“Vô Ngã” Còn Phải “Vô Pháp” Chăng? Phan Minh Đức Từ “vô ngã” trong tiếng Pàli là “Anatta”, trong đó “Na” có nghĩa là “không” và “Atta” có nghĩa là “ngã”. Chữ Atta (ngã) có hai nghĩa: 1.Tôi, ta (đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít dùng để chỉ chính mình). 2.Là một danh từ có nghĩa: Ngã (tôi, ta), tự ngã, linh hồn (thực thể vô hình thường còn mãi mãi trong mỗi hiện hữu, một thực thểvĩnh cửu, thường hằngbất biến). Khi bản kinh truyền sang Trung Hoa, các dịch giả dịch là “vô ngã” (không có ngã) hay “phi ngã” (chẳng phải ngã). Vô ngã là khái niệm diễn tảbản chất của thực tại. Bằng tuệ giácĐức Phật thấy rõ bản chất của mọi sự vật hiện tượng (kinh Phật gọi là các pháp) là vô ngã, tức con người và thế giới là không có tự tính (không có bản chấtnhất định, cố hữu), không có tự thể (không có thực thểnhất định, cố hữu, không tự mình tồn tại), do duyên sinh (hình thành từ nhiều điều kiện, yếu tố), không đồng nhất (luôn trong tình trạng thay đổi, trở thành cái khác với trước đó). Vì thế cho nên ở con người cũng không có một cái ngã làm chủ tể (có quyền quyết định, sai sử), không có một linh hồnthường hằng, bất biến. Đây là sự thật, là chân lý về thực tại, về thế giới và con người mà Đức Phật thấy được bằng tuệ giácsiêu nhiên chứ không phải là giả thuyết, không phải là điều do Đức Phậttư duy và tưởng tượng ra. Lý vô ngã được Đức Phật nói rất rõ trong kinh Anatta Lakkhana sutta (kinh Vô ngã tưởng hay kinhNăm vị thuộc Tương ưng bộ kinh III, tương đương kinh số 5 trong Tạp A hàm): Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Thế Tôn ở trong Lộc uyển (Isipatana Migandhana), thành Ba la nại (Benares). Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn nói với năm thầy tỳ kheo (lúc này năm vị đạo sĩ đã xuất gia nên Phật gọi họ là tỳ kheo) rằng: _Này các tỳ kheo, sắc này là vô ngã. Nếu sắc là ngã, thời sắc không thể dẫn đến khổ não, và có thể mong rằng sắc của tôi là như thế này, sắc của tôi không phải như thế này. Này các tỳ kheo, vì sắc là vô ngã, nên sắc dẫn đến khổ não và không thể mong rằng sắc của tôi là như thế này hay sắc của tôi không phải như thế này. _(Thọ, tưởng, hành, thức, cũng tương tự như thế). Này các tỳ kheo, thọ, tưởng, hành, thức là vô ngã. Nếu thọ, tưởng, hành, thức là ngã, thời thọ, tưởng, hành, thức không thể dẫn đến khổ não, và có thể mong rằng thọ, tưởng, hành, thức của tôi là như thế này, hay mong rằng thọ, tưởng, hành, thức của tôi không phải như thế này. Vì thọ, tưởng, hành, thức là vô ngã, nên thọ, tưởng, hành, thức dẫn đến khổ não và không thể mong rằng thọ, tưởng, hành, thức của tôi như thế này, hay mong rằng thọ, tưởng, hành, thức của tôi không phải như thế này. _Này các tỳ kheo, các thầy nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường? _Bạch Thế Tôn, là vô thường. _Cái gì vô thường là khổ hay vui? _Bạch Thế Tôn, là khổ. _Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi? _Bạch Thế Tôn, không. _Thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường? _Bạch Thế Tôn, là vô thường. _Cái gì vô thường là khổ hay vui? _Bạch Thế Tôn, là khổ. _Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi? _Bạch Thế Tôn, không? Do vậy, này các tỳ kheo, phàm sắc gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc trong hay ngoài, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, cần phải được như thật quán với chánh trí như sau: “Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi”. _Phàm thọ gì, tưởng gì, hành gì, thức gì, quá khứ, hiện tại, vị lai, hoặc trong hay