Kinh Sợ Hãi Khiếp Đảm

KINH SỢ HÃI KHIẾP ĐẢM

Kinh này đức Phật nói tại tu việnCấp Cô Độc, Xá Vệ (Sàvatthi). Kinh thuộc loại nhân duyên thuyết.

Kinh được nói nhân một cuộc viếng thăm và vấn đạo của một vị Bà la môn tên Jànussona. Mở đầu, Bà la môn Jànussona hỏi đức Phật : Có phải tất cả những người vì lòng tin tưởng, họ xuất gia, từ bỏgia đình đến sống với giáo đoàn của Ngài, xem Ngài là vị lãnh đạo, đều được
Ngài chăm sóc, khích lệ và sách tấn trong việc tu tập không ? Đức Phậtxác nhận là đúng như vậy.

Câu hỏi thứ hai, Bà la môn Jànussona nêu lên sự khó khăn của một vị ẩn tu tại những nơi hoang vu xa vắng; trong khi tu tập có những sự sợ hãi và khiếp đảm nổi lên thì phải làn sao chế ngự để tiếp tụctu tập ? Sau đây là lời giải thích của đức Phật :

Trước hết Ngài xác nhận lúc chưa chứng Vô thượngChánh giác, Ngài cũng gặp những khó khăn như vậy. Nhưng thường thì những sự sợ hãi và khiếp đảm ấy khởi lên và chi phốitoàn diện những ai
Thân nghiệp, khẩu nghiệpý nghiệp không thanh tịnh; hoặc những người bị chi phối mãnh liệt bởi năm triền cái (tham dục,sân hận, hôn trầm, trạo cử, nghi hoặc); hay những người tự khen mình chê người, những người ham muốndanh lợi, những người lười biếng, thất niệm, tán loạn, si ám…..

Phương cáchđối trị của đức Phật lúc đang tu tập là :
Trong bất cứ hành vicử chỉ nào của Ngài mà sự sợ hãi khiếp đảm ấy đến, trong tư thế của hành vicử chỉ ấy, Ngài diệt trừ sự sợ hãi và khiếp đảm. Ví dụ, trong lúc Ngài đang thiền hành mà có một sự sợ hãi
và khiếp đảm nào đến, thì Ngài không chạy đi, không ngồi hay nằm xuống, mà tiếp tục giữ chánh niệmthiền hành để diệt trừ sự sợ hãi và khiếp đảm ấy. Cùng một thể như vậy với các tư thế đang đứng, đang ngồi hay đang nằm.

Sau khi hàng phục và tận diệt mọi sợ hãi và khiếp đảm, tâm được an định dễ dàng hướng đến các túc mạng trí, sanh tử trí, lậu tận trí. Thấy biết một cách rõ ràng sự khổ não, nguồn gốc của khổ não, sự tận diệt khổ não, và con đường đưa đến sự tận diệt khổ não.

Xin tham khảo :
* Việt tạng : Trung Bộ Kinh I, Kinh sợ hãi và khiếp đảm, tr.41
* Hán tạng : Tăng nhất A hàm, CĐ 2, Tăng thượng phẩm, tr.665/giữa
* Anh tạng : Middle length sayings I, Discourse on Fear and Dread, tr.21
* Pàli tạng : Majjhima Nikàya, Bhayabherava sutta, 4

 

Đại Tạng KinhViệt Nam
KINH TRUNG BỘ
Majjhima Nikàya
Hòa thượng Thích
Minh Châu dịch Việt

4.
Kinh
Sợ hãi khiếp đảm
(Bhayabherava sutta)


Như vầy tôi nghe. 

Một thời Thế Tôn
Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika
(Cấp Cô Độc). Rồi Bà-la-môn Janussoni đến chỗ Thế Tôn
ở, khi đến xong, nói lên những lời chào đón hỏi thăm với
Thế Tôn, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thămthân
hữu
, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn
Janussoni bạch Thế Tôn:

Tôn giả Gotama, có
những Thiện nam tử, vì lòng tinTôn giả Gotama, đã xuất
gia
, từ bỏgia đình, sống không gia đình. Đối với những
vị này, Tôn giả Gotama là vị lãnh đạo. Đối với những
vị này, Tôn giả Gotama giúp ích rất nhiều. Đối với những
vị này, Tôn giả Gotama là vị khích lệ sách tấn. Các vị
này chấp nhậntuân theoquan điểm của Tôn giả Gotama. 

