Ẩm Thực Và Những Giới Luật Liên Quan

ẨM THỰC VÀ NHỮNG GIỚI LUẬTLIÊN QUAN
Thị Ngộ

khat_thuckhat_thucVạn loại hữu tình và ngay cả loài vô
tình tồn tạisinh trưởng đều phải nhờ có sự trao đổi chất. Sự trao đổi chất
đối với loài động vậtbao gồmcon người không thể không kể đến vấn đềẩm thực.
Hai từ “ẩm thực” vừa có nghĩa là thức ăn, nước uống hay thực phẩm; vừa là cách
thức ăn uống. 

Từ ngàn xưa, vấn đềẩm thực đã được xã hộiloài ngườiquan tâm
bởi qua đó văn hóa được biểu hiện. Ngày nay, văn hóaẩm thực đã trở nên phổ
biến
và mỗi quốc gia, thậm chí mỗi địa phương đều có văn hóaẩm thực đặc trưng.
Đó là sự biểu hiện về mặt tinh thần từ ẩm thực. Ngoài ra, ẩm thực còn liên quan
đến
sức khỏecon người qua câu nói “bịnh tùng khẩu nhập” nên nó trở nên rất
quan trọng trong cuộc sống con người. Chế độ ăn uống, chế độ dinh dưỡng… đối
với tầng lớp khá giả không còn là điều mới lạ nữa. Với Phật giáo, mặc dù vấn đềẩm thực được khuyến khích chỉ để nuôi thân phục vụtu tập, không nên tham đắm
chấp mắc vào nó nhưng xem ravấn đề này cũng đã gây ra không ít tranh luận
trong giới tu sĩ và cả cư sĩ. Vì sự tranh luận phát sinh từ ẩm thực mà các giới
luật
được chế ra để hướng dẫn và điều chỉnh việc thực hành cho phù hợp với hoàn
cảnh
cụ thể. Bài viết sẽ đề cập một số vấn đềliên quan đếnẩm thựcgiới
luật
Phật giáo

Thức ăn uống và cách được chúng

Như đã nói trên, ẩm thực có nghĩa
thức ăn uống và cách thức ăn uống. Trong Phật giáo, thức ăn chia ra làm hai
loại là thức ăn mặn và thức ăn chay. Thức ăn mặn là thịt của tất cả các loài
động vật dù là có máu hay không có máu, máu đỏ hay màu vàng… Thức ăn chay là
thực phẩm có nguồn gốc từ thực vật như
trái cây, rau quả… Những loại thức ănbao gồm sữa, mật ong được đa sốthừa nhận
thực phẩm chay nhưng một số cũng không sử dụng. Các loạithực phẩm khác như
trứng công nghiệp, ngũ vị tân (hành, hẹ, tỏi, kiệu/nén, hưng cừ) cũng thuộc vào
thành phần bất phân rõ ràng. Thực phẩm chay trong Phật giáo, như thế, khác với
thực phẩm chay theo
quan niệm
của Thiên Chúa giáo. Theo họ, thực phẩm chay là bao gồm tất cả thực phẩm như tôm, cá, trứng… chỉ trừ
thịt của động vật có máu nóng. Về nước uống, Phật tử được dùng các loại nước
uống như nước lọc, nước trái cây… trừ các loại rượu, bia hay các thứ có nồng độ
làm say người.

Khi Phật còn tại thế, cách được
thức ănduy nhất của Tăng Nikhất thực. Truyền thống này vẫn còn được duy
trì
tại các nước Phật giáo theo truyền thốngNam tông như Thái Lan, Lào…. Khi
thực hành hạnh khất thực, Tăng Ni đều phải hoan hỷthu nhận phẩm vật cúng dường
bất luận là chay hay mặn và không có tâm phân biệt. Do đó, Tăng Ni được phép ăn
mặn
. Đối với các nước Phật giáo theo Bắc tông như Trung Quốc, Nhật Bản… do
truyền thốngvăn hóa khác nhau nên Tăng Ni không thể duy trì hạnh khất thực
được mà phải tự cung tự cấp hay nhận thực phẩmcúng dường từ tín đồ tại các
chùa. Chùa thời xưa được cấp đất để canh tác thu hoa lợisinh hoạt. Ngày nay,
nhiều chùa ở đô thị không có đất canh tác nên nhờ sự cúng dường của tín đồPhật
tử
. Dù xưa hay nay, Tăng Ni cũng phải tự nấu ăn hoặc có nơi Phật tử đến chùa
làm công quảphụ giúp chăm lo ẩm thực. Như vậy, có sự khác biệt giữa hai truyền
thống
Phật giáo. Một bên nhận thực phẩm từ cư sĩ không phân biệt chay mặn thông
qua hạnh khất thực còn một bên phải tự lo thức ăn tại chùa. Vì tự cung tự cấp
thức ăn nên truyền thốngBắc tông chỉ chế biến và sử dụngthực phẩm chay.

