Toàn Không
Một hôm đức
Phật vào thành A-Nậu-Di khất thực, nhưng vì còn sớm, nên Ngài ghé vào vườn chỗ
cư ngụ của Phạm-chí Phòng-già-Bà, để đợi đến giờ rồi mới đi khất thực; lúc đó,
Phạm-Chí từ xa trông thấy đức Phật đi đến liền ra nghênh đón và nói:
– Chào Cù-Đàm, qúy hóa thay đức Cù-Đàm; từ lâu không
đến, nay Ngài chiếu cố chắc là có chuyện gì, kính mời Ngài ngồi chỗ này.
Khi đức
Phật tiến đến chỗ ngồi và an tọa tại đấy rồi, Phạm-chí Phòng-già-Bà ngồi xuống
một bên và nói:
– Chiều hôm qua có Ly-xa-Tử (là Tỳ-Kheo Thiện-Túc) đến
chỗ tôi và nói như sau: “Này Đại-sư, tôi
không còn theo Cù-Đàm để tu phạm hạnh nữa, vì Ngài đã bỏ rơi tôi”. Ông ta
nói lỗi của Ngài, dù nói như thế nhưng tôi không tin.
Đức Phật nói với Phạm-Chí:
– Tôi biết những lời nói của Thiện-Túc và ông không bao
giờ tin. Hồi tôi du hóa ở thành Tỳ-xá-Ly, Thiện-Túc đến nói với tôi: “Như-Lai bỏ rơi con, con không theo Như-Lai
tu phạm hạnh nữa, vì Như-Lai không vì con mà thị hiệnthần thông biến hóa”.
Lúc ấy tôi
nói: “Trước đây Ta có yêu cầu ông ở trong
giáo pháp của Ta tu phạm-hạnh, rồi Ta sẽ hiện thần thôngbiến hóa không?”
Hoặc ông có nói với Ta rằng: “Như-Lai
phải vì ông thị hiệnthần thôngbiến hóa rồi sau đó ông mới tu phạm-hạnh không?”.
Bấy giờ
Thiện-Túc nói: “Thưa Thế-Tôn, không có”.
Tôi bảo Thiện-Túc: “Theo ý ông có cho rằng
Như-Lai có thể hiệnthần thông hay không? và pháp của Ta nói ra có thể làm cho
ông vĩnh viễn xa lià các khổ và được giải-thoát không?”
Thiện-Túc
trả lời: “Đúng như vậy, Như-Lai có thể
hiệnthần thông chứ chẳng phải không, và giáo pháp của Thế-Tôn có thể làm cho
người được giải-thoát, xa lià vĩnh viễn các khổ chứ chẳng phải không”.
Tôi lại hỏi
Thiện-Túc: “Này Thiện-Túc, nếu giáo pháp của Ta có thể làm cho người tu phạm-hạnh
được giải-thoát, có thể hiệnthần thông chứ chẳng phải không; vậy ông ở trong
giáo pháp này còn mong nuốn điều gì nữa?”
Thiện-Túc
đáp: “Thưa, Thế-Tôn không thể tùy thời
dạy con, Thế-Tôn biết hết bí thuật nhưng lại tiếc không dạy hết cho con”.
Tôi bảo
Thiện-Túc: “Ta có từng bảo ông ở trong pháp Ta, rồi sau đó Ta sẽ dạy các bí thuật
không? Hoặc ông có từng yêu cầu Ta dạy bí thuật, rồi sau đó ông mới ở chỗ Ta
tịnh tu phạm-hạnh không?”
Thiện-Túc
trả lời: “Thưa không”.
Tôi còn bảo
Thiện-Túc: {{Trước kia ở lãnh thổ Bạt-Xà, ông dùng vô sốphương tiện để khen
ngợi Như-Lai, khen ngợi chính-pháp, khen ngợi chúng Tỳ-Kheo khiến cho mọi ngườiưa thích. Nay ông thối chí, người đời sẽ nói: “Tỳ-Kheo Thiện-Túc là đệ-tử gần gũi Như-Lai, mà không thể trọn đời tu
phạm-hạnh, lại xả giới hoàn tục ở vào địa vịthấp kém, hành động xấu xa”}}; hôm ấy tôi đã giảng giải đủ điều, nhưng
Thiện-Túc vẫn không chịu nghe cứ xả giới hoàn tục.