— Này Bà-la-môn, thật
sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn,
có những Thiện nam tử, vì lòng tin nơi Ta, đã xuất gia, từ
bỏ
gia đình, sống không gia đình. Ta là vị lãnh đạo của
họ. Ta đã giúp ích rất nhiều cho họ. Ta là vị khích lệ
sách tấn cho họ. Và các vị này chấp nhậntuân theoquan
điểm
của Ta. 

Tôn giả Gotama, thật
khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu!
Thật khó khăn đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thứcđời sống độc cư! Con nghĩ rằng rừng núi làm rối loạntâm trí vị Tỷ-kheo chưa chứng Thiền định

— Này Bà-la-môn, thật
sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn,
thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang
vu! Thật khó khăn, đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thứcđời sống độc cư! Ta nghĩ rằng rừng núi làm rối loạntâm trí vị Tỷ-kheo chưa chứng Thiền định

Này Bà-la-môn, xưa kia
khi Ta chưa chứng ngộchánh đẳng giác, khi còn là Bồ-tát,
Ta nghĩ như sau: “Thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng,
trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn, đời sống viễn ly!
Thật khó thưởng thứcđời sống độc cư! Ta nghĩ rằng
rừng núi làm rối loạntâm trí vị Tỷ-kheo chưa chứng Thiền
định!”

Này Bà-la-môn, rồi Ta
suy nghĩ: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, thân nghiệp không
thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi
hoang vu, do nguyên nhânnhiễm trước, thân nghiệp không thanh
tịnh
, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm
cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có
thân nghiệp không thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng,
trong rừng núi hoang vu. Thân nghiệp Ta thanh tịnh. Ta là một
trong những bậc Thánh, với thân nghiệpthanh tịnh, sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn,
Ta tự quánsát thân nghiệp hoàn toànthanh tịnh này, tự cảm
thấy
lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng
núi. 

Này Bà-la-môn, tùy thuộcvấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn, hay Bà-la-môn
nào, có khẩu nghiệp không thanh tịnh… (như trên)… có ý
nghiệp
không thanh tịnh… (như trên)… có mạng sống không
thanh tịnh sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang
vu
, do nguyên nhânnhiễm trước mạng sống không thanh tịnh,
những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho
sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có mạng
sống không thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong
rừng núi hoang vu. Mạng sống Ta thanh tịnh. Ta là một trong
những bậc Thánh, với mạng sống thanh tịnh, sống tại các
trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta
tự quán sát mạng sống hoàn toànthanh tịnh này, tự cảm
thấy
lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng
núi. 

Này Bà-la-môn, tùy thuộcvấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn
nào tham dục, có ái dục cường liệt, sống tại các trú
xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhânnhiễm trướctham dục, có ái dục cường liệt, những Tôn giả Sa-môn hay
Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất
thiện
khởi lên. Ta không có tham dục, ái dục cường liệt,
sống tại các trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta không
tham dục, Ta là một trong những bậc Thánh, không có tham
dục
, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”.
Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta không có tham dục như vậy,
tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống
trong rừng núi. 

Này Bà-la-môn, tùy thuộcvấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn
nào có tâm sân hậnác ý, sống tại các trú xứ xa vắng,
trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhânnhiễm trước, có tâm
sân hậnác ý, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc
chắn
làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta
không có tâm sân hận, ác ý, sống tại các trú xứ xa vắng
trong rừng núi hoang vu. Ta có từ tâm. Ta là một trong những
bậc Thánh có từ tâm, sống tại các trú xứ xa vắng, trong
rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta có từ
tâm
như vậy, Ta cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn,
khi sống trong rừng núi. 

Này Bà-la-môn, tùy thuộcvấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn
nào bị hôn trầm thụy miênchi phối, sống tại các trú xứ
xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhânnhiễm trước
bị hôn trầm thụy miênchi phối, những Tôn giả Sa-môn hay
Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất
thiện
khởi lên. Ta không bị hôn trầm thụy miênchi phối,
sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không
hôn trầm thụy miên. Ta là một trong những bậc Thánh không
hôn trầm thụy miên, sống tại các trú xứ xa vắng, trong
rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta không có
hôn trầm thụy miên như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được
xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi. 