Do có sự khác biệt trên nên giới
luật
cho Tăng Ni thuộc hai truyền thống cũng có điểm giống và khác nhau. Hai
truyền thống đều có giới liên quan đến việc sát sanh(1) – hành động
trực tiếp sản xuất ra thịt. Hai truyền thống đều có giới không được uống rượu
và các chất làm say người(2). Về sự khác nhau, bên Nam tông được
ăn thịt nhưng thịt ấy có được phải từ nguồn không thấy, không nghe, không nghi
gọi là tam tịnh nhục(3). Ngoài ra, Phật cũng chế là không được dùng
10 loại thịt gồm thịt người, voi, ngựa, chó, rắn, sư tử, hổ, beo, gấu, và chó
sói; nếu ăn thì phạm tác ác (dukkata)(4). Ngược lại, bên Bắc tông,
ngoài lý dotruyền thốngvăn hóa, còn có giới Bồ-tát quy định không ăn thịt.
Giới thứ nhất trong 10 giới trọng là giới sát sanh thay vì giới giết mạng người
như phần giới Thanh văn của Tỳ-kheo. Ở phần 48 giới khinh, các giới thứ 2, 3, 4
quy định rõ không uống rượu, ăn thịt và ăn ngũ tân theo thứ tự(5).
Về cách được thức ăn, trong Tỳ-kheo giới kinh của Bắc tông có các giới
29, 34, 40 thuộc 90 tội đọa(6).

Ẩm thực theo lời Phật dạy

Theo đạo Phật, mọi hành động phải
nên dựa trêntinh thầntừ bi, vô ngã. Nghĩa là không bám víu, chấp mắc vào bất
cứ một thứ gì dù đó là thiện, huống chi là bất thiện. Mục đích của ăn uống
nuôi thân để tu tập hướng đến giác ngộ, giải thoát và làm lợi lạctha nhân. Do
đó, tham đắm chấp mắc vào việc ăn uống là vướng vào một trong 5 món dục (tài,
sắc, danh, thực, thùy) làm cản trởcon đường tu tậptâm linh và tiến thân của
con người. Vì lẽ ấy, Phật dạy các đệ tử về thái độ khi ăn và cách thức ăn rất
rõ ràng. Có thể nói đây là đỉnh cao của nghệ thuật ẩm thực nếu xét theo tinh
thần
trên.

Về thái độ khi ăn, trong kinh Jivaka
thuộc kinh Trung bộ, Đức Phật dạy: Tỳ-kheo biến mãn hết thảy phương xứ, cùng
khắp vô biên giới với tâm có lòng từan trú; tâm câu hữu với quảng đại,
biên
, không hận, không sân và an trú. Khi đó, vị ấy sẽ không nghĩ: “Thật tốt
lành
thay, người cư sĩ này thỉnh ta dùng các món ăn khất thựcthượng vị. Mong
rằng người cư sĩ này trong tương lai sẽ thỉnh ta dùng các món khất thựcthượng
vị
như vậy.” Vị ấy thọ dụng các món khất thực với tâm khôngtham trước, không
tham đắm, không đam mê, thấy rõ các tai họa, ý thức rõ rệt sự xuất ly…Và do đó,
T
ỳ-kheo ấy, trong thời gian ấy không có nghĩ đến tự hại, hay nghĩ đến
hại người, hay nghĩ đến hại cả hai.
Hơn nữa, Đức Phật còn dạy: “Này
Jivaka, người nào vì Như Lai hay vì đệ tửNhư Lai mà giết hại sinh vật, người
ấy chất chứa nhiều phi công đức”
(7). Như vậy, Đức Phật
không ủng hộ việc giết hại sinh vật vì Ngài hay đệ tử của Ngài. Thái độ của một
vị Tỳ-kheo khi ăn là không được tham đắm món ăn thượng vị, không tỏ ý chê bai
hay chán ghét món ăn không hợp khẩu vị, và quan trọng là phải an trú trong khi
ăn và nhận biết rõ nó. Đó cũng là một cách thực tập thiền vậy.