Hồi tôi ở
trên nhà giảng Pháp bên ao Nhĩ-bầu, bấy giờ có Ni-kiền tên là Già-la-Lâu đang
cư ngụ gần đó, được mọi người trong vùng tôn kính là người trí thức, có danh
tiếng đồn xa. Một hôm, Thiện-Túc vào
thành Tỳ-xá-Ly khất thực, lần hồi đi đến chỗ Ni-kiền Già-la-Lâu; Thiện-Túc đem
ý nghiã sâu xa để hỏi, ông ta không đáp được bèn sinh tâm tức giận, Thế rồi
Thiện-Túc tự nghĩ: “Ta khuấy rối người
này, sẽ không có qủa báo về khổ não”.
Sau khi
khất thực xong, Thiện-Túc đi đến chỗ tôi, nhưng không mang sự kiện trên thuật
lại, tôi nói: “Ông là kẻ vô trí, ông đâu
có thể tự xưng là Sa-môn Thích-tử được”.
Thiện-Túc
hỏi lại: “Thưa Thế-Tôn, vì lý do gì
Thế-Tôn lại nói con là đồ ngu, và con không nên xưng là Thích-tử?”
Tôi trả
lời: {{Vì ông đã làm cho Ni-Kiền tức giận, và khi ấy ông còn tự nghĩ: “Nay Ta khuấy rối Ni-Kiền này sẽ mãi mãi
không có qủa báo về khổ não”, ông có nghĩ như vậy không?}}.
Thiện-Túc
nói: “Ông ta là La-Hán thì vì lý do gì
lại có tâm sân hận và ganh tị?”
Tôi bảo
Thiện-Túc: “Đã là La-Hán không vì lý do gì
lại có tâm sân hận và ganh tị, vả lại, ông tự cho người ấy là La-Hán, nhưng
thực tế ông ta chỉ có bảy pháp khổ hạnh. Đó là trọn đời không mặc quần áo,
không uống rượu, không ăn thịt, không ăn cơm, không ăn mì khô, không phạm
phạm-hạnh, và không ra khỏi bốn tháp đá của thành Tỳ-xá-Ly, nhưng ông ta đã
phạm cả bẩy điều trên. Vì đã làm trái với bảy điều thề nguyện trên, ông ta ví
như con dã-can, mắc bệnh ốm yếu, lở lói và thác ở ngoài gò mả”. Rồi tôi bảo Thiện-Túc: “Nếu không tin lời Ta, ông nên đến đó xem là tự nhiên biết”.
Hai ngày
sau, Thiện-Túc vào thành khất thực, khi xong ra khỏi thành, đến nơi gò mả, thấy
Ni-kiền Già-la-Lâu đã chết tại đó, thấy xong, Thiện-Túc đến nơi tôi, nhưng
không đem sự kiện trên nói lại với tôi, bấy giờ tôi hỏi Thiện-Túc: “Thế
nào, Ta đã dự ký về Ni-kiền Già-la-Lâu, sự việc có như lời Ta nói không?”
Thiện-Túc
đáp: “Đúng như vậy, đúng như lời Thế-Tôn
đã nói”.
Tôi thường
vì Thiện-Túc mà hiện Thần thông như thế, nhưng ông ta vẫn nói rằng: “Thế-Tôn không vì con mà hiện thần thông”.
Lại nữa, có
một lần tôi du hóa ở ấp Bạch-thổ thuộc nước Minh-Ninh, ở đó có một vị Ni-Kiền
tên Cứu-la-Đế được mọi ngườitôn kính, danh tiếng đồn xa; một hôm, Thiện-Túc đi
khất thựctheo sau tôi, vừa trông thấy Ni-kiền Cứu-la-Đế ở trên đống phân, đang
ăn bã rượu, Thiện-Túc liền có ý nghĩ: “Các
hàng La-Hán trong thế-gian đều không bằng được vị Ni-Kiền này, vì đạo vị của vị
này thật là thù thắng, bởi tu khổ hạnh như thế mới trừ được tâm ngã mạn”.
