GIỚI LUẬTPHẬT
GIÁO VÀ ĐẠO ĐỨCXÃ HỘI
TN. Nguyên Liên
dịch
Phật
giáo có hệ thốnghọc thuyếtluân lýđạo đức cho chính mình. Trong quá trình
sáng lậptruyền bá và phát triển Phật giáo, đạo đứcPhật giáodần dần hình
thành và hoàn bị.
Đạo đứcPhật
giáophụ thuộctoàn bộ vào hệ thốnggiáo nghĩa của Phật giáo, nó đảm trách vai
tròđiều chỉnh sự hài hòa giữa Tăng nhân và nội bộ giáo đoàn, giữa tín đồ và
Tăng nhân, nhằm để tổng hợp các hành vi, quy tắc, tiêu chuẩn và ý chíđạo đức,
quan niệmluân lý của các mối quan hệ quần chúngxã hội, quốc gia với giáo đoànPhật giáo. Đạo đứcPhật giáo tuy thể hiệnrộng rãi trong giáo nghĩa và lý luậnPhật giáo, nhưng có thể nói sự thể hiện đạo đứcPhật giáotương đối tập trung
trong giới luậtPhật giáo.
I – GIỚI
LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨCPHẬT GIÁO
Giới, tiếng
Phạn là Sila, phiên âm là Thi La, nghĩa là quán hạnh, sau đó trong Phật giáo
nghĩa này được chuyển thành hành vi, tập quán. Tuy giới thông thiện ác, nhưng
đứng từ góc độ thiện của “giới” mà nhìn thì đôi lúc giới cũng được hiểu như là
đạo đức, tính thiện, cung kính v.v….Trong Đại Trí Độ Luận quyển thứ 13 có ghi:
“hiếu hành thiện đạo, bất tự phóng dật, thị danh thi la.
Hoặc thọ giớihành thiện, hoặc bất thọ giớihành thiện, giai danh thi la” (nghĩa là thích
hành nghiệp thiện, tự mình không phóng dật, gọi là thi la, hoặc thọ trìgiới
luật, hành pháp thiện lành, hoặc không thọ trìgiới luật, không thực hành pháp
thiện, đều gọi là thi la).
Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni sau khi sáng lậpPhật giáo, số lượng tín đồ và Phật tử không ngừng
tăng lên, để mối quan hệ giữa Tăng chúng và nội bộ giáo đoàn, giữa Tăng nhân và
tín đồ, giữa dân chúng xã hội và giáo đoàn nhịp nhàng cân đối, và để thích ứng
với nhu cầu truyền giáo, trên mặt giáo nghĩa, ngoài mục tiêunâng cao những
quan niệmtư tưởng, lý luận và dẫn dắt sự tu hành cho đồ chúng, Ngài còn căn cứ
vào những vấn đề phát sinh trong nội bộ giáo đoàn để lần lượt đưa ra rất nhiều
những qui tắc, qui củ, giáo điều, giới cấm…để ước thúc hành viphóng túng của
đệ tử, Phật giáo gọi đó là giới cấm, giới điều hoặc học xứ, tất cả những điều
đó đều dùng để phòng phi chỉ ác.
