VÔ
THƯỜNG
Hòa
Thượng Thích Thiện Siêu
Người
đời khi đã phát nguyệnquy y Tam Bảo là họ đã an trú trong ngôi nhà Như Lai, vì
đó là ngôi nhà an vui vĩnh viễn nhất. Chánh phápNhư Lai là hào quangchân lý,
giúp cho chúng sanh phân định được đâu là tính chấtmê muội, luân hồi và đâu là
giác ngộ, giải thoát. Chánh phápNhư Lai còn soi sáng cho chúng sanh phá tan
màn vô minhđiên đảo để dứt trừ mọi sai lầmđau khổ. Cho nên trong kinh Pháp Cú
có dạy: “Vì sợ hãibất an mà đến quy y thần núi, quy y thần cây, quy y
miếu thờ thổ thần nhưng đó chẳng phải là chỗ nương dựa yên ổn, là chỗ quy ytối
thượng. Ai quy y như thế khổ não vẫn còn nguyên. Trái lạiquy y Phật, quy y
Pháp, quy y Tăng, phát trí tuệchân chính, hiểu thấu bốn lẽ mầu: biết khổ, biết
khổ nhân, biết khổ diệt và biết tám chi Thánh đạodiệt trừkhổ não; đó là chỗ
quy yan ổn, là chỗ quy ytối thượng. Ai quy y như vậy, giải thoát hết đau
khổ”.
Vì
không nhận chân đúng lời Phật dạy, nên chúng sanh sống trong cảnh vọng tưởng mà
khởi tà kiến: vô thường chấp là thường, vô ngã chấp là ngã, không thanh tịnh
chấp là thanh tịnh, khổ đau chấp là an lạc, nên bị luân hồi và đau khổtriền
miên.
Tất
cả mọi sự vật trong thế gian này đều phải biến chuyển không ngừng: chúng luôn
luôn sanh, trụ, dị, diệt hoặc thành, trụ, hoại, không. Thế giới không một vật
nào tồn tạivĩnh viễn và có thể đứng yên một chỗ; tất cả đều vô thường, không
những vô thường trong từng năm, tháng, ngày, giờ mà còn vô thường trong từng sát-na
sanh diệt.
Đối
với con người cũng vậy, hôm nay tóc còn đen nhánh, ngày mai soi gương lại đã
thấy bạc đầu. Hôm nay làn da còn tươi láng, ngày mai đã thấy nếp nhăn nheo.
Vũ
trụ, sơn hà, đại địa, dù rất to lớn khiến chúng ta tưởng lầm nó là kiên cố,
nhưng thật ra nó cũng chịu sự biến hoạivô thường không kém. Hòn núi kia khi
chúng ta chưa sanh nó đã có, đến khi chúng ta nhắm mắt nó vẫn còn. Chúng ta
tưởng hòn núi đó là thường; cho đếncủa cảivật chất, nhà cửa chúng ta cũng
tưởng lầm như thế. Vì tưởng lầm nên chúng taquay cuồngtrong vòngđiên đảo,
đem cái tâm tham, sân, si để giành giựt lấy những gì chúng ta cho là quý, là
thường, là chân thật, nên mới gây ra biết bao đau khổxấu xa, thậm chí đôi lúc
còn giành giựt nhau từng đồng bạc, từng chút địa vị, từng lời ăn tiếng nói,
từng bước đi, từng cử chỉ… Đến như cái thân của chúng ta do tứ đại (đất,
nước, gió, lửa) hợp thành, do năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) cấu tạo
nên, từ khi cha mẹ sinh ra cho đến khi nhắm mắt lìa đời, không biết bao nhiêu
lần biến chuyển đổi thay cho đến các tế bào trong cơ thể chúng ta cũng thay đổi
trong từng giờ, từng khắc mà chúng ta không hay, không biết.
Thân
thể của mọi người đều vô thường như thế – Đôi lúc chúng ta cũng biết như thế,
nhưng chính chúng ta vẫn cứ mong thân của chúng tatồn tạimãi mãi, tại vì lòng
tham, chấp ngã, nên chúng ta thấy “ta” là quý hơn tất cả mọi người,
chỉ có “ta” mới đáng được trọng vọng, khen ngợi, còn người khác thì
không nên trọng vọng, khen ngợi. Chính là vì lòng chấp ngã, ích kỷ, ganh ttham
lam của chúng ta mà ra.