ngoài, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, cần phải được như thật quán với chánh trí như sau: “Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi”. _Này các tỳ kheo, thật vậy, đa văn Thánh đệ tửnhàm chán đối với sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Do nhàm chán, vị ấy ly tham, do ly tham vị ấy giải thoát. Khi giải thoát vị ấy biết rằng đã giải thoát. Trong sự giải thoát trí khởi lên: “Ta đã được giải thoát”. Vị ấy biết rõ: Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, không còn trở lại với trạng thái này nữa. Thế Tôn thuyết như vậy, năm vị tỳ kheohoan hỷtín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi lời dạy này được nói lên, năm vị tỳ kheođược giải thoát các lậu hoặc, không còn chấp thủ.
Đầu tiên Đức Phật tuyên bố cho chúng ta biết mỗi nhân tố góp phần làm nên con người (cơ thể vật lý và tâm lý) như sắc, thọ, tưởng, hành, thức vốn không có bản chấtnhất định, cố hữu (vô tự tính), không có thực thể riêng biệt, không đồng nhất (khi như thế này, khi như thế khác, luôn luôn biến chuyển, đổi khác tùy thuộcđiều kiệnnhân duyên), có nghĩa là sắc vô ngã, thọ vô ngã, tưởng vô ngã, hành vô ngã và thức vô ngã. Sắc là phần cơ thể vật chất, thọ là cảm giác, tưởng là tri giác (chức nănghồi tưởng, so sánh, đối chiếu, sắp xếp những hình ảnh mà thức tiếp nhận để kinh nghiệm, hiểu biết, đặt để khái niệm), hành là ý chí, hành vi, tập khí-thói quen, thức là nhận biết qua các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý (giống như tấm gương phản chiếuhình ảnh), mỗi thành tố này vốn không có ngã (chủ tể, linh hồn) trong nó, mỗi thành tố này cũng không phải là ngã (sắc không phải ngã và cũng không có ngã trong nó; thọ không phải ngã và cũng không có ngã trong nó; tưởng, hành, thức cũng thế). Tự bản thân mỗi thành tố không thể tồn tại, mà nó chỉ tồn tại nhờ nương vào các thành tố khác (quan hệ tương thuộc), tự thân nó không có ngã, không phải là ngã, vì thế hợp thể năm thành tố này (thân ngũ uẩn hay cơ thể tâm-vật lý của con người) tất nhiên là vô ngã. Bởi vô ngã nên nó vô thường, hoặc cũng có thể nói do vô thường mà nó vô ngã. Vô thường và vô ngã đều là đặc tính của thực tại mà thôi. Vô thường là đặc tính về phương diệnthời gian hay về mặt hiện tượng, vô ngã là đặc tính về phương diệnkhông gian hay về mặt bản chất. Từ “vô ngã” trong tiếng Pàli là “Anatta”, trong đó “Na” có nghĩa là “không” và “Atta” có nghĩa là “ngã”. Chữ Atta (ngã) có hai nghĩa: 1.Tôi, ta (đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít dùng để chỉ chính mình). 2.Là một danh từ có nghĩa: Ngã (tôi, ta), tự ngã, linh hồn (thực thể vô hình thường còn mãi mãi trong mỗi hiện hữu, một thực thểvĩnh cửu, thường hằngbất biến). Khi bản kinh truyền sang Trung Hoa, các dịch giả dịch là “vô ngã” (không có ngã) hay “phi ngã” (chẳng phải ngã). “Ngã” ở đây có nghĩa là chủ nhân ông, chủ tể hay một tự ngã, một linh hồnbất diệt (vẫn tồn tại sau khi con người chết đi -theo quan niệm một số tôn giáo, tín ngưỡng), là một thực thểtồn tạiđộc lập, bất biến và có quyền làm chủ, có quyền quyết định. Đức Phật nói “Sắc vô ngã” có nghĩa là sắc không có ngã (không có chủ tể, tự ngã, linh hồn) trong nó, sắc không phải là ngã. Thọ, tưởng, hành, thức cũng vô ngã. Sau khi tuyên bố: “Này các tỳ kheo, sắc (thọ, tưởng, hành, thức) này là vô ngã”, Đức Phật đã giải thích: Bởi vì “nếu sắc (thọ, tưởng, hành, thức) là ngã thì sắc (thọ, tưởng, hành, thức) không dẫn đến khổ não, và có thể mong rằng sắc (thọ, tưởng, hành, thức) của tôi là như thế này, sắc (thọ, tưởng, hành, thức) của tôi không phải như thế này. Này các tỳ kheo, vì sắc (thọ, tưởng, hành, thức) là vô ngã, nên sắc (thọ, tưởng, hành, thức) dẫn đến khổ não và không thể mong rằng sắc (thọ, tưởng, hành, thức) của tôi là như thế này, mong rằng sắc (thọ, tưởng, hành, thức) của tôi không phải như thế này”. Hợp thể ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) hay thân thểvật lý và tâm lý của con người không có thành phầnvật chất hay tinh thần nào có ngã cả. Nếu sắc (thân thểvật chất) có ngã thì có thể mong muốn sắc không thay đổi, biến hoại (không xấu, không già, không chết, không bệnh hoạn…). Chính vì sắc không có ngã trong nó, sắc không phải là ngã cho nên không thể mong muốn sắc như thế này hay như thế khác. Con người không thể mong muốn sắc thân trẻ mãi không già, sống hoài không chết, khỏe mãi không ốm đau, luôn đẹp mà không xấu…). Cũng tương tự, vì thọ (cảm giác) là vô ngã cho nên thọ luôn thay đổi: khi buồn, khi vui, khi khổ đau, khi hạnh phúc, khi thoải mái, khi khó chịu v.v.. Con người không thể mong muốn bất kỳ cảm giác nào tồn tạimãi mãi hoặc mong muốn chỉ có cảm giáchạnh phúc sướng vui mà không đau khổ. Các cảm giácxuất hiệntùy thuộc vào các điều kiệnnhân duyên trong đó có các quan hệ với những thành phần khác trong cơ thể vật lý-tâm lý con người (các cảm giácxuất hiện, tồn tại lâu hay mau rồi thay đổi, các cảm giác ở mức độ nào còn chịu sự ảnh hưởng, tác động của sắc thân, tri giác (tưởng), ý chí (hành), nhận thức (thức). Và tri giác (tưởng), ý chí (hành), nhận thức (thức) cũng vô ngã luôn cho nên chúng luôn thay đổi, không thường hằngbất biến, không thể mong muốn chúng như thế này hay như thế khác, cũng không thể mong muốn chúng tồn tạivĩnh viễn mà không thay đổi. Kế đến Đức Phật dạy: Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại thì không hợp lý khi quán cái ấy là của ta, là ta, là tự ngã hay linh hồn của ta. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, cho nên phải quán: Cái ấy không phải của ta, cái ấy không phải là ta, cái ấy không phải là tự ngã hay linh hồn của ta. Sau cùng Đức Phật lại khẳng định một lần nữa: “Phàm sắc gì, thọ gì, tưởng gì, hành gì, thức gì, quá khứ, hiện tại, vị lai, hoặc trong hay ngoài, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, cần phải được như thật quán với chánh trí như sau: “Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi”. Điều này nói lên rằng, không chỉ không có cái ngã nào nơi con ngườinăm uẩn, mà ngoài con ngườinăm uẩn cũng không có cái ngã nào. Bởi vì “sắc, thọ, tưởng, hành, thức trong hay ngoài, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần v.v.. đều không phải là của tôi, không phải là tôi, không phải là tự ngã của tôi”, điều này muốn nói rằng: 1.Con ngườinăm uẩn không có cái ngã hay linh hồn nào nằm ngoài thân thể (Có người nghĩ rằng có một linh hồn, tự ngã nằm trong thân thể nhưng cũng có người nghĩ rằng linh hồn, tự ngã đó có thể nằm trong hoặc ngoài thân thể, như khi con người chết chẳng hạn, lúc đó linh hồn bay ra ngoài thân thể) 2.Tha nhân (người khác, không phải là mình), chúng sinh khác và mọi sự vật hiện tượng đều không có ngã, không có tự ngã, không có linh hồn, tất cả cũng đều vô ngã, vô thường (Quan niệm thông thường cho rằng mỗi người có một linh hồn, một tự ngã riêng biệt, loài thú cũng vậy, các sự vật hiện tượng cũng vậy, đều có tự tính, tự thể riêng biệt. Đức Phật cho rằng quan niệm như thế là sai lầm, không đúng với sự thật, bởi vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức là năm yếu tố làm nên chúng sinh và mọi sự vật hiện tượng khác, mà sắc, thọ, tưởng, hành, thức đó cũng vô ngã, vô thường).