Sau khi Đức
Phậttịch diệt, trong quá trình phát triển và truyền báPhật giáo, giới luậtPhật giáo cũng theo đó mà phát triển, nhưng trên căn bản vẫn trung thành với
những giới điều do Đức Phật chế định. Dựa vàotình hình khác nhau của tín đồ Tăng
(Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni), tục (nam cư sĩ, nữ cư sĩ) mà chế định 5
giới, 8 giới, 10 giới, cụ túc giới…Quy điều của những giới này nằm rải rác trong
kinh A Hàm, ngoài ra ở thời kỳPhật giáobộ phái những giới luật trong hệ tư
tưởng Nam truyền Phật giáo cũng đã biên tập thành sách như Ma Ha Tăng Kỳ Luật,
Tứ Phần Luật, Thập Tụng Luật, Ngũ Phần Luật v.v…
Từ giai đọan
Phật Giáo Nguyên Thủy họ đã biên chép một cách có hệ thống và không ngừng bổ
khuyết để hình thành tạng luật, tuy nhiêngiới luật đến từ sự truyền thừa không
giống nhau của các bộ phái nên số lượng giới điều cũng không giống nhau, song
thống nhất trên nội dung căn bản. Thời kỳ trước và sau công nguyên, thời kỳxuất hiệntư tưởngĐại thừa Phật giáo, giới luậtĐại thừa đã hình thành. Những
kinh điển tương quan nhau như những bộ kinhnổi tiếngPhạm Võng Kinh, Du Già Sư
Địa Luận . Bồ Tát Giới Phẩm..v.v… của hệ tư tưởngđại thừa đã cùng tồn tại,
phát triển song song và phụ trợ lẫn nhau với những giới luật thuộc tư tưởng Nam
truyền lượt thuật trước đó.
Từ nội dung
giới luậtPhật giáo có thể thấy được, Phật giáo chế định giới luật chủ yếu có
hai tình huống:
Giới điều của
Phật giáoxuất phát từ những điều lệ phép tắc của luật pháp và đạo đứcthông
hành trong xã hội đương thời. Chúng ta có thể lấy ví dụ từ giới “không sát
sanh”, một giới điều chung cho Tăng nhân và tín đồ tục thế đã bao hàm nội dung
“không giết người”. Nói về giới “không trộm cắp”, thực tế là bất kỳ trong luật
phápquốc gia nào cũng đều có điều khoản này. Giới “không vọng ngữ” (tức không
nói láo, không nói lời thô ác…) cho đến giới “không tà dâm” (tức không nảy sinh
quan hệ bất chính) trong gia đìnhtín đồ, trên thực tế đều có trong những quy
phạmhành viđạo đứcxã hội. Phật giáo xem những điều quy phạm phép tắc đó là
“giới tính” cũng gọi là “tính trọng giới” tức những người phạm những giới điều
đó sẽ bị trọng tội.
Ngoài ra một
tình huống khác nữa là trong bát giới, thập giới, đều có giới không tô son điểm
phấn, uớp hương hoa, không nằm giường cao, chiếu rộng, chỗ tốt đẹp, không xem
hát múa đờn kèn, yến nhạc vui chơi, trong thập giới không ăn quá thời, không
nên tiếp xúc tiền bạc, vàng, ngọc, đồ quý báu, và một phần lớn trong giới Đại
thừa của cụ túc giới Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni đa phần nói lên sự hạn chế việc tiêu
dùngthái quá về y phụcvật dụng, ngăn dừng những ngôn ngữ, hành vi không kiểm
soát, không giữ gìn v.v… tất cả đều xuất phát từ sự quán triệt giáo nghĩatu hành
“thiểu dục tri túc” (ít muốn biết đủ), đoạn trừ tham ái v.v…hướng dẫn tín đồđạt đếnmục đíchthoát khỏiphiền nãotử sinh.
Những giới cấm
và “tính giới” tương đối đã nói ở trên đều được gọi là “giá giới” cũng được
xưng là tức thế cơ hiềm giới (gọi tắt là cơ hiềm giới,
cũng gọi là giá giới. Như sát đạo dâm vọng v.v… không đợi Đức Phật chế định mà
tự thân nó đã đầy đủ tội gọi là tính giới, ngoài tính giới ra, giới pháp của Tỳ
Kheo phần nhiều là giữ gìntư cáchTỳ Kheo, đồng thời dừng lại ở chỗ tránh sự
chê cười, hiềm khích của thế nhân mà chế giới, ví dụ như cấm buôn bán, làm mai,
uống rượu v.v…. nói chung giới này chỉ là những khinh giới, mục đích ngăn phòng
sự phê bình, chế giễu của thế gian.