Này Bà-la-môn, tùy thuộcvấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn
nào dao động, tâm khôngan tịnh, sống tại các trú xứ xa
vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhânnhiễm trước bị
dao động, tâm khôngan tịnh, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn
ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi
lên. Ta không có dao động, tâm không phải không an tịnh, sống
tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có
dao động, tâm được an tịnh. Ta là một trong những bậc
Thánh không có dao động, tâm được an tịnh, sống tại các
trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta
tự quánsát tâm Ta được an tịnh như vậy, tự cảm thấy
lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi. 

Này Bà-la-môn, tùy thuộcvấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn
nào nghi hoặc, do dự, sống tại các trú xứ xa vắng, trong
rừng núi hoang vu, do nguyên nhânnhiễm trướcnghi hoặc, do
dự
, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm
cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có
nghi hoặc, do dự, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng
núi hoang vu. Ta diệt trừ được do dự. Ta là một trong những
bậc Thánh diệt trừ được nghi hoặc, sống tại các trú
xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự
quán
sát tâm Ta diệt trừ được nghi hoặc như vậy, tự cảm
thấy
lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng
núi. 

Này Bà-la-môn, tùy thuộcvấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn
nào khen mình, chê người sống tại các trú xứ xa vắng, trong
rừng núi hoang vu, do nguyên nhânnhiễm trước khen mình, chê
người, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn
làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không
có khen mình, chê người, sống tại các trú xứ xa vắng, trong
rừng núi hoang vu. Ta không có khen mình, không có chê người,
Ta là một trong những bậc Thánh không có khen mình, không có
chê người, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi
hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quánsát tâm Ta không có khen
mình, không có chê người như vậy, tự cảm thấy lòng tự
tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi. 

Này Bà-la-môn, tùy thuộcvấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn
nào run rẩy, sợ hãi sống tại các trú xứ xa vắng, trong
rừng núi hoang vu, do nguyên nhânnhiễm trước run rẩy, sợ
hãi
, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm
cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có
run rẩy, sợ hãi, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng
núi hoang vu. Ta không có lông tóc dựng ngược, sống tại các
trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta
tự quán sát Ta không có lông tóc dựng ngược, Ta là một
trong những bậc Thánh, không có lông tóc dựng ngược như
vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi
sống trong rừng núi. 

Này Bà-la-môn, tùy thuộcvấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn
nào ham muốnlợi dưỡng, cung kính, danh vọng, sống tại các
trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhânnhiễm
trước
ham muốnlợi dưỡng, cung kính, danh vọng, những Tôn
giả
Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp
đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có ham muốnlợi dưỡng,
cung kính, danh vọng, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng
núi hoang vu. Ta là người ít dục. Ta là một trong những bậc
Thánh ít dục, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi
hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta là người ít dục
như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn,
khi sống trong rừng núi. 

Này Bà-la-môn, tùy thuộcvấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn
nào biếng nhác, kém tinh tấn, sống tại các trú xứ xa vắng,
trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhânnhiễm trướcbiếng nhác,
kém tinh tấn, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc
chắn
làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta
không có biếng nhác, kém tinh tấn, sống tại các trú xứ
xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta siêng năng, tinh tấn. Ta
là một trong những bậc Thánh siêng năng, tinh tấn, sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn,
Ta tự quán sát Ta siêng năng, tinh tấn như vậy, tự cảm thấy
lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

Này Bà-la-môn, tùy thuộcvấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn
nào thất niệm, không tỉnh giác, sống tại các trú xứ xa
vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhânnhiễm trướcthất
niệm
, không tỉnh giác, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn
ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi
lên. Ta không có thất niệm, không phải không tỉnh giác, sống
tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta an trú
niệm. Ta là một trong những bậc Thánh an trú niệm, sống
tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn,
Ta quán sát Ta an trú niệm như vậy, tự cảm thấy lòng tự
tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi. 

