MỤC LỤC
Lời nói đầu
Ý nghĩa và cách thức tụng kinh
PHẦN DẪN NHẬP
1. Nguyện hương
2. Đảnh lễTam bảo
3. Tán dươnggiáo pháp
PHẦN DẪN NHẬP
1. Kinh tiểu sửđức Phật
2. Kinh chuyển pháp luân
3. Kinh thực tậpvô ngã
4. Kinh thiện sinh
5. Kinh người áo trắng
6. Kinh phước đức
7. Kinh bốn pháp quán niệm
8. Kinh quán niệm hơi thở
9. Kinh từ bi
10. Kinh bảy cách dứt trừ khổ đau
11. Kinh tám điều giác ngộ của bậc đại nhân
12. Kinh phổ môn
13. Kinh lời dạy cuối cùng của đức Phật
PHẦN SÁM NGUYỆN
1. Bát-nhã tâm kinh
2. Niệm Phật
3. Năm điều quán tưởng
4. Quán chiếuthực tại
5. Sám nguyện (chọn một trong các bài sám dưới đây)
5-A) Sám quy mạng
5-B) Sám quy y
5-C) Sám quy nguyện 1
5-D) Sám quy nguyện 2
5-E) Sám nguyện
6. Hồi hướng công đức
7. Lời nguyện cuối
8. Đảnh lễ Ba ngôi báu
Phụ lụcxuất xứ các bài kinh và sám nguyện
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh Phật căn bản là tuyển tập 13 bài kinh, trong đó 11 bài có xuất xứ từ kinh điển Pali và 2 bài thuộc kinh điển Đại thừa. Các bài kinh này, trong mười năm qua, tôi thường sử dụng trong các chuyến hành hươngchiêm báiPhật tíchẤn Độ và Nepal do tôi hướng dẫn. Thay vì mang theo nhiều bài kinh riêng biệt, trong ấn bản này, tôi quyết định gộp chung thành một tuyển tập, theo đó người đọc tụng sẽ tiện sử dụng khi ngồi trên xe, lúc có mặt tại các Phật tích hoặc đọc tụng tại chùa hay tại tư gia.
Kinh tiểu sửđức Phật giúp ta ôn lại cuộc đờiđức Phậtlịch sử qua năm giai đoạn: (i) Từ lúc đản sanh đến lúc lập gia đình, (ii) từ bỏ cơ hội làm vua, trở thành nhà tâm linh, (iii) sáu tháng trải nghiệm hai pháp thiền của đạo sa môn và năm năm rưỡi tu khổ hạnh theo đạo Bà-la-môn, (iv) giác ngộthành Phật nhờ phương phápBát chánh đạo do Phật khám phá, (v) truyền báchân lý, cứu độnhân sinh suốt 45 năm.
Các bài kinh về Phật phápcăn bảngồm có: (i) Kinh chuyển pháp luân giới thiệuphương phápgiải quyết khổ đau, (ii) Kinh thực tậpvô ngã hướng dẫn kỹ năng vượt qua các khổ đau về nhận thức và tâm lý, (iii) Kinh thiện sinh dạy về sáu mối quan hệ tình yêu, gia đình, làng xóm, giáo dục, nghề nghiệp và tâm linh, (iv) Kinh người áo trắng quy định năm điều đạo đức và ba ngôi tâm linh, (v) Kinh Phước đức dạy 38 kỹ năng sống hạnh phúc, (vi) Kinh bốn pháp quán niệm dạy bốn kỹ năng phát triển trí tuệ do làm chủ thân thể, cảm xúc, tâm và pháp, (vii) Kinh quán niệm hơi thở chỉ bày 16 kỹ năng hít thở thiền, giúp ta thư thái và bình an, (viii) Kinh từ bi hướng dẫn cách phát triển tâm từ bi và hành động từ bi, xóa bỏ oan trái và hận thù, (ix) Kinh bảy cách dứt trừ khổ đau dạy cách thức vẫy tay chào với các bất hạnh, (x) Kinh tám điều giác ngộ giúp ta sống đời tỉnh thức trong vô thường, (xi) Kinh phổ môn giới thiệuhạnh nguyện và pháp tu của Bồ tátQuan Âm, (xii) Kinh lời dạy cuối cùng của đức Phật nhắc nhở các tinh yếu hành trì đạt đượctỉnh thức.