Trong Tứ Phần
LuậtHành Sự Sao Tư Trì Ký quyển thượng có nói:
Tính giới vốn
có, bất luận là Đức Phật chế ra hay không chế ra, người phạm phải giới này đều
kết tạo thành nghiệp, đọa trong ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh; giá giới thì
không như vậy.
Ở đây muốn nói,
tính giới của Phật giáo tức trọng giới, trong xã hội vốn đã có điều cấm của
luật pháp giống như vậy, nhưng dựa theo cách nói của Phật giáo, vi phạm những điều
cấm này sẽ phạm nghiệp tội nặng, sau khi chết sẽ gặp phải những quả báo xấu ác,
luân hồi trong ba cõi; nhưng khinh giới trong Phật giáo thì sau khi Đức Phật ra
đời mới lần lượt chế định. Trong Kinh 《Đại Bát Niết Bàn》quyển thứ 11 lấy bất sát, bất đạo, bất dâm, bất vọng ngữ gọi là
“tứ tính trọng giới”. Còn những việc buôn gian bán lận để gạt người, kinh doanh
ruộng đất, kinh thương lớn lao, nuôi súc vật, mướn tôi tớ v.v…gọi là “tức thế
cơ hiềm giới”.
Đương nhiên
cũng có tình trạngnhư vầy: có những điều khoản thuộc quy phạmđạo đức, một số
quy củ, phép tắc nào đó của xã hội đã được Phật giáosửa đổi và khuếch đại giá
trị hàm ẩn của nó, ví dụ giới “bất vọng ngữ” trong cụ túc giới Tỳ Kheo, đã cấm
tự mình thổi phòng cho rằng mình đã đắc đạo, đã chứng thành bậc A La Hán, được
thần thông v.v…Giới “bất tà dâm” mở rộng thành “bất dâm” cấm tất cả những mối
quan hệ với bất kỳ người khác phái nào, dùng giới “bất sát sanh” mở rộng thành
không giết tất cả những loài vật có mạng sống, hàm ý của nó còn bao gồm sự ước
thúc những hành vi giết bên trong nội tại như hoặc tự giết, hoặc bảo người khác
giết, hoặc điều khiển sai bảo người ta giết v.v
Song cũng nên
chỉ ra, giới luậtPhật giáo tuy có mối quan hệ mật thiết với đạo đứcxã hội,
một số giới điều quan trọng đã được kiến lập cơ sở các chuẩn tắc đạo đức. Nhưng
ngoài những đạo đứcphổ thông trong xã hội ra giới luậtPhật giáo còn hàm tàng
những luân lýđạo đức khác.
Như chúng ta đã
biết, đạo đứcxã hội được hình thành trong quá trình hun đúc, tích tập, lắng
đọng và bảo hộ các truyền thống tập quán, văn hóa, phong tục xã hội, dư luận, ý
chíđạo đứccá nhân, tình cảm đạo đức cộng đồng…đạo đức xã hội dùng để đánh giá
khái niệm hành vi và quan niệmđạo đứcxã hội, trong đó có các quan niệm về
thiện – ác, công chánh – thiên vị, thành thật – hư dối, trung thực – gian trá,
hiếu thảo – bất hiếu v.v….