Này Bà-la-môn, tùy thuộcvấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn
nào không định tĩnh, tâm bị tán loạn, sống tại các trú
xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhânnhiễm trướckhông định tĩnh, tâm bị tán loạn, những Tôn giả Sa-môn
hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm,
bất thiện khởi lên. Ta được định tĩnh, tâm không bị
tán loạn sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang
vu
. Ta thành tựuđịnh tâm. Ta là một trong những bậc Thánh
thành tựuđịnh tâm, sống tại các trú xứ xa vắng, trong
rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta thành tựuđịnh tâm như vậy, từ cảm thấy lòng tự tin được xác
chứng hơn, khi sống trong rừng núi. 

Này Bà-la-môn, tùy thuộcvấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn
nào liệt tuệ, đần độn, sống tại các trú xứ xa vắng,
trong rừng núi hoang vu. Do nguyên nhânnhiễm trước liệt tuệ,
đần độn, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn
làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không
có liệt tuệ, đần độn, sống tại các trú xứ xa vắng,
trong rừng núi hoang vu. Ta thành tựutrí tuệ. Ta là một trong
những bậc Thánh thành tựutrí tuệ, sống tại các trú xứ
xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán
sát Ta thành tựutrí tuệ như vậy, tự cảm thấy lòng tự
tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi. 

Này Bà-la-môn, tùy thuộcvấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Trong những đêm được
biết đến, được xác định, đêm mười bốn, đêm mười
lăm, đêm mồng tám mỗi nửa tháng, trong những đêm như vậy,
Ta hãy đến ở tại các trú xứ hãi hùng, lông tóc dựng ngược,
như tự miếu tại các thảo viên, tự miếu tại các rừng
núi, tự miếu tại các cây cối, để Ta có thể thấy sự
sợ hãi khiếp đảm ấy”. Này Bà-la-môn, sau một thời gian,
trong những đêm được biết đến, được xác định, đêm
mười bốn, đêm mười lăm, đêm mồng tám mỗi nữa tháng,
trong những đêm như vậy, Ta đến ở tại các trú xứ hãi
hùng
, lông tóc dựng ngược như vậy, như tự miếu tại các
thảo viên, tự miếu tại các rừng núi, tự miếu tại các
cây cối. Này Bà-la-môn, trong khi ta ở tại các chỗ ấy, một
con thú có thể đến, hay một con công làm rơi một cành cây,
hay gió làm rung động các lá rơi; Ta khởi lên ý nghĩ: “Nay
sự sợ hãi khiếp đảm ấy đã đến!”. Này Bà-la-môn, rồi
Ta suy nghĩ: “Sao Ta ở đây, chỉ để mong đợi sự sợ hãi
khiếp đảm chớ không gì khác? Trong bất cứ hành vicử chỉ
nào của Ta mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, trong hành vicử chỉ ấy, Ta hãy trừ diệtsợ hãi khiếp đảm ấy”. 

Này Bà-la-môn trong khi
Ta đi kinh hành qua lại mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì
này Bà-la-môn, Ta không đứng, Ta không ngồi, Ta không nằm,
nhưng Ta trừ diệtsợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đi kinh
hành
qua lại. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang đứng mà sự
sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không
kinh
hành qua lại, Ta không ngồi, Ta không nằm, nhưng Ta trừ
diệt
sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang đứng. Này Bà-la-môn,
trong khi Ta đang ngồi mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì
này Bà-la-môn, Ta không nằm, Ta không đứng, Ta không kinh hành
qua lại, nhưng Ta trừ diệtsợ hãi khiếp đảm ấy trong khi
Ta đang ngồi. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang nằm mà sợ hãi
khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không ngồi, Ta
không đứng, Ta không kinh hành qua lại, nhưng Ta trừ diệtsợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang nằm. 

Này Bà-la-môn, có một
số Sa-môn, Bà-la-môn nghĩ rằng ngày giống như đêm, nghĩ
rằng đêm giống như ngày. Như vậy, Ta nói rằng những Sa-môn,
Bà-la-môn ấy sống trong si ám. Này Bà-la-môn, Ta nghĩ rằng
đêm là đêm, nghĩ rằng ngày là ngày. Này Bà-la-môn, ai nói
một cách chơn chánh sẽ nói như sau: “Vị hữu tình nào không
si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an
lạc
cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi
ích
, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người.
Vị ấy khi nói một cách chân chánh về Ta sẽ nói như sau:
“Là vị hữu tình không có si ám, sinh ra ở đời vì hạnh
phúc
cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương
tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho
loài Trời và loài Người”. 