Về sau Phật giáo Phát triển (Mahayàna) xây dựng triết lý tính Không (Không tính) khai triển lý Duyên sinh tính(*), Vô ngã tính mà Đức Phật đã chỉ dạy. Triết lý tính Không đề cập đến “nhân vô ngã” (vô ngã nơi con người) gọi là Nhân không hay Sinh không và “pháp vô ngã” (vô ngã nơi sự vật hiện tượng bên ngoài con người-thế giới khách quan và vô ngã nơi các quan điểm, ý kiến, lý thuyết, học thuyếttư tưởng, pháp môn tu tập…), gọi là Pháp không. Phật giáo Phát triển cho rằng người tu chứngthánh quảA la hán chỉ mới chứng nhânvô ngã (nhân không), chưa chứng phápvô ngã (pháp không), cho nên vẫn còn thấy có pháp tu, thấy các pháp môn tu là thật có. Vì thế cần phảitiếp tụctu tập để chứng phápvô ngã hay pháp không. Tuy nhiên nếu nghiên cứu kỹ thì thấy quan điểm này vô lý. Tâm các vị thánh A la hán là tâm vô phân biệt, bình đẳngnhất như, không còn nhân, ngã, bỉ, thử thì làm gì có chuyện thấy có pháp môntu hoặcthế giới khách quan ngoài con người mình, tức thấy có ta (ngã) đối chiếu với các pháp, thấy có ta (một tự thể, thực thể) tồn tại riêng biệt với các pháp? Các vị ấy đã thân chứng những gì Đức Phật dạy, đã thành tựutuệ giácvô ngã: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là vô ngã, như thế sao có thể nói các vị ấy còn pháp chấp (chấp pháp là hữu ngã, thấy có thật pháp, chưa chứng phápvô ngã). Các pháp chẳng qua cũng chỉ là sắc, thọ, tưởng, hành, thức thôi. Thế giới sự vật, hiện tượng từ vật lýcho đếntâm lý, từ vật chấtcho đếntinh thần đều không ngoài sắc, thọ, tưởng, hành, thức (ngũ uẩn). Ngoài sắc, thọ, tưởng, hành, thức ra thì không còn gì khác nữa. Vì thế khi Đức Phật nói vô ngã (trong các kinh Nguyên thuỷ) chính là đã nói nhân vô ngã và pháp vô ngã (Đức Phật nói sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều vô ngã); Và Đức Phật nói Duyên khởi hay Duyên sinh chính là đã nói nhân không và pháp không. A la hán là quả vị đã hoàn toàngiải thoát, giải thoáttối hậu, “việc cần làm đã làm xong, không còn trở lạitrạng thái này nữa (không còn tái sinhtrở lại cõi đời này nữa)”(Lời Đức Phật nói trong kinh nguyên thủy về quả vịA la hán). Các bậc A la hán được Đức Phật gọi là thánh vô học, vì không còn cần phải học nữa, các vị ấy đã làm xong việc cần làm, dứt trừ mọi kiến chấp, điên đảo tưởng, đoạn tận vô minh lậu hoặc, không còn sinh tử luân hồi. Chính ngay phần sau của bài kinhVô ngã tưởng, Đức Phật cũng dạy: “Này các tỳ kheo, phàm sắc gì, quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc trong hay ngoài, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, cần phải được như thật quán với chánh trí như sau: “Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi”. _Phàm thọ gì, tưởng gì, hành gì, thức gì, quá khứ, hiện tại, vị lai, hoặc trong hay ngoài, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, cần phải được như thật quán với chánh trí như sau: “Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi”. Như vậy đã quá rõ ràng, khi vị thánh đệ tửnhư thật quán với chánh trí như sau: “Cái này (sắc, thọ, tưởng, hành, thức trong hay ngoài, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, trong quá khứ, hiện tại hay vị lai…) không phải là của tôi (ta), không phải là tôi, không phải là tự ngã của tôi”, cũng chính là vị ấy thành tựutuệ giácvô ngã, hay nói theo Phật giáo Phát triển là chứng tríBát nhã, thì vị ấy không còn chấp thủngũ uẩn và không còn tham ái (nhàm chán, ly tham), vị ấy giải