Nếu người có
tình cảm đạo đức cao, làm xuất sắc những việc phù hợpđạo đức, khi nhận được sự
tán dương của xã hội, cá nhân người đó cũng cảm thấyvui vẻ, an lòng và mãn
nguyện về đạo đức của mình. Ngược lại, người nào bị dư luậnxã hội khiển trách,
cá nhân họ sẽ cảm thấyáy náybất an, tự mình luôn trách cứ mình. Giới luậtPhật
giáo đã thể hiệntương đối tập trung về đạo đứcluân lý của Phật giáo, đương
nhiên, trên một trình độnhất định nào đó cũng có thể vận dụng khái niệm đạo đứcđặc sắc của Phật giáo tiến hành đánh giá các hành viđạo đức, điều này cũng là
một cách thể hiện sự bảo vệtôn nghiêm đối với những giới quy, thúc đẩytín đồPhật giáo chủ động tuân giữ quy phạmđạo đức và những giới điều; những khái
niệm này gồm có: ác và thiện, tịnh và nhiễm, đạo đức và phi đạo đức, chánh và
tà, trì giới và phá giới. Nhưng giới luậtPhật giáohoàn toàn không giống với
đạo đứcxã hội, sự khác biệt ở chỗ:
1 – Giới điều
Phật giáo không phải toàn bộ là các quan niệm về qui tắc đạo đức, ví dụ trong
cụ túc giới của Tăng Ni đa phần đều là những qui định cụ thể về hành visinh hoạt
thường ngày, như trong tội “Tăng tàn” không cho phépkiến lập phòng ốc nhà cửa
ở những nơi không thích đáng. Trong tội xả đọa, có quy địnhcụ thểcá nhân chỉ
được giữ những một số y vật nào đó. Trong “chúng học pháp” có quy định những lễ
nghĩa và những quy tắcsinh hoạt thường ngày, tuy trên phương diện nào đó đã
thể hiệntinh thầnđạo đức, nhưng bản thângiới luật không hoàn toàn thuộc về
phạm trùđạo đức.
2 – Giới luậtPhật giáo không những chỉ dựa vào sự khiển trách nội tâm, tự giácđạo đứccá
nhân, dư luậnTăng chúng và xã hội để tiến hành bảo vệ sự tôn nghiêm của tăng
đoàn, mà trong quá trình bảo vệ nó còn mang tính cường chế đặc thù, ví dụ vi
phạm bốn trọng giới: dâm, đạo, sát, vọng sẽ bị đuổi ra khỏi Tăng đoàn; vi phạm
tội “Tăng tàn” sẽ dựa theo trình tự qui định mà sám hối, khi sám hối đạt yêu
cầu mới có thể tiếp tục được lưu giữ trong Tăng đoàn; điều này không giống với
đạo đứcxã hội khi họ thông qua quy củgia đình, kỷ luật đoàn thể để tiến hành
phê bình, gợi nhắc tinh thầnsám hốicá nhân v.v…
3 – Trên mặt
chỉnh thể, giới luậtPhật giáo thuộc về hệ thốnggiáo nghĩaPhật giáo. Giới
luật đã kết hợpmật thiết cùng với giáo thuyết nhân quảthiện ácbáo ứng đặc thù
của Phật giáo để tiến hành lýluận giải thoát.
II – Ngũ
giới, thập thiện: trong giới luậtPhật giáo, năm giới mang ý nghĩa sắc thái đạo
đứchiện đại nhất, và thập thiện được xem là mười điều thiện của đạo đức.
Thập thiện
không những chỉ bao hàm khái quát nội dung năm giới mà nó còn là cơ sở của năm
giới, nó mang ý nghĩa sâu sắc rộng rãi hơn năm giới. TrongKinh A Hàm và rất
nhiều kinh Phật khác đều nói rõ về mười điều thiện, đặc biệt vào đời Tùy, Ngài
Cù Đàm Pháp Trí dịch Nghiệp BáoSai Biệt Kinh, vào đời Đường, Ngài Thật Xoa Nan
Đà dịchhập Thiện Nghiệp Đạo Kinh những Kinh này đã được nhiều vị luận sưnghiên
cứu, giảng nói. Nói về mối quan hệ giữa năm giới và thập thiện, xin xem dưới
đây:
Thập thiện:
– không sát
sanh
– không tà dâm
– không trộm cắp
– không vọng ngữ
(bất vọng ngữ, bất lưỡng thiệt tức không khiêu khích đề bạt thị phi), bất ác
khẩu (không nói xấu người, mắng người), bất ỷ ngữ (không nói lời điêu ngoa, xảo
trá).