Ông biết
không? lúc đó tôi quay lại bảo Thiện-Túc:
“Ông là kẻ vô trí, đâu có thể tự xưng là Thích-tử được”.
Thiện-Túc
nói: “Vì lý do gì Thế-Tôn nói con như
vậy?”
Lúc ấy tôi
bảo Thiện-Túc: {{Vì khi ông vừa trông thấy Ni-Kiền kia ngồi trên đống phân,
đang ăn bã rượu, ông liền nghĩ rằng: “Các
hàng La-Hán trong thế-gian đều không bằng được vị Ni-Kiền này, vì đạo vị của vị
này thật là thù thắng, bởi tu khổ hạnh như thế mới trừ được tâm ngã mạn”; Ông có nghĩ như vậy không?}}.
Thiện-Túc
thưa: “Thật con có nghĩ như vậy, nhưng
tại sao Thế-Tôn đối với vị La-Hán mà còn sinh tâm ghen tị?”
Tôi bảo
Thiện-Túc: “Ta không bao giờ sinh tâm
ghen tị đối với một vị La-Hán. Ông là kẻ vô trí, nên cho rằng Ni-kiền Cứu-la-Đế
là La-Hán. Người này sau bảy ngày sẽ mắc chứng bệnh bụng to mà qua đời, và sẽ
sinh vào loài Ngạ-qủy Khả-thi thường khổ sở vì đói khát. Hơn nữa, sau khi ông
ta chết, người ta dùng dây tơ bó lại rồi bỏ ngoài gò mả, nếu ông không tin thì
cứ đến báo trước cho ông ta”.
Bấy giờ
Thiện-Túc liền đi đến chỗ Ni-Kiền và nói những lời y như tôi đã nói về cái chết
của Cứu-la-Đế. Thiện-Túc còn căn dặn Ni-Kiền: “Ông nên bớt ăn và phải cẩn thận, chớ để lời nói của Cù-Đàm trở thành
sự thật”.
Thiện-Túc
co lóng tay đếm từng ngày, khi hết bảy ngày, Thiện-Túc liền đi đến chỗ của
người lõa thể ấy; không thấy Cứu-la-Đế, Thiện-Túc hỏi thăm những người trong
xóm, được biết ông ta đã mắc phải bệnh bụng to mà chết rồi, và xác đã đem bỏ
ngoài gò mả. Thiện-Túc liền đi đến gò mả, trông thấy tử thi Cứu-la-Đế bị bó
bằng dây tơ, Thiện-Túc nói với ý hỏi tử thi: “Này Cứu-la-Đế, ông đã chết thật rồi ư, do bệnh gì, ông sinh về đâu?”
Bỗng nhiên
tử thicử động và nói yếu ớt: “Ta đã chết
rồi vì bụng xưng to và sinh vào loài Ngạ-qủy Khả-thi. Ông tuy xuất gia, nhưng
không lợi ích gì, vì Sa-môn Cù-Dàm đã nói việc này như thế mà ông không tin”,
khi nói xong lời này, tử thi nằm yên không còn cử động nữa.
Khi
Thiện-Túc đi đến chỗ tôi, không đem việc ấy kể lại, tôi bèn hỏi Thiện-Túc: “Thế nào, Như Ta dự ký về Cứu-la-Đế, có
thật như vậy không?”
Thiện-Túc
trả lời: “Thật vậy, đúng như lời Thế-Tôn
đã nói”.