thoát, “Khi giải thoát vị ấy biết rằng đã giải thoát. Trong sự giải thoát trí khởi lên: “Ta đã được giải thoát”. Vị ấy biết rõ: Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, không còn trở lại với trạng thái này nữa”, điều này tương tự như Bát nhã Tâm kinh nói: “viễn ly điên đảomộng tưởng, cứu cánh Niết bàn”. Càng rõ ràng hơn về Vấn đềDuyên sinh và Vô ngã mà Đức Phật nói trong các kinh nguyên thủy chính là Nhân vô ngã và pháp vô ngã, hay nhân không và pháp không khi Ngài dạy như sau: “Thức tồn tại nhờ sắc làm điều kiện, làm đối tượng, sắc làm nơi nương tựa… Thức phát triển hưng thịnh nhờ sắc; Thức tồn tại nhờ thọ làm điều kiện, làm đối tượng, thọ làm nơi nương tựa… Thức phát triển hưng thịnh nhờ thọ; Thức tồn tại nhờ tưởng làm điều kiện, làm đối tượng, tưởng làm nơi nương tựa… Thức phát triển hưng thịnh nhờ tưởng; Thức tồn tại nhờ hành làm điều kiện, làm đối tượng, hành làm nơi nương tựa… Thức phát triển hưng thịnh nhờ hành. Nếu có ai nói rằng, tôi sẽ chỉ ra sự đi, sự đến, sự sinh, sự diệt của thức biệt lập với sắc, thọ, tưởng, hành thì người ấy đã nói một điều không thực.”(Tương ưng bộ kinh III). Điều này chỉ là khai triển từ nguyên lý Duyên sinh mà Đức Phật đã chứng ngộ và chỉ cho chúng ta biết: “Do cái này có mặt nên cái kia có mặt Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt Do cái này sinh nên cái kia sinh Do cái này diệt nên cái kia diệt”. (Kinh Phật tự thuyết thuộc Tiểu bộ kinh I) Các yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành, thức không tồn tạiđộc lập, bản thân chúng cũng vô ngã, vô thường, chúng nương tựa vào nhau mà sinh khởi, sự có mặt của mỗi yếu tố là nhờ vào sự có mặt của bốn yếu tố kia. Mà con người và thế giới sự vật, hiện tượng đều hình thành từ ngũ uẩn. Cho nên giữa con ngườingũ uẩn và thế giớingũ uẩn không có sự tách biệt, không có sự tồn tạiđộc lập; giữa con ngườingũ uẩn và các pháp khác nương vào nhau mà có mặt. Khi thấy rõ ngũ uẩnvô ngã: năm nhóm sắc, thọ…thức hợp lạivô ngã, vô thường, và mỗi yếu tố sắc, thọ… thức cũng vô ngã, vô thường, chúng nương vào nhau mà tồn tại, chúng quan hệ mật thiếtvới nhau, thấy như thế chính là thấy nhân vô ngã và pháp vô ngã hay nhân không và pháp không. Trên thực tế nhân (con người) và pháp (thế giới sự vật, hiện tượng, quan niệm, nhận thức, phương pháptu hành,…những thứ ngoài con người ra) không có sự tách biệt, chẳng qua là do chúng ta tạm phân biệt để nói cho dễ hiểu mà thôi. Vì thế khi nói rằng vị thánh A la hán chỉ mới chứng ngộnhân không hay nhân vô ngã là không đúng. Và cần khẳng định rằng: Vô ngã (vô chủ, vô tự tính, vô tự thể) mà Đức Phật nói trong các kinh nguyên thủy là con người và thế giới sự vật, hiện tượng, quan niệmnhận thức, các phương pháptu hành, các quả vịchứng đắc đều vô ngã (nhân vô ngã, pháp vô ngã). Phan Minh Đức
(*) Đức Phật đã trình bày tóm tắt về lý Duyên sinh hay Duyên khởi trong bài kinh Phật tự thuyết (thuộcTiểu bộ kinh I) như sau: “Do cái này có mặt nên cái kia có mặt Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt Do cái này sinh nên cái kia sinh Do cái này diệt nên cái kia diệt” Con người và thế giới sự vật, hiện tượng, không một hiện hữu nào có thể tồn tạiđộc lập mà không nương tựa vào nhau. Tất cả nương tựa, tùy thuộc vào nhau mà hình thành, tồn tại và biến đổi. Do cái này sinh khởi nên cái kia sinh khởi, do cái này biến đổi nên cái kia biến đổi v.v.. Những yếu tố, điều kiện tương thuộc nhau làm nên hiện hữu được gọi là duyên; sự làm nên hiện hữu từ các duyên được gọi là duyên sinh hay duyên khởi. |