– Không tham dục,
sân nhuế, si mê (không trái vớigiáo lý của Phật giáo)
Ngũ giới:
– không sát
sanh
– không trộm cắp
– không tà dâm
– không vọng
ngữ
– không uống rượu
Ba nghiệp thiện
của ý trong mười giới, không tham dục, không sân nhuế, không tà kiến là lý
thuyết của Phật giáo dùng để đối trị những phiền nãocăn bản như tham, sân, si,
ngăn chặn nguyên nhân tạo ra sự luân hồi sanh tử cho nhân sanh. Phải nói đó vừa
là mục tiêutinh thần mà Phật giáo truy tìm, cũng là quan niệm tổng quát của
đạo đứcPhật giáo, là điểm xuất phát chung để chế định tất cả giới luậtPhật
giáo. Ba điểm này đã thể hiệntự nhiên trong năm giới và tất cả giới luật. Ba
nghiệp thiện của thân cùng ba giới trước trong năm giới đều giống nhau.
Bốn nghiệp
thiện của khẩu trong thập thiện: không vọng ngữ, khônng lưỡng thiệt, không ác
khẩu. Không ỷ ngữ là sự ngăn cấm từ gốc độ khác nhau, tức ngăn cấm dùng lời nói
để lừa gạt người, tổn hại ngươi, quấy rầy gây rối hoàn cảnh môi trường xã hội
và quan hệ giao tế giữa người với người. Trong ngũ giới tuy có giới “bất vọng ngữ”,
nhưng nội dung của nó có thể bao gồm ba khẩu nghiệp khác. Còn như không uống
rượu trong năm giới, nói nghiêm túc nó thuộc về qui tắc đạo đức, là qui định
của Phật giáo. Uống rượu có thể làm cho tinh thần người ta tê liệt, làm mất đi
sự ước chế đối với chính mình, làm cho mình dễ dàng phạm giới luật, vi phạmhành viđạo đức, vì thế phải nghiêm cấm.
Ngũ giới tuy
chế định cho tín đồtại gia của Phật giáo, nhưng thực tế cũng bao hàm trong cụ
túc giới của Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cũng có trong “thập trọng giới” của Đại thừa giới.
Vì vậy có thể nói năm giới là giới điều của tất cả tín đồPhật giáo, cũng là
dùng để chỉ đạo những quy tắchành viđạo đức của chính mình. Trong quá trình Trung
Quốchóa Phật giáo, học giả Phật giáo gần với ngũ giới hơn là ngũ thường của
Nho giáo (nhân nghĩa, lễ trí tín) vì họ thấy được trong ngũ giới đã hàm ẩn ý
nghĩa đạo đức, họ đã đem ngũ giới, thập thiện của Phật giáo và luân lý của Nho
giáo dung hợp lạivới nhau, do vậy mở rộngý nghĩa hàm ẩn của thập thiện và năm
giớitruyền thống, điều này có lợi đối với việc truyền báPhật giáo đến với các
giai tầng xã hội, đồng thờiPhật giáo cũng ảnh hưởng rộng lớn đối với quần
chúng.
Ở thế giới ngày
nay, trong sự phát triển cao độ, đồng thời về công nông nghiệp và khoa học kỹ
thuật, xã hộinhân loại đang đối diện với vô sốvấn đề, và con người càng ngày
càng đạt đượcý thức chung về việc nâng caotinh thầnđạo đức và sự tu dưỡngvăn hóa cho chính bản thân mình. Ơû đây người viết muốn nói, nên phát huy Tôn giáo
trong việc nâng caotác dụng tình cảm đạo đức và tu dưỡngđạo đức của con
người. Phật giáosở dĩ có chiều dày lịch sử là vì Phật giáo luôn vì tín đồ
thuyết giáo đạo đức, làm cho con ngườithuần thụcđạo đức, những tinh thầnđạo
đức mà hoàn toàn có thể thích ứng với đặc điểm của thời đại, có thể đưa ra
những giải thíchhợp lý và mới mẻ, có tính khoa học, để nhân loại trong thời
đại ngày nay có thể tiếp nhận, đồng thời đẩy mạnh sự phát triển một nền văn
minhlành mạnh cho nhân loại.