Này Bà-la-môn, Ta tinh
cần
, tinh tấn, không lười biếng. Ta an trúchánh niệm, không
có loạn, thân được khinh an, không có dao động, tâm được
định tĩnh, chuyên nhất

Này Bà-la-môn, Ta ly
dục
,
ly các ác pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng
thái
hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. 

Diệt tầm, diệt tứ,
Ta chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng tháihỷ lạc do
định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh nhất tâm

Ly hỷ trú xả, chánh
niệm
tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh
gọi là xả niệm lạc trú, Ta chứng và an trú Thiền thứ
ba. 

Xả lạc và xả khổ,
diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, Ta chứng và an trú Thiền
thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh

Với tâm định tĩnh,
thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến,
dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Ta dẫn tâm,
hướng tâm đến túc mạng trí. Ta nhớ đến các đời sốngquá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm
đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi
đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một
ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều
thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: “Tại
chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai
cấp
như thế này, các món ăn như thế này, thọ khổ lạc
như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết
tại chỗ kia, Ta được sanh ra tại chỗ này. Tại chỗ này,
Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như
thế này, các món ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế
này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ
này, Ta được sanh ra ở đây”. Như vậy Ta nhớ đến nhiều
đời sốngquá khứ cùng với các nét đại cương và các
chi tiết

Này Bà-la-môn, trong
đêm
canh đầu Ta chứng được minh thứ nhất, vô minh diệt, minh
sanh; bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng
dật
, nhiệt tâm, tinh cần

Với tâm định tĩnh,
thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến,
dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Ta dẫn tâm,
hướng tâm đến sanh tử trí về chúng sanh. Ta với thiên nhãn
thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và sự chết của chúng
sanh
. Ta tuệ tri rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang,
người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất
hạnh
, đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm
những ác hạnh về thân, ác hạnh về lời nói, ác hạnh về
ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp
theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung,
phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn
những chúng sanh nào thành tựu những thiện hạnh về thân,
thành tựu những thiện hạnh về lời nói, thành tựu những
thiện hạnh về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh
kiến
, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này,
sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú,
cõi Trời, trên đời này. Như vậy với thiên nhãn thuần tịnh
siêu nhân, Ta thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta tuệ tri
rằng, chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp
đẽ
, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do
hạnh nghiệp của họ. 

Này Bà-la-môn, trong
đêm
canh giữa, Ta chứng được minh thứ hai, vô minh diệt, minh
sanh; bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng
dật
, nhiệt tâm, tinh cần

Với tâm định tĩnh,
thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến,
dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Ta dẫn tâm,
hướng tâm đến lậu tận trí. Ta thắng tri như thật: “Đây
là khổ”, thắng tri như thật: “Đây là nguyên nhân của khổ”,
thắng tri như thật: “Đây là khổ diệt”, thắng tri như thật:
“Đây là con đường đưa đến khổ diệt”, thắng tri như thật:
“Đây là những lậu hoặc”, thắng tri như thật: “Đây là nguyên
nhân
các lậu hoặc”, thắng tri như thật: “Đây là các lậu
hoặc
diệt”, thắng tri như thật: “Đây là con đường đưa
đến các lậu hoặc diệt”. 

Nhờ biết như vậy,
nhờ thấy như vậy, tâm của Ta thoát khỏidục lậu, thoát
khỏi
hữu lậu, thoát khỏivô minh lậu. Đối với tự thân
đã giải thoát như vậy, khởi lên trí hiểu biết: Ta đã
giải thoát. Ta đã thắng tri: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã
thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái
này nữa”. 

Này Bà-la-môn trong đêm
canh ba, Ta chứng được minh thứ ba, vô minh diệt, minh sanh;
bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng
dật
nhiệt tâm tinh cần.