Vả
lại trong ta có những lúc tham, lúc giận, lúc si, nhưng cũng có những lúc từ
bi, hỷ xả, tâm muốn bố thí giúp ích mọi người. Vậy nếu nói lúc tham là ta và
lúc giận, lúc si, lúc bố thí, lúc từ bi, hỷ xả cũng là ta; thế thì, chính trong
một bản thân ta hóa ra có không biết bao nhiêu cái ta. Thử hỏi trong những cái
ta đó cái nào đích thực là ta? Khi ta tham lam thì cái tham đó thật là ta; khi
ta giận, cái giận đó thật là ta, hay khi ta kiêu mạn, tật đố cái kiêu mạn, tật
đố đó là ta? Nếu nói tham là ta thì ta sẽ là con người tham mãi không bao giờ
thay đổi được! Nếu nói kiêu mạn, tật đố là ta, thì kiêu mạn tật đố không bao
giờ thay đổi được! Nhưng không, dù có kiêu mạn, tật đố nhưng khi biết tu hành,
phá trừ kiêu mạn, sống một cách khiêm tốn, thì có thể thay đổi được. Dù tham
lam nhưng nếu hiểu được đạo lý thì cũng có thể chuyển đổi được lòng tham lam ra
lòng bố thí.
Rõ
ràng, tâm của chúng ta luôn luôn thay đổi, thân thể của chúng ta cũng thay đổi
không ngừng, không có lúc nào thật là ta cả. Ngay trong giờ phút ta tự nghĩ ta
đây là ta, thì lời nói ta đó cũng đã sai đi rồi. Bởi vì trong lúc ta nói ta
đây, thì chính ảnh tượng mà ta tưởng là ta đó cũng đổi khác đi rồi. Tâm hồn ta
giờ này không còn như giờ phút trước. Cho nên, vừa mới mở miệng nhắc đến cái ta
thì cái ta đó đã bay đi mất. Thế mà vì không hiểu, cho nên cứ đinh ninh rằng:
“Ta đây, ta quý hơn tất cả, muốn được tất cả mọi ngườitôn trọng, khen
ngợi, và tuyệt đối không ai được chê ta hết. Nhưng ngược lại ta cũng không muốn
tôn trọng và khen ngợi ai cả”. Cái ta nó làm cho con ngườiđiên đảo, hẹp
hòi như vậy đó.
Cho
nên, chúng sanhđau khổ là vì vô ngã mà chấp là ngã, không ta mà chấp thật là
ta. Ai biết nhìn kỹ thân thể của mình, qua pháp môn “Bất tịnh quán”
như đức Phật đã dạy thì sẽ thấy toàn thânchất chứa những đồ bất tịnh, nếu bỏ
lớp da ngoài thì ai cũng dơ bẩn như ai. Cái bất tịnh ấy đã có từ trong bào
thai, và khi lọt lòng mẹ cũng đã bất tịnh rồi. Dù được trang điểm bao nhiêu
cũng chỉ là cái thân bất tịnh, cho đến khi nhắm mắt tắt thở, nó cũng là bất
tịnh. Đối với cái thân bất tịnh này rõ ràng như vậy màchúng ta không nhận
thấy; ngược lại còn chấp cái thân này là tịnh, nên nâng niu, chiều chuộng, trau
chuốt nó quá đáng. Vì mù quáng đối với thân vô thường, lại cho là thường nên con
người luôn luôn đau khổ vì nó.
Ngày
xưa có nàng Liên Hoa Sắc, khi nghe đức Phật dạy về đạo lývô thường, rằng thân
thểbất tịnh, chúng sanhbất tịnh, hữu tìnhbất tịnh, thì cô ta liền phát tâm
muốn đi tu. Nhưng trên bước đường đi tu ngang qua một dòng sông, cô xuống sông
rửa mặt, nhìn thấy bóng mình dưới nước có gương mặt quá đẹp, cô nghĩ thầm:
“Mình đẹp như thế này mà đi tu thì uổng quá!” Cô bèn quay trở lại.
Bạn bè gặp cô trở về bèn hỏi: “Tại sao trước kia chị phát tâm dõng mãnh,
muốn đến đức Phật để cầu xinxuất gia, tu hành, bây giờ chị lại thối chí trở
lui là thế nào?” Cô ta trả lời rằng: “Ôi! Tôi đẹp quá như thế này mà
đi tu làm gì cho uổng!” Họ hỏi: “Vậy chị đẹp như thế nào?” Cô ta
trả lời: “Tôi soi mặt dưới nước thấy cái bóng của tôi phản chiếu dưới đó,
hết sức là đẹp”.
