Vô Ngã

VÔ NGÃ
No I, No Me, No Mine

Panna (Wisdom, Discernment)
Panna (p): Bát Nhã—Trí huệ—Wisdom or penetrative insight—Trí tuệ trực giác về chân lýtối thượng.
Tác phẩm: Living this life fully- Stories and teachings of Munindr Tác giả Mirka Knaster
Nguyễn Thượng Chánh, chuyển ngữ

living-this-life-fully-coverliving-this-life-fully-coverÝ
niệm
về cái “TÔI”

Sau thời gian hành thiền tích cực, thiền sư Munindra
đã quán được thế nào là lý vô ngã amatta.Ngài
có thể giải thích bằng cách nào cánh cửa lục căn six sense doors có thể dẫn đến: nhãn sight, nhĩ sound, tỷ smell, thiệt taste, thân touch, ý thoughtchúng tathường hiểu một cách sai
lầm
ý niệm về cái “Tôi” (I).

Bất cứ điều gì chúng ta thấy, đều không phải “tôi” (not
I), không phải “là tôi” (not me),không phải là đàn ông và cũng không phải là đàn
bà.

Trong mắt, chỉ có màu sắc. Chúng xuất hiện ra rồi biến
đi.Vậy thì ai đã nhìn thấy vật thể (object)? Không có người thấy(seer) ở trong vật
thể.Vậy thì nhờ vào những nguyên nhân nào mà mắt nhìn thấy được. Đó là những gì?

*Thứ nhứt, mắt là một nguyên nhân;chúng phải được vẹn
toàn và phải còn tốt.

*Thứ hai, vật thể và màu sắc phải được hiển hiệntrước
mắt
và phải được phản chiếu trên võng mạc (retina) của cặp mắt.

*Thứ ba, phải có đủ ánh sáng.

*Thứ tư, phải có sự chú ý, là một yếu tố tinh thần.

Nếu có sự hiện
diện
đầy đủ của cả bốn yếu tố trên thì sẽ nảy sinh ra yếu tố tri nhận (knowing
faculty), hay nhãn thức (eye consciousness).

Nếu thiếu bất kỳ một nguyên nhân nào thì sẽ không có
được sự thấy.

Nếu mắt bị mù lòa, thì không có sự thấy. Nếu không có ánh
sáng cũng không thấy được. Nếu không
sự chú ý thì cũng không thấy được.

Nhưng không có một nguyên nhân nào trong số trên có
thể nhận rằng Tôi là người thấy (I’m
the seer). Cảnh không ngớt xuất hiện ra rồi biến đi.

Khi hình ảnh vừa qua đi, chúng ta nói “tôi đang thấy”(I
am seeing). Không phải bạn đang thấy; bạn
chỉ nghĩ rằng
(thinking), “tôi đang thấy”. Đó là một trạng thái được điều kiện
hóa(conditioning). Vì tâm ý bị bị đặt trong điều kiệnlệ thuộcnhân duyên, nên khi
chúng ta nghe một âm thanh, chúng ta nói “tôi đang nghe” (I am hearing).

Tất cảsinh diệt biến hiện không ngừng. Nhưng thật sự
ra không có người nghe (hearer) đang chờ trong lỗ tai để nghe. Âm thanh tạo ra làn
sóng và dội vào màng nhĩ tạo nên nhĩ thức (ear consciousness), làmột quả
(effect). Âm thanh không phải là người đàn ông, không phải là ngườiđàn bà; nó
chỉ là tiếng độngxuất hiện ra rồi biến đi. Nhưng do điều kiện hóa mà, mình nói
“người đàn bà đó đang hát và tôi đang nghe”. Nhưng bạn không có nghe, bạn chỉ nghĩ rằng
(thinking) là bạn đang nghe (I am hearing). Âm thanh đã được nghe và nó đã biến
mất rồi. Không có cái “Tôi” (no I) nghe âm thanh; đó chỉ là một thế giới vềý niệm
(a world of concept).