Nếu không có thời gian đọc tường lãm gần 18.000 bài kinh trong kinh tạng Pali và gần 18.000 bài kinh tương đương trong kinh tạng A-hàm và hơn 2.000 bài kinh điển Đại thừa, các Phật tửtại gia có thể ôn lại lời Phật dạy qua việc đọc tụng và hành trì quyển Kinh Phật căn bản này.
Nghiền ngẫm thấu đáo khi đọc kinh, áp dụnglời Phật dạytrong đời sống thực tiễn là hai phương diện giúp người đọc tụng kinh Phật khai mở trí tuệ, sống đời hạnh phúc và an vui. Bao nhiêu công đức có được từ việc ấn tống bộ kinh này, xin đem hồi hướng đến mọi người, theo đó nhiều người hiểu chân lý Phật, áp dụngchân lý Phật, góp phần xây dựngxã hộihạnh phúc, hòa bình và phát triển bền vững.
Giác Ngộ, ngày 16-10-2018
TT. Thích Nhật Từ
Ý NGHĨA VÀ
CÁCH THỨC TỤNG KINH
I. Ý NGHĨATỤNG KINH
Dù theo truyền thống nào, điểm quan trọng mà người thọ trì Kinh cần chú ý là tụng Kinh để hiểu và ứng dụnglời Phật dạy vào trong cuộc sống. Do đó, trong khi tụng niệm, không nên quá chú trọng vào các nghệ thuật tán tụng, mặc dù nghệ thuật này có thể giúp cho người tụng lẫn người nghe dễ lắng tâm và phát khởiniềm tintôn giáo. Người đọc tụngcần phải chú trọng vào phần “cốt lõi nhất” của Kinh là nội dungvà nghĩa lý của nó. Không có sự chú tâm thật sâu thì khó có thể lãnh hội được ý nghĩa nhiệm mầu trong Kinh.
Người đọc tụng phải giữ ba nghiệpthanh tịnh, chú tâmhoàn toàn vào nghĩa lý của Kinh, tư duy và liên tưởng về nghĩa lý đó, để hiểu rõ lời dạy của đức Phật, biết cách ứng dụng và hành trì. Bậc cổ đức thường dạy “tụng Kinh giả minh Phật chi lý” là nhằm vào ý này vậy. Chính sự ứng dụng lời Kinh vào cuộc sống mới thật sự đem lại phước báo, an lạc và giải thoát cho chúng ta. Do đó, ta không nên chỉ tụng niệm bằng miệng mà còn phải tụng niệm bằng tâm. Nói cách khác miệng tụng tâm hành mới chính là tụng Kinh đúng nghĩa.
II. CÁCH ĐÁNH MÕ VÀ ĐIỂM CHUÔNG
Cách thức tụng Kinh trong Phật giáo rất đa dạng và khác nhau tùy theo từng truyền thống. Trong Phật giáoBắc tông, tụng Kinh đã trở thành một nghi lễhẳn hoi, với sự hỗ trợ của các pháp cụ và nhạc cụ, như chuông, mõ, trống, kiểng, khánh, tang, đẩu v.v… Sự tụng Kinh ở nhiều nơi đã trở thành một khóa lễ nhạc có âm điệu trầm bổng, du dương, gây nhiều cảm hứng tốt ở người nghe.
Phần Nghi ThứcDẫn Nhập và Nghi Thức Sám Nguyện-Hồi Hướng được tụng giống như các khóa lễ xưa nay, tùy theo từng truyền thống. Riêng phần chánh kinh, để người đọc tụng và người nghe dễ hiểu và được lợi ích, người đọc nên ngừng một hoặc hai nhịp không tụng sau mỗi chấm câu hoặc sang hàng hay hết một đoạn, trong khi mõ vẫn được gõ đều đặn.
a. Ký hiệu được sử dụng
Ký hiệu O chỉ cho “đánh chuông.” Ký hiệu C chỉ cho “nhắp chuông” (nhắp dùi chuông vào vành chuông để báo hiệu rằng sẽ có một tiếng chuông được vọng lên). Ký hiệu M chỉ cho “gõ mõ.”