Qua
câu chuyện trên, chúng ta thấy rằng: Cái đẹp của cô ta chỉ là cái đẹp phản
chiếu lại lòng tham đắm xác thân chứ đối với người khác chưa chắc đã đẹp, và
đôi với loài cá dưới nước khi thấy bóng cô ta thì phải chạy trốn xa. Cô ta thấy
cái bóng mình dưới nước cho là đẹp, vì nghĩ lầm cái thân là đẹp, không ngờ nó
đang xấu, đang hủy hoại từ từ mà cô ta không biết không hay!
Cho
nên trong kinh Xà Dụ, đức Phật dạy:
“Này
các Tỷ-kheo, sắc là thường hay vô thường? Bạch Thế Tôn, vô thường. Cái gì vô
thường là khổ hay lạc? Bạch Thế Tôn, khổ… Do vậy này các Tỷ-kheo, cái gì
không phải của các ngươi, hãy từ bỏ thì sẽ đưa đến hạnh phúcan lạclâu dài cho
các ngươi. Trong bốn sự thật mà đức Phật dạy, sự thật đầu tiên là khổ (dukkha).
Ngài nói cuộc đời dù có vui mấy cũng chỉ là cái vui mong manh, rốt cuộc không
thoát ly sự khổ được. Ngài dạy: Chúng sanh mang không biết bao nhiêu cái khổ
trong người: sanh, già, bệnh, chết là khổ. Đó là cái khổ thường tình ai cũng
nhận thấy, cái khổ tự nhiên ai cũng mắc phải, hoặc ít hoặc nhiều không ai tránh
khỏi. Nếu một em bé sanh ra không khổ thì nó đã không cất ba tiếng khóc oa oa
oa khi mới lọt lòng. Nếu một người bịnh không khổ thì họ đã không rên xiết.
Người già không khổ thì đã không than phiền mắt mờ tai điếc, và một người chết
không khổ thì đã không ai khóc. Thế mới biết sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết
khổ là một sự thậthiển nhiên mà đức Phật đã từng tuyên bố. Ngoài cái khổ đó
còn những cái khổ khác như: Những điều mình ưa, những người mình thích, những đồ
vật mình ham muốn tưởng rằng đó là của mình, mình là cái đó, nó sẽ gắn liền với
mình không bao giờ rời xa được. Nhưng vì hoàn cảnh, vì luật vô thường, những
thứ đó nó rời khỏi tầm tay, không cách gì cầm giữ lại được. Đó chính là ái biệt
ly khổ.
Đối
với những người, những vật mình ghét, muốn tránh cho khuất mắt mà không thể
tránh được; mình muốn lờ đi nhưng nó cứ hiện ratrước mặt. Trên một con đường,
ai cũng muốn đi trên con đường sạch sẽ, có hoa thơm, cỏ lạ, không ai muốn đi
trên con đường lầy lội, đầy gai góchiểm độc ấy, muốn tránh nhưng bước đâu
vướng đó, muốn né nhưng đi đâu vấp đó. Đối với sự vật bên ngoài đã vậy, còn đối
với người xung quanh, có người ta ưa thích, nhưng cũng có người ta ghét, ta
không ưa vì lẽ này hay lẽ khác. Nhưng ở giữa hai cái ưa và không ưa đó cũng tạo
nên một cảnh ghét mà phải gặp là khổ, cho nên tục ngữ ta có câu: “Ghét của
nào trời trao của ấy”. Bên này oán bên kia và bên kia oán bên này. Một khi
đã oán nhau như vậy thìvũ trụbao latrở thành thu hẹp lại một góc. Gặp một người
oán ghét ta muốn tránh, nhưng tránh hoài đến nỗi hết muốn gặp mà cũng không sao
tránh được. Vũ trụbao la trong giờ phút này trở nên chật hẹp đến nỗi ta tưởng
nó không còn một chỗ an toàn cho ta dung thân. Đó là cảnh oán tắng hội khổ.
Cảnh này nếu nằm trong gia đình, trong thân tộc, trong bản thân của mỗi người
thì lại càng khổ hơn nữa.
Chúng
sanh luôn luôn nuôi dưỡng lòng tham muốn và mong cầu, đối với cuộc đời này họ
chưa một lần biết đủ, cảm thấy mình như một người thiếu thốn, họ tìm đủ mọi
cách để ôm trọn thế gian này. Nhưng tiếc thay! Sự sống con người thật ngắn
ngủi, một trăm năm không đủ bề dày thời gian để làm thỏa mãn lòng tham của họ,
vì vậy họ chịu khổ đau suốt đời vì ham muốn nhiều mà nhận chẳng được bao nhiêu,
gọi là cầu bất đắc khổ.