Một lần
khác, lúc đó có Phạm-chí tên Ba-lê-Tử đang sống gần khu tôi trú ngụ, Phạm-chí
này được nhiều người cung kính, danh tiếng đồn xa, có nhiều lợi dưỡng. Một hôm,
ông ta đứng giữa đại-chúng trong thành Tỳ-xá-Ly nói như sau: “Sa-môn Cù-Đàm tự xưng có đại trí-tuệ, ta
cũng có đại trí-tuệ; Sa-Môn Cù-Đàm tự xưng có thần-túc, ta cũng có thần-túc;
Sa-môn Cù-Đàm tự xưng được đạo siêu-việt, ta cũng được đạo siêu-việt. Ta sẽ
cùng Sa-môn Cù-Đàm hiện thần-túc, Sa-môn hiện một, ta sẽ hiện hai, Sa-môn hiện
hai ta sẽ hiện bốn, Sa-môn hiện bốn ta sẽ hiện tám; tùy theo Sa-môn hiện nhiều
hay ít, ta sẽ hiện gấp đôi”;lúc ấy Tỳ-kheo Thiện-Túc đi khất thực, nghe
thấy phạm-chí Ba-lê-Tử ở giữa đại-chúng nói những điều như thế.
Sau khi
khất thực xong, Thiện-Túc đi đến chỗ tôi, và nói lại những điều mà Ba-lê-Tử đã
nói giữa đại-chúng; tôi nói với
Thiện-Túc: “Nếu Phạm-chí Ba-lê-Tử ở giữa
đại-chúng không bỏ lời nói ấy, không bỏ kiến giải ấy, không bỏ sự kiêu mạn ấy,
mà đi đến chỗ Ta, thì hoàn toàn không có sự kiện ấy”.
Bấy giờ
Thiện-Túc nói: “Thế-Tôn nên giữ lời,
Như-Lai nên giữ lời, vì ông Ba-lê-Tử có đại oai-thần-lực, có đại công-đức,
thoát khỏiđời sau; ông ta sẽ không trông thấy sự hư dối của Thế-Tôn ư?”
Tôi bảo
Thiện-Túc: “Như-Lai có bao giờ nói hai
lời không, và vì cớ gì ông lại nói Như-Lai nên giữ lời?”
Thiện-Túc
đáp: “Thưa, Như-Lai không bao giờ nói hai
lời, nhưng Thế-Tôn tự biết ông Ba-lê-Tử hay vì chư Thiên đến nói chuyện chứ?”
Lúc ấy tôi
bảo Thiện-Túc: {{Ta tự biết, chư Thiên cũng đến nói cho Ta biết. Về trường hợp
Đại-tướng A-do-Đà trong thành Tỳ-xá-Ly này, sau khi chết sinh lên cõi trời
Đạo-Lợi, tướng A-do-Đà đến nói với Ta như sau: “Ông Phạm-chí Ba-lê-Tử chẳng biết hổ thẹn, phạm giớivọng ngữ, ông
Ba-lê-Tử ở giữa đại-chúng trong thành Tỳ-xá-Ly, nói lời chê bai như thế này:
Đại-tướng A-do-Đà chết rồi sẽ sinh vào loài Qủy Khởi-thi, nhưng thực ra sau khi
qua đời ở cõi trần tôi được sinh lên cõi trời Đạo-Lợi”,về việc ông Ba-lê-Tử thì Ta đã biết trước, và các vị Trời cũng
đến nói với Ta. Này Thiện-Túc, kẻ vô trí, ông không tin lời Ta nói, thì vào
thành Tỳ-xá-Ly, tùy ông muốn nói gì thì nói; ngày mai, sau khi khất thực, thụ
trai xong, Ta sẽ y như lời mà đến chỗ ở của ông Ba-lê-Tử}}.
Hôm sau
Thiện-Túc vào thành khất thực, và hướng về những chúng Bà-la-Môn, Sa-Môn,
Phạm-Chí, nói đầy đủ những lời như sau: {{Hôm qua, ông Phạm-chí Ba-lê-Tử ở
trong đại-chúng đã nói những lời như sau: “Sa-môn
Cù-Đàm tự xưng có đại trí-tuệ ta cũng có đại trí-tuệ, Sa-môn Cù-Đàm tự xưng có
thần túc ta cũng có thần túc, Sa-môn Cù-Đàm được đạo siêu-việt ta cũng được đạo
siêu-việt. Ta sẽ cùng Sa-môn Cù-Đàm hiện thần-túc, Sa-môn hiện một ta sẽ hiện
haị, Sa-môn hiện hai ta sẽ hiện bốn, Sa-môn hiện bốn ta sẽ hiện tám; tùy theo
Sa-môn Cù-Đàm hiện nhiều hay ít, thì ta đều hiện gấp đôi”; bởi thế cho nên
Sa-môn Cù-Đàm sẽ đến chỗ ở của ông Ba-lê-Tử sau khi khất thực xong trưa nay, vậy
mọi người có thể đến đó sau buổi trưa này}}.