b. Cách vào chuông mõ
C O O O M M M MM M M
O M
O M
O M MM M C
c. Đánh mõ và điểm chuông
Ngoài mục đích tạo trường canh và nhạc điệu cho các khóa lễ, mõ và chuông còn có tác dụngthức tỉnh người đọc. Để các tác dụng này được phát huy triệt để, mõ phải được đánh đều đặn, nhịp nhàng, chậm rãi; không được đánh quá mạnh hay quá nhẹ để tránh trường hợp tiếng lớn, tiếng nhỏ làm mất trang nghiêm và khó đọc tụng cho đều. Chuông được điểm ngân nga sau các đoạn hay câu có ký hiệu O, đối với phần nghi thứcdẫn nhập và hồi hướng. Đối với Chánh Kinh, chuông sẽ được điểm lên ngay sau mỗi đoạn Kinh hay sau mỗi ý Kinh hoàn chỉnh, nhằm đưa người đọc tụngtrở về với thực tại, lắng niệm và ghi nhớ sâu lời Phật dạy.
d. Phối hợp chuông, mõ, khánh và lời tụng
Sau tiếng nhắp chuông của vị Duy-na, vị chủ lễ bắt đầu xướng tụng. Chủ lễ xướng hết chữ thứ hai thì đại chúng mới bắt đầu hòa theo và cùng tụng. Chữ đầu và chữ thứ ba của đoạn do chủ lễ khởi xướng thì không có nhịp mõ. Nhịp mõ được gõ vào nhịp chữ thứ hai và thứ tư. Nghĩa là tiếng mõ thứ nhất sẽ đi với chữ (tiếng) kinh thứ hai, tiếng mõ thứ hai sẽ đi với chữ (tiếng) kinh thứ tư. Sau đó, cứ mỗi chữ thì có một nhịp mõ cho đến hết một bài kinh. Riêng chữ (tiếng) kinh áp chót thì gõ hai nhịp mõ liền nhau và chữ (tiếng) kinh cuối thì một tiếng mõ dứt. Cứ như vậy, chúng ta tụng hết thời kinh.
Đối với bài Sám Nguyện trước bài Hồi Hướng, ta có thể phối hợp mõ với khánh. Tiếng mõ đầu sẽ đi với chữ kinh thứ hai, tiếng khánh đầu sẽ đi với chữ kinh thứ ba. Sau đó, một chữ một tiếng mõ, một chữ một tiếng khánh, cứ như vậy phối hợp mõ và khánh tụng cho hết bài sám. Phần kết thúc bài sám như sau: chữ áp chót của bài sám sẽ đi kèm với hai tiếng mõ liền nhau hơi nhanh và chữ cuối sẽ đi kèm với một tiếng mõ; trong khi từ chữ áp chót của bài sám, khánh được đánh theo hồi, từ bảy đến mười nhịp, khoảng cách của các nhịp khít dần đều và âm thanh của các nhịp nhỏ dần đều.
III. LỢI ÍCH CỦA TỤNG KINH
Người đọc tụng, thọ trì và truyền bá kinh này sẽ gặt hái nhiều lợi ích cho mình và tha nhân:
– Nắm vững yếu nghĩa lời Phật dạy, nhờ đó, người thọ trìxóa bỏ cái nhìn phân cách, ngộ nhận giữa hai truyền thống. Tất cả chỉ có một nguồn chánh pháp, chỉ thuần nhất hương vị: an lạc, giác ngộ, giải thoát.
– Đọc tụng để lời nói, ý nghĩ, việc làm được trong sạch; để từ bỏ các điều ác, thực hành các hạnh lành, sống tùy hỷ, sống theo bi-trí-dũng, thương yêu, giúp đỡ và bảo vệ lẫn nhau; để làm hành trang cho cuộc sống, làm hương thơm cho đời.
– Đọc tụng để mở rộng tầm nhìn đúng đắn về con người, về thế giới, về nguyên nhânsai biệt cũng như yếu tố hình thành vũ trụ. Đọc tụng để xóa bỏmê lầm, trở vềchánh pháp, sống chánh tín, chánh mạng và an lạc.
– Đọc tụng để chuyển hóanhận thức và hành động. Nhờ đó, cá nhân được thuần thiện, gia đình được đầm ấm, xã hội được an vui và nhân loại được thái bình, hạnh phúc trong chánh pháp Phật-đà.
Đọc tụng Kinh Phật có nhiều công đức như thế, kính xin tất cả mọi người hãy tinh tấn hơn nữa, trong việc đọc tụng, thọ trì và truyền bá lời Phật dạy!
Trân trọng,
Sa-môn Thích Nhật Từ