Dẫu
có người cho rằng đời còn có nhiều thú vui chứ đâu phải khổ hết. Coi xi-nê, coi
hát, bài bạc, rượu chè cũng vui, trúng số độc đắc hay làm quan cũng vui. Đức
Phật không phủ nhận điều đó, nhưng Ngài nói: Cái vui đó là cái vui mong manh
trong đau khổ, cái vui còn vướng trong vô minhnghiệp chướng đưa đến khổ đau
càng sâu dày thêm. Cho nên có một nhà thơ Việt Nam viết:
“Bể
khổ mênh mông nước ngập trời
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi,
Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió,
Ngẫm lại cùng trong bể khổ thôi”.
Ngược
gió hay xuôi gió, chiếc thuyền cũng ở trong biển mà thôi, không thể vượt lên
trên biển được. Cho nên cái vui của con người trong cảnh trầm luân này là cái
vui trong đau khổ của thế gian, chưa phải là cái vui giải thoát. Do thế, đức
Phật nói đời là đau khổ, mặc dù chúng sanh cho đời là vui, rồi say đắm theo
đời, không giờ phút nào rời khỏi, cho đến một ngày nào đó phải nhắm mắt tắt
thở, bấy giờ mới hoảng hốt, khổ đau!
Nếu
biết đem toàn tâm lựcan trú trong Chánh pháp thì sẽ nhận rõ lời đó của đức
Phật: tất cả sự vật là vô thường, chúng sanh là vô ngã, thân thể là bất tịnh,
mọi sự lãnh thọ đều là khổ: dù là thọ khổ hay thọ vui, cũng đều ở trong vòngtương đối. Đã ở trong vòngtương đối thì có sanh diệt, có sanh diệt tất nhiên
lòng chúng ta không thỏa mãn, nên sanh ra đau khổ. Đức Phật vì đại sự nhân
duyên đó mà ra đời, để chuyển mê khai ngộ cho chúng sanh. Mục đíchtu hành của
người tu Phật là để chuyển nghiệp. Ngài dạy rằng: “Nghiệp dắt thế gian
tới, nghiệp kéo thế gian đi, thế gian chuyển theo nghiệp, như bánh xe lăn theo
chân con vật kéo xe”. Con vật kéo xe đi vào trong con đườngtối tăm mù mịt
thì bánh xe cũng phải lăn theo. Chúng sanh lăn theo nghiệp cũng tương tự như
thế. Mỗi người đều có những nghiệp riêng, nghiệp tốt thì làm cho con người tốt,
nghiệp xấu thì làm cho con người xấu, nghiệp cao thượng thì trở thànhcon người
cao thượng, và nghiệp thấp hèn thì trở thànhcon ngườithấp hèn. Tất cả đều do
nghiệp. Nghiệp là bào thai, nghiệp là sở hữu, cho nên khi sanh ra, khi chết đi,
ta cũng chỉ một mìnhđi theo nghiệp chớ không có ai đi theo ta hết. Không ai
thay thế ta để đi theo trong khi ta sanh, già, bịnh, chết với cái nghiệp của ta
mà thôi. Cái nghiệp luôn luôn đi theo ta như bóng theo hình. Những người tạo
nghiệp lành thì có những người bạn lành cùng đi theo. Những người tạo nghiệp dữ
thì có những kẻ oan gia thù hận đi theo. Người tạo nghiệp lành thì như mang
bình cam lồ đi đây đi đó. Người tạo nghiệp ác thì như mang một bồ rắn độc bên
mình, luôn luôn nơm nớpsợ hãi, đau khổ. Theo lời Phật dạy, con người là do
nghiệp định đoạt tất cả. Vì vậy: “Con thiên nga chỉ bay được giữa hư
không, người có thần thông chỉ bay được khỏi mặt đất; chỉ có bậc đại trí, đại
hạnh dứt sạch nghiệp luân hồi mới bay được khỏi thế gian này” (Pháp Cú
175).
Bay
khỏi thế gian này tức giải thoát, tự tại. Nên con ngườitu hành là để chuyển
nghiệp. Chuyển nghiệp xấu thành tốt, vô minh ra giác ngộ, trầm luân ra giải
thoát. Tóm lại, chuyển cái nghiệp của chúng sanh ra cái nghiệp của chư Phật,
Thánh, Hiền. Khi chuyển nghiệp được rồi thì chính cái nghiệp đó nó trở thành
một tòa lâu đài để nâng đỡchúng sanh, giúp cho chúng sanh được an vui, giải
thoát…