Này Bà-la-môn, Ông có
thể có tư tưởng như sau: “Nay Sa-môn Gotama chưa diệt trừ
tham, chưa diệt trừ sân, chưa diệt trừ si, nên sống tại
các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn,
chớ có hiểu như vậy. Do Ta quán sát hai mục đích mà Ta sống
tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Tự thấy
sự hiện tại lạc trú và vì lòng thương tưởng chúng sanh
trong tương lai. 

Chúng sanh trong tương
lai được Tôn giả Gotama thương tưởng, vì Tôn giả là bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!
Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!… Như người dựng đứng
lại những gì bị quăng xuống, phơi bày ra những gì bị che
kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng
vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc.
Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều
phương tiện trình bày giải thích. Con quy yTôn giả Gotama,
quy y Phápquy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con
làm đệ tử; từ này trở đi cho đếnmạng chung, con trọn
đời
quy ngưỡng.

Hòa
thượng
Thích Minh Châu dịch Việt


Majjhima
Nikaya
4

Bhaya-bherava
Sutta
Fear and Terror

English
Translation by Bhikkhu Thanissaro

For
free
distribution only, as a gift of Dhamma 


I have heard that on one
occasion the Blessed One was staying near Savatthi
at
Jeta’s Grove, Anathapindika’s monastery. Then Janussoni
the brahmin went to the Blessed One and, on arrival, exchanged courteous
greetings with him. After an exchange of friendly greetings and courtesies,
he sat to one side. As he was sitting there, he said to the Blessed One,
“Master Gotama, the sons of good families who have gone forth from the
home life into homelessness out of conviction in Master Gotama: is Master
Gotama their leader? Is Master Gotama their helper? Is Master Gotama their
inspirer? Do they take Master Gotama as their example?” 

“Yes, brahmin, so it
is.
The sons of good families who have gone forth from the home life into homelessness
out of conviction in me: I am their leader. I am their helper. I am their
inspirer. They take me as their example.” 

“But, Master Gotama,
it’s
not easy to endure isolated forest or wilderness dwellings. It’s not easy
to maintain seclusion, not easy to enjoy being alone. The forests, as it
were, plunder the mind of a monk who has not attained concentration.” 

“Yes, brahmin, so it
is.
It’s not easy to endure isolated forest or wilderness dwellings. It’s not
easy to maintain seclusion, not easy to enjoy being alone. The forests,
as it were, plunder the mind of a monk who has not attained concentration.
Before my awakening, when I was still an unawakened Bodhisatta, the thought
occurred to me as well: ‘It’s not easy to maintain seclusion, not easy
to enjoy being alone. The forests, as it were, plunder the mind of a monk
who has not attained concentration.’ 

“The thought occurred to
me: ‘When priests or contemplatives who are unpurified in their bodily
activities resort to isolated forest or wilderness dwellings, it’s the
fault of their unpurified bodily activities that they give rise to unskillful
fear and terror. But it’s not the case that I am unpurified in my bodily
activities when I resort to isolated forest or wilderness dwellings. I
am purified in my bodily activities. I am one of those noble ones who are
purified in their bodily activities when they resort to isolated forest
or wilderness dwellings.’ Seeing in myself this purity of bodily activities,
I felt even more undaunted about staying in the wilderness. 

“The thought occurred to
me: ‘When priests or contemplatives who are unpurified in their verbal
activities…unpurified in their mental activities…unpurified in their
livelihood resort to isolated forest or wilderness dwellings, it’s the
fault of their unpurified livelihood that they give rise to unskillful
fear and terror. But it’s not the case that I am unpurified in my livelihood
when I resort to isolated forest or wilderness dwellings. I am purified
in my livelihood. I am one of those noble ones who are purified in their
livelihood when they resort to isolated forest or wilderness dwellings.’
Seeing in myself this purity of livelihood, I felt even more undaunted
about staying in the wilderness. 

“The thought occurred to
me: ‘When priests or contemplatives who are covetous and fiercely passionate
for sensual pleasures…I am not covetous…’…. 

“…’When priests or
contemplatives
who have minds of ill will, with destructive attitudes…I have a mind
of good will…’…. 

“…’When priests or
contemplatives
who are overcome by torpor and lethargy…I am devoid of torpor and lethargy…’…. 