Ngoài việc chỉ dạy thái độăn uống,
Đức Phật còn hướng dẫn cách ăn uống để thể hiệnoai nghitế hạnh và nét văn hóa
trong ẩm thực. Sự hướng dẫn được ghi trong các giới gồm 4 giới trong 4 tội
hướng bỉ hối, các giới từ 31 đến 37 trong 90 tội đọa và các điều 26 đến 31, 33
đến 48 trong 100 pháp chúng học thuộc giới Tỳ-kheo Bắc tông(8).

Thời gianẩm thực

Thời gian thọ thực được thực hành
rất nghiêm túc trong truyền thốngNam tông. Thời Phật còn tại thế,
một ngày chỉ ăn một bữa. Thời gian được ăn là sau khi khất thực xong và không
quá giữa ngày hay không quá giờ ngọ (chánh thời). Sau giờ ngọ gọi là phi thời.
Quy định không được ăn phi thời là giới thứ 37 trong 90 tội đọa của Tỳ-kheo.
Giới ăn phi thời cũng là giới thứ 9 trong 10 giới Sa-di và giới thứ 8 trong 8
giới Bát quan trai. Trong truyền thốngBắc tông, sau giờ ngọ được khai cho phép
ăn nhưng với điều kiện là phải sanh lòng hổ thẹn và “quán” thức ăn như là lương
dược
(thuốc hay) để chữa bịnh đói khát(9). Do đó, ngày nay đa số các
chùa Bắc tông đều có bữa ăn chiều. Ngoài ra, cũng có một số vị theo Nam tông hay
Bắc tôngphát nguyệnăn chay một ngày một bữa kết hợp giới của hai truyền
thống

Sự phân phái liên quan ẩm thực

Tưởng chừng ẩm thực trong Phật giáo
là chuyện nhỏ có thể dàn xếp được nhưng thực sự nó cũng góp phần gây ra những
tranh luận khá lớn. Đề-bà-đạt-đa (Devadatta) đã từng đề nghị Phật giao Tăng
đoàn
cho ông lãnh đạo. Không được chấp nhận, ông lập phe nhóm và đến thách đố
với Phật nhằm hạ uy tín Ngài. Một trong 5 điều ông yêu cầuTăng đoàn của Phật
thực hành là “Không ăn cá thịt cho đếntrọn đời, vị nào ăn cá thịt thì vị ấy
phạm tội”(10). Sau khi Phật nhập diệt khoảng hơn 100 năm, sự phân
phái thành Thượng tọa bộ (Phật giáo Nguyên thủy hay Nam tông) và Đại chúng bộ
(tiền thân của Phật giáoĐại thừa hay Bắc tông) xảy ra do bất đồng về giới
luật
, trong đó có các giới liên quan đếnẩm thực. Trong 10 điều được cho là
trái giới luật thì hết 5 điều liên quan đếnthực phẩm(11).

Trong thời hiện đại, Phật giáoNam tôngBắc
tông
có sự chia rẽ phần lớn cũng vì ẩm thực. Phật giáoNam
tông
khó chịu với bữa ăn chiều của Bắc tông trong khi Bắc tông thì chưa cảm
thông
được với việc ăn mặn của Nam
tông
. Trong một bài thuyết trình tại hội thảo với chủ đề “Truyền bá Phật giáo Nam truyền
(Theravada) thế kỷ XXI” tại Trường Đại học Mahamakut, Thái Lan, giáo sư
Gombrich đã có đề cập một việc mà theo giáo sư là tổn
thương
cho Phật giáo. Đó là việc Phật tử Sri Lanka không
xem Phật tửBắc tôngđồng đạo chỉ vì lý doduy nhấttiêu thụthực phẩm vào
buổi chiều(12). May thay, trong những năm gần đây Tăng-già của hai
truyền thốnghợp tácvới nhau cũng như tổ chức nhiều hội thảo về Phật giáo nên vấn đề vừa nêu đã giảm
thiểu
. Hai bên đã có sự cảm thông lẫn nhau và biết tôn trọngtruyền thống khác nhau. Ít ra, đó cũng là dấu hiệu đáng mừng cho
Phật giáo. 