Đức Phật khai thịởhai mức độsắc giới (physical
level) và mức độtâm thức (mental level): bằng cách nàotất cả sự vật xảy ra mà
không có(một) người diễn xuất (actor), hay (một)người hànhsử (doer)- tánh không(empty phenomena)tiếp nối ra
liên tục.

Thiền sư Munindra giải thích thêm rằng việc đồng hóa
vào người diễn xuấtsẽdẫn đến sự đau khổdukkha
(khổ đế):

Cái “Tôi” làmột chướng ngạihindrance to lớn nhất trên con đường dẫn tới giác ngộ enlightenment.

Tất cả tham (greed), sân (hate), si (delusion) đều xuất
phát
từ ý niệm của bản ngã (ego). “toàn cả thân,tâm ý là tôi”(My whole body and
mind is me) hay “Có ai đó ở trong tôi”(There is someone in my body) hay “Trong tâm
ý, có cái ta atman, linh hồnhiện hữu
hay có ai đó đang kiểm soátmọi việc và đang thấy tất cả”(In the mind, there is atman, asoul exists, someone who is
controlling everything, who is seeing.).

Ngoài ra còn có niệm tưởng nhìn nhận “là tôi” (me).Để
bảo tồn cái “tôi” (I), tất cả các sự căng thẳng, tất cả sự bực dọc, tất cả nỗi âu
lo đều hiện ra: “Đó là tôi” (It’s me).”Đó là tâm ý của tôi” (This is my mind).
“Đó chính là thân của tôi” (This is my body). “Đó là căn nhà của tôi” ( This is
my house). “Đó là gia đình của tôi” (This is my family).” Đó là xứ sở của tôi”
(This is my country).

Thân kiến từ vô thỉ (Self illusion from time
immemorial). Dó là một cái nhìn sai lạc.Mọi tà kiếnmiccha phải được rửa sạch trong bước đầu để nhập niết bànnibbana.

Một khi chánh trí kiến (right understanding) đã phân
biệt
được cái ảo giác về tự ngã (self created ego) rồi thì mối quan hệ sẽ trở nên
thân hữuhuynh đệ hơn. Nó sẽ đem lại một sự hài hòa và tình đoàn kết giữa các
quốc giavới nhau. Khi chúng thấu hiểu được một quy trình hành sử rồi, thì chúng
ta
cũng sẽ biết được các quy trình khác.

Các vấn đềcăn bản đều giống nhau cho nên bản chất của
chúng cũnggiống nhau hết.

Thiền sư Munindra còn làm sáng tỏ thêm ýniệm tại sao
chúng ta dùng chữ “tôi” (I), “làtôi” (me) và “của tôi” (mine). Tất cả đều được sử dụng không ngoài mục đích giúp cho
việc cảm thông nhau được dễ dàng hơn..

Nhà khoa học nói rằng mặt trời mọc ở hướng Đông và lặn
về hướng Tây; nhưng mặt trời có bao giờ mọc, có bao giờ lặn đâu. Họ hiểu rõ các
vấn đề trên, nhưng họ vẫn sử dụng các ý trên để cho dễ hiểu. Chúng làn hững ý niệm (concepts)- mọc, lặn, Đông hay Tây. Trong thực tế, không
có Đông hay Tây.

Nhưng chúng rất cần thiết trong mối giao tiếp
(communication) lẫn nhau./..

“ …Này Hiền giả, trí tuệý nghĩa là thắng tri (Abhinnattha),
có nghĩa là liễu tri (Parinnattha), có nghĩa là đoạn tận (Pahanattha).”…

Trung Bộ Kinh
Thích Minh Châu
Vedalla Maha

http://cusi.free.fr/dtk/trungbo/trung043.htm

Trung Bộ Kinh
Majjhima Nikaya

43. Đại kinh Phương
quảng

(Mahàvedalla sutta)

Thepurpose
of wisdom, friend, is direct knowledge, its purpose is full understanding, its
purpose is abandoning
.

-SARIPUTTA, MN 43.12

Montreal,
May 13 2011