“…’When priests or
contemplatives
who are restless and with an unstill mind…I have a still mind…’…. 

“…’When priests or
contemplatives
who are uncertain and doubting…I have gone beyond uncertainty…’…. 

“…’When priests or
contemplatives
who are given to praising themselves and disparaging others…I do not
praise myself or disparage others…’…. 

“…’When priests or
contemplatives
who tend toward panic and dread…I have gone beyond horripilation…’…. 

“…’When priests or
contemplatives
who are desirous of gains, offerings, and fame…I have few wants…’…. 

“…’When priests or
contemplatives
who are lazy and lacking in persistence…My persistence is aroused…’…. 

“…’When priests or
contemplatives
who are muddled in their mindfulness and unalert…I have mindfulness established…’…. 

“…’When priests or
contemplatives
who are unconcentrated, with straying minds…I am consummate in concentration…’…. 

“The thought occurred to
me: ‘When priests or contemplatives who are drooling idiots, resort to
isolated forest or wilderness dwellings, it’s the fault of their drooling
idiocy that they give rise to unskillful fear and terror. But it’s not
the case that I am a drooling idiot, when I resort to isolated forest or
wilderness dwellings. I am consummate in discernment. I am one of those
noble ones who are consummate in discernment when they resort to isolated
forest or wilderness dwellings.’ Seeing in myself this consummate discernment,
I felt even more undaunted about staying in the wilderness. 

“The
thought
occurred to me: ‘What if — on recognized, designated nights such as the
eighth, fourteenth, and fifteenth of the lunar fortnight — I were to stay
in the sort of places that are awe-inspiring and make your hair stand on
end, such as park-shrines, forest-shrines, and tree-shrines? Perhaps I
would get to see that fear and terror.’ So at a later time — on recognized,
designated nights such as the eighth, fourteenth, and fifteenth of the
lunar fortnight — I stayed in the sort of places that are awe-inspiring
and make your hair stand on end, such as park-shrines, forest-shrines,
and tree-shrines. And while I was staying there a wild animal would come,
or a bird would make a twig fall, or wind would rustle the fallen leaves.
The thought would occur to me: ‘Is this that fear and terror coming?’ Then
the thought occurred to me: ‘Why do I just keep waiting for fear? What
if I were to subdue fear and terror in whatever state they come?’ So when
fear and terror came while I was walking back and forth, I would not stand
or sit or lie down. I would keep walking back and forth until I had subdued
that fear and terror. When fear and terror came while I was standing, I
would not walk or sit or lie down. I would keep standing until I had subdued
that fear and terror. When fear and terror came while I was sitting, I
would not lie down or stand up or walk. I would keep sitting until I had
subdued that fear and terror. When fear and terror came while I was lying
down, I would not sit up or stand or walk. I would keep lying down until
I had subdued that fear and terror. 

“There are some priests and
contemplatives, brahmin, who have the perception of ‘day’ when it is night,
and of ‘night’ when it is day. This, I tell you, is their being in a dwelling
of delusion. As for me, I have the perception of ‘day’ when it is day,
and of ‘night’ when it is night. If anyone, when speaking rightly, were
to say, ‘A being not subject to delusion has appeared in the world for
the benefit and happiness of many, out of sympathy for the world, for the
welfare, benefit, and happiness of human and divine beings,’ he would rightly
be speaking of me. 

“Unflagging persistence was
aroused in me, and unmuddled mindfulness established. My body was calm
and unaroused, my mind concentrated and single. Quite withdrawn from sensuality,
withdrawn from unskillful mental qualities, I entered and remained in the
first jhana: rapture and pleasure born from withdrawal, accompanied by
directed thought and evaluation. With the stilling of directed thought
and evaluation, I entered and remained in the second jhana: rapture and
pleasure born of composure, unification of awareness free from directed
thought and evaluation — internal assurance. With the fading of rapture
I remained in equanimity, mindful and alert, and physically sensitive of
pleasure. I entered and remained in the third jhana, of which the noble
ones declare, ‘Equanimous and mindful, he has a pleasurable abiding.’ With
the abandoning of pleasure and pain — as with the earlier disappearance
of elation and distress — I entered and remained in the fourth jhana:
purity of equanimity and mindfulness, neither pleasure nor pain. 