Bấy giờ
Phạm-chí Ba-lê-Tử đang đi trên đường, Thiện-Túc trông thấy ông ta vội đến gặp
và nói: “Ngày hôm qua, ở giữa đại-chúng,
ông đã nói những lời khiêu khích, thách đố đối với Sa-môn Cù-Đàm; Sa-môn Cù-Đàm
đã nghe những lời ấy rồi, nay sẽ đến chỗ ở của ông vào sau buổi trưa hôm nay,
vậy ông nên mau trở về ngay đi”.
Phạm-chí
Ba-lê-Tử trả lời Thiện-Túc: “Ta sẽ về, ta
sẽ về”, nói xong lại tự hoảng sợ, chẳng dám về chỗ ở của mình, mà đến rừng
của Phạm-chí Đao-đầu-Ba.
Sau khi thụ
trai xong, tôi cùng nhiều chúng Lệ-xa, Sa-môn, Bà-la-Môn, Phạm-chí, v.v.., đến
chỗ ở của ông Ba-lê-Tử. Mọi người chờ đợi không thấy ông Ba-lê-Tử về, tôi bảo: “Hiện tại ông ta đang ngồi trên giường dây
(giống như võng) trong rừng của ông Đao-đầu-Ba”.
Bấy giờ
mọi người đều bảo ông Phạm-chí Giá-La là bạn của Ba-lê-Tử: “Ông Giá-La nên đi đến rừng của ông Đạo-đầu-Ba, và ông vui lòng nói với
ông Ba-lê-Tử rằng: chúng tôi gồm Lệ-xa, Sa-môn, Bà-la-môn, Phạm-chí, Cư-sĩ; mọi
người đều tập hợp nơi rừng của ông Ba-lê-Tử, và bàn luận về việc ông Ba-lê-Tử
đã nói những lời thách thức đối với Sa-môn Cù-Đàm, vậy ông Ba-lê-Tử nên trở về
ngay kẻo mọi người mong đợi”.
Ông Giá-La
liền đi đến rừng Đạo-đầu-Ba gặp Ba-lê-Tử, và nói những lời đại chúng đã dặn
bảo, Ba-lê-Tử trả lời rằng: “Tôi sẽ về,
tôi sẽ về”.
Khi nói
xong lời này, ở trên giường dây xoay trở không yên, dường như giường dây dính
chặt vào chân, khiến ông ta không thể rời khỏi giường, huống chi là về; khi ấy
ông Giá-La nói với Ba-lê-Tử: “Chính ông
là kẻ vô trí, chỉ có lời nói suông là sẽ về sẽ về, tự mình còn không thể rời
khỏi giường, thì làm sao có thể đi về gặp đại chúng?”
Quở trách Ba-lê-Tử xong, ông Giá-La liền
trở về nói với đại-chúng những sự việc xẩy ra như thế, bấy giờ ông
Lệ-xa Nhất-đầu-Ma đang ngồi trong đại-chúng liền đứng dậy, trịch áo (trệ) bầy
vai phải, qùy gối chắp tay mà thưa với đại-chúng: “Xin qúy vị hãy đợi một lúc, tôi xin đi đến đó, đem ông Ba-lê-Tử về
đây”.
