằng ngay khi bài Kinh được giảng kết thúc, Thầy Girimānandasau khi học mười phép nhận thức này, Thầy đã khỏi hẳn bệnh, bình phục khoẻ mạnh…
Thiền của Phật giáo đã du nhập vào nền văn hóahiện đạiTây phương bằng con đườngthực tậpchánh niệm. Nó được rút ra từ những tư liệu gốc và được giảng dạy như một phương phápthanh tịnhthực tế. Bây giờ, nó không những được dạy như một phương tiện của trí tuệgiải thoát mà còn cho những mục đích xác định bởi giá trịbảo vệxã hội; chẳng hạn như thành tựuvật chất, sức khoẻ sinh lý, tính đại chúng, hiệu quả làm việc cao hơn. Nếu Phật pháp được ứng dụng một cách đúng đắn vào môi trường văn hoá hiện đại của họ như vậy, những phương pháp thiền căn bản phải hiển hiện trong mọi lĩnh vực của họ và được dạy dưới ánh sáng của trí tuệtriết họcPhật giáo. Kinh Girimānanda đáp ứng đầy đủ các tiêu chí này. Mười sự nhận thức được dạy trong Kinh bao trùm một lĩnh vực rộng lớn từ sự nhận thức về vô thường, vô ngãcho đếnsự quán chiếu đưa đến vô dục, chẳng hạn như sự quán chiếu bản chấtbất tịnh của xác thân và sự nguy hiểm trong bản chấtnhạy cảm của chúng ta đưa đến bệnh tật và huỷ hoại. Chúng bao gồm các sự thiền quán về Niết-bàn và chánh niệm trên hơi thở, một công cụ cho sự phát triển cả hai thứ là định tĩnh và trí tuệ…
Lời Giới Thiệu Của Ngài Bhikku Boddhi. Dịch giả: Thích Thanh An.
(Sách phát hành tại thư quán Hương Tích và Amazon)
blank