“When the mind was thus concentrated,
purified, bright, unblemished, rid of defilement, pliant, malleable, steady,
and attained to imperturbability, I directed it to the knowledge of
recollecting my past lives.
I recollected my manifold past lives, i.e.,
one birth, two…five, ten…fifty, a hundred, a thousand, a hundred thousand,
many eons of cosmic contraction, many eons of cosmic expansion, many eons
of cosmic contraction and expansion: ‘There I had such a name, belonged
to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience
of pleasure and pain, such the end of my life. Passing away from that state,
I re-arose there. There too I had such a name, belonged to such a clan,
had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure
and pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose
here.’ Thus I remembered my manifold past lives in their modes and details. 

“This was the first knowledge
I attained in the first watch of the night. Ignorance was destroyed; knowledge
arose; darkness was destroyed; light arose — as happens in one who is
heedful, ardent, and resolute. 

“When the mind was thus concentrated,
purified, bright, unblemished, rid of defilement, pliant, malleable, steady,
and attained to imperturbability, I directed it to the knowledge of
the passing away and reappearance of beings.
I saw — by means of the
divine eye, purified and surpassing the human — beings passing away and
re-appearing, and I discerned how they are inferior and superior, beautiful
and ugly, fortunate and unfortunate in accordance with their kamma: ‘These
beings — who were endowed with bad conduct of body, speech and mind, who
reviled noble ones, held wrong views and undertook actions under the influence
of wrong views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared
in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in
hell. But these beings — who were endowed with good conduct of body, speech,
and mind, who did not revile noble ones, who held right views and undertook
actions under the influence of right views — with the break-up of the
body, after death, have re-appeared in the good destinations, in the heavenly
world.’ Thus — by means of the divine eye, purified and surpassing the
human — I saw beings passing away and re-appearing, and I discerned how
they are inferior and superior, beautiful and ugly, fortunate and unfortunate
in accordance with their kamma. 

“This was the second
knowledge
I attained in the second watch of the night. Ignorance was destroyed; knowledge
arose; darkness was destroyed; light arose — as happens in one who is
heedful, ardent, and resolute. 

“When the mind was thus concentrated,
purified, bright, unblemished, rid of defilement, pliant, malleable, steady,
and attained to imperturbability, I directed it to the knowledge of
the ending of the mental fermentations.
I discerned, as it was actually
present, that ‘This is stress…This is the origination of stress…This
is the cessation of stress…This is the way leading to the cessation of
stress…These are fermentations…This is the origination of fermentations…This
is the cessation of fermentations…This is the way leading to the cessation
of fermentations.’ My heart, thus knowing, thus seeing, was released from
the fermentation of sensuality, released from the fermentation of becoming,
released from the fermentation of ignorance. With release, there was the
knowledge, ‘Released.’ I discerned that ‘Birth is ended, the holy life
fulfilled, the task done. There is nothing further for this world.’ 

“This was the third knowledge
I attained in the third watch of the night. Ignorance was destroyed; knowledge
arose; darkness was destroyed; light arose — as happens in one who is
heedful, ardent, and resolute. 

“Now, brahmin, if the thought
should occur to you, ‘Perhaps Gotama the contemplative is even today not
free of passion, not free of aversion, not free of delusion, which is why
he resorts to isolated forest and wilderness dwellings,’ it should not
be seen in that way. It’s through seeing two compelling reasons that I
resort to isolated forest and wilderness dwellings: seeing a pleasant abiding
for myself in the present, and feeling sympathy for future generations.” 

“How truly future generations
have been shown sympathy by Master Gotama in the manner of one who is worthy
and rightly self-awakened! Magnificent, Master
Gotama! Magnificent! Just as if he were to place upright what had been
overturned, were to reveal what was hidden, were to show the way to one
who was lost, or were to hold up a lamp in the dark so that those with
eyes could see shapes, in the same way Master Gotama has — through many
lines of reasoning — made the Dhamma clear. I go to Master Gotama for
refuge, to the Dhamma, and to the Sangha of monks. May Master Gotama remember
me as a lay follower who has gone to him for refuge, from this day forward,
for life.”

 


Revised:
Thu 1 April 1999 , http://world.std.com/~metta/canon/majjhima/mn4.html