Khi đó tôi
bảo Lệ-xa Nhất-đầu-Ma rằng: “Ông ta nói những lời như thế, kiến chấp như
thế, kiêu mạn như thế, mà muốn ông ta về đây, thì không có sự kiện này. Dù ông
lấy dây buộc nhiều vòng, cho bầy trâu kéo, chỉ làm cho thân ông ta tan nát, chứ
ông ta cũng nhất định không thể về. Nếu ông không tin, cứ đến đó sẽ tự biết”.
Ông Lệ-xa
Nhất-đầu-Ma đi đến chỗ Ba-lê-Tử và nói: “Đại-chúng
đang nóng lòng chờ đợi ông về vì việc ông đã nói có liên quan đến Sa-môn
Cù-Đàm. Vậy ông phải trở vềngay lập tức, không thể vì lý do gì mà trì hoãn
được nữa”.
Ba-lê-Tử
cũng đáp: “Tôi sẽ về, sẽ về”.
Nhưng ông
ta ở trên giường dây, toàn thân rúng động, mặt mũi nhăn nhó, thân dính chặt vào
giường, khiến ông ta không thể rời khỏi giường (rõ ràng bị Phật hành vì kiêu
mạn nói bậy).
Bấy giờ
Lệ-xa Nhất-đầu-Ma nói với Ba-lê-Tử rằng: “Chính
ông là kẻ vô trí, chỉ có lời nói suông là sẽ về sẽ về, mà chính mình không thể
rời khỏi giường dây, làm sao có thể đi về chỗ đại-chúng được?”
Lệ-xa nói
tiếp: {{Những người có trí nhờ thí dụ mà hiểu. Về qúa khứ thật lâu xa, có một
con Sư-tử là vua của các loài thú sống trong rừng sâu; con Sư-tử này, vào mỗi
buổi sáng sớm, vừa ra khỏi hang, vươn vai ngó quanh bốn phiá, kêu to ba tiếng,
rồi mới dạo đi lựa thịt mà ăn. Vua Sư-tử của các loài thú ấy khi ăn xong bỏ đi
chỗ khác, thường có một con Dã-can theo sau tự đằng xa nhìn trộm. Khi vua Sư-tử
ăn xong bỏ đi liền đến ăn thứ dư thừa còn sót lại, nhờ thế mà khí lực Dã-can
được đầy đủ, Dã-can tự nói: “Sư-tử kia là
thứ gì mà có thể hơn ta được, nay ta có thể đi săn mồi riêng tại một khu rừng”.
Sau đó Dã-can tìm đến một khu rừng, và ở riêng tại đó; vào sáng sớm, ra khỏi
hang, kêu to ba tiếng, dù muốn bắt chước tiếng kêu của Sư-tử, nhưng vẫn là
tiếng của Dã-can}}.
Ông Lệ-sa
Nhất-đầu- Ma nói tiếp: “Này Ba-lê-Tử, ông
cũng giống như thế, nhờ ân đức của đức Cù-Đàm, nên được sống còn ở thế gian,
được người cung kínhcúng dường, có nhiều lợi dưỡng, thế mà nay lại muốn cạnh
tranh cùng đức Cù-Đàm”.
Nói xong,
Lệ-xa Đầu-Ma dùng kệ để trách cứ Ba-lê-Tử như sau:
rừng vắng một mình, Tự
cho là vua thú, Muốn
rống tiếng Sư-tử, Lại
ra tiếng Dã-can. Qùy đất tìm hang chuột, Moi mồ kiếm tử-thi, Muốn rống tiếng Sư-tử, Lại ra tiếng Dã-can.
Lệ-xa
Đầu-Ma quở trách Ba-lê-Tử xong, trở về thưa với đại-chúng sự việc xẩy ra như
trên, và xác nhận những lời tôi đã nói; bấy giờ tôi cùng với đại chúng nói các
thứ pháp, chỉ bảo những điều lợi ích an vui. Hôm ấy, trong đại-chúng ấy, tôi đã
rống tiếng rống Sư-tử, rồi thân bay lên hư không, lại trở về chỗ cũ nhẹ nhàng;
tôi đã hiện thần thông như thế, Thiện-Túc cũng thấy như thế, do đó ông biết
Thiện-Túc là người như thế nào rồi.,.
Toàn Không