Đạo đứcPhật
giáo làm thế nào để thích ứng với xã hộihiện đại, đã cống hiến được những gì
mới mẻ cho xã hội hiện đại? Người viết cho rằng có thể bắt đầu từ sự giải thíchnăm giới, thập thiện, sau đó hướng đến tín đồ, quảng đạiquần chúng trong xã
hộituyên dương và phổ cập những ý nghĩa và tác dụngsâu rộng của nó.
Ví dụ không sát
sanh trong ngũ giới, không chỉ bao bàm ý nghĩa không giết người mà còn phải
biết yêu quý động vật, đồng thờiđề xướnglòng nhân từ, có sự tôn trọng sinh mạng,
yêu thươngquần chúng dân tộc và các quốc gia trên thế giới, phản đốitinh thầnphân chia và bức hại chủng tộc giữa các dân tộc với nhau, chặn đứng chiến tranh
và bảo vệ hòa bình; không trộm cắp không chỉ có ý nghĩa không trộm cắp đồ vật
của người khác mà còn phải không nên dùng những thủ đoạn xảo trá, dối gạt người
để lấy dùng tài sảnvật dụng của người khác, đồng thờiphản đối các cường quốc
dùng những thủ đoạn buôn bán mậu dịch không chánh đángcho đến cưỡng chế, cướp
đoạt những tài vật của người dân cho đến các quốc gia nghèo yếu; không tà dâm,
không chỉ ngăn dừng cá nhân phát sinh những quan hệ lưỡng tính bất chính, mà
còn phải ngăn dứt các hiện tượnghành vi xấu ác về buôn bán sắc tình đưa đến sự
nguy hại cho phụ nữ, trẻ em, thanh niên; không vọng ngữ, không chỉ bao hàm
không nói lời dối trá giữa cá nhânvới nhau, không nghĩ đến việc lường gạt
người, đề xướng đưa ra những quan hệ giao tế thành tín giữa người với người, mà
còn phản đối những lời nóihoang đường không chân thật khi các quốc gia giao tế
với nhau, phản đối việc dùng những thủ đoạn đê tiện xảo trá lường gạt nhân dân
và đe dọa sự sống của họ để tự mình đạt được những lợi ích không chính đáng về
chính trị; không uống rượu, đối với người thường giới này khuyên nếu có uống
rượu thì uống với số lượng vừa phải, đồng thờiđề xướng việc hạn chế hút thuốc,
ngăn ngừa sự ô nhiễm gây nguy hại đến vệ sinh công chúng, tránh được hiện tượng
nguy hại đến công chúng về việc buôn bán ma túy, chích ma túy v.v….
Nói về không
tham, không sân, không tà kiến trong thập thiện, bao hàm các phương diệnrộng
rãi, có thể đề xướngtinh thần “công chính vô tư ”, “liêm khiết và hòa hợp” ,“khoan
dung” ,“vì cộng đồng mà phục vụ”, “truy cầu và kiên trì với chân lý” v.v…trong
xã hộihiện đại để tiến đến sự dung hợp và trong những trường hợp khác nhau nên
mở rộng sự tuyên xướng. Đối với việc kiến tạo nền văn minhđạo đức cho xã hộihiện đại, tinh thầnthập thiện rất cần thiết đối với mọi người và quốc gia.
Nói về vấn đềPhật giáothích nghi với xã hộihiện đại, có rất nhiều vấn đề đáng được chúng
tanghiên cứuthâm sâu. Ở trên người viết đã nói đến vấn đềnhận thức và sự
thích ứng của đạo đứcPhật giáo đối với hoàn cảnhxã hội và thế giới mới, mục
đích muốn giải thích đây là một trong những vấn đề quan trọng.
TN Nguyên
Liên (dịch)