Thay lời kết

Ẩm thựcvấn đềsinh tử của con
người
. Nó là nỗi lo của bao người nghèo khó nhưng lại là đối tượng hưởng thụ
của giới khá giả, giàu sang. Vì ẩm thựccon người có khi trở nên tồi tàn(13)
nhưng cũng chính ẩm thực biểu hiện văn hóacon người cao thấp giữa các quốc
gia
, các dân tộc. Người Phật tửăn uống không vì hưởng thụ và luôn thể hiện tầm
mức văn hóaẩm thực rất cao. Ăn trong chánh niệm, ăn trong sự biết ơn những
người nông phu cực khổ (nhựt thực tam san, mỗi niệm nông phu chi khổ) là một
nét văn hóatri ânbáo ân rất đáng trân trọng. Những giới luậtliên quan đếnẩm thực nhằm hướng dẫn thái độhành vi khi ăn uống của người xuất gia nói
riêng và người Phật tử nói chung. Bản thân nó không phải là nguyên nhân gây nên
sự tranh luận, bất hòa hay chia rẽ. Do vậy, hành xử linh độngtùy duyên với
nó là cách khôn ngoan để tạo sự đoàn kết và bảo vệPhật giáo. Bởi lẽ, chúng ta
chưa từng nghe một đấng giác ngộ hay tiên tri chỉ vì ăn uốngthành tựusự
nghiệp
tâm linh

 Chú thích

(1) Giới thứ nhất trong 10
giới của Sa-di và Sa-di-ni; giới thứ nhất trong 8 giới của người tu Bát quan
trai
; và giới thứ nhất trong 5 giới của người cư sĩ. Đối với Tỳ-kheo và
Tỳ-kheo-ni thì giới thứ 3 trong 4 giới hay 8 giới Ba-la-di (giới trọng) không
phải là giới sát sanh mà là giới giết mạng người.

(2) Giới thứ 51 trong 90 tội
đọa (Bắc tông) và giới thứ 51 trong 92 ưng đối trị (Nam tông); giới thứ 5 của
Sa-di, của cư sĩ tu Bát quan traicư sĩngũ giới.

(3) HT Thích Minh Châu dịch,
KinhTrung bộ: kinhJivaka 55, TP.Hồ Chí Minh: NXB. TP.
HCM, 1999.

(4)Đại Phẩm, http://www.budsas.org/uni/u-luat-daipham/dp-06.htm

(5) HT.Thích Trí Tịnh, Kinh
Phạm võng
Bồ-tát giới,
Hà Nội: NXB. Tôn Giáo, 2006, tr.19, 26-7.

(6) HT.Thích Thiện Hòa, Tỳ-kheo
giới kinh,
Hà Nội: NXB. Tôn Giáo, 2005, tr. 41-3.

(7) HT. Thích Minh Châu dịch, kinh Trung bộ: kinh
Jivaka 55, TP. HCM: NXB. TP.HCM, 1999.

(8) HT.Thích Thiện Hòa, sđd, tr.41-3, 53-5, 57-9.

(9) HT.Thích Thiện Hòa, sđd,
tr.12.

(10) http://www.budsas.org/uni/u-luat-tieupham/tp-07.htm.

(11)
http://vi.wikipedia.org/wiki/đại-hội-kết-tập-kinh-điển-Phật-giáo-lần-thứ-hai.

(12) Richarch Gombrich, Dissemination
of Theravada Buddhism in the 21st Century
,
http://www.ocbs.org/lectures-a-articles-ocbsmain-121/144-comfort-or-challenge?showall=1.

(13)“Miếng ăn là miếng tồi tàn; mất đi một miếng, lộn gan
lên đầu”.

Thị Ngộ