Mục Lục Tập I
Kinh Tiểu Tụng(Việt-Anh)
Kinh Pháp Cú(Việt-Anh) [Mục Lục]
Phẩm 01-10
Phẩm 11-20
Phẩm 21-26
Kinh Phật Tự Thuyết [Mục Lục]
Chương 01-03
Chương 04-05
Chương 06-08
Kinh Phật Thuyết Như Vậy
Chương 01
Chương 02
Chương 02
Chương 04
Kinh Tập [Mục Lục]
Chương 01 – Phẩm Rắn
Chương 02 – Tiểu Phẩm
Chương 03 – Đại Phẩm
Chương 04 – Phẩm Tám
Chương 05 – Trên Đường Đến Bờ Bên Kia
GIỚI THIỆU KINH TIỂU BỘ
(Khuddaka Nikàya)
Giáo sư Trần Phương Lan
Tiểu Bộ kinh có nhan đề “Tiểu Bộ”, nhưng lại chứa đựng số lượng kinh lớn nhất trong năm bộ Nikàya là 15 tập, so với Trường Bộ (3 tập), Trung Bộ (3 tập), Tương Ưng Bộ (5 tập) và Tăng Chi Bộ (3 tập). Chữ “Tiểu” ở đây, theo các vị luận sư, muốn chỉ tính cáchhỗn hợp nhiều đề tài được diễn tả bằng nhiều thể văn khác nhau, từ các kinh kệ ngắn gọn do Đức Phậtthuyết giảng, các tiền thânĐức Phật với hàng ngàn bài kệ do các vị Tỳ kheo cảm tác, tiểu sử các Đức Phật, các vị A la hán, sự tíchThiên cung, Ngạ quỷ do chư vị kết tập kinh điểnbiên soạn…, đến các luận thư phân tích giáo lý mở đầu cho văn họcA Tì Đàm (Abhidhamma) của Luận tạng về sau. Tóm lạiTiểu Bộ kinh là một hợp tuyển đa diện gồm 15 tập theo thứ tự như sau:
1) Khuddaka Pàtha (Tiểu tụng): gồm 9 kinh và kệ ngắn gọn do Đức Phật thuyết về Tam quy, Thập giới, Các điềm lành, Phật bảo, Lòng từ v.v. cho các đệ tử mới học đạo.
2) Dhammapada (Pháp cú): gồm 423 bài kệ do Đức Phật thuyết được sắp theo các chủ đề trong 26 phẩm, là tập kinh phổ biến nhất trong các nước theo đạo Phật Nam truyền vì tính cách cô đọng phần cốt tủy của giáo lý qua các bài kệ ngắn gọn làm nền tảng của nếp sống đạo, từ đó nhiều bộ kinh lớn được phát triển về sau.
3) Udàna (Cảm hứng ngữ, Phật tự thuyết): gồm 80 chuyện gợi niềm cảm hứng để Đức Phậtphát biểu những vấn đềhoan hỉ có tính cáchgiáo dục và khích lệ hội chúng, được chia làm 8 phẩm.
4) Itivuttaka (Phật thuyết như vậy): gồm 112 kinh chia ra 4 chương theo lối văn xuôipha lẫn thơ kệ. Tập này cũng trích dẫn những cảm hứng ngữtrang nghiêm của Đức Phật nhưng bắt đầu bằng câu “Đây là điều được Đức Thế Tôn thuyết và tôi nghe như vậy”.
5) Suttanipàta (Kinh tập): gồm 71 kinh trong 5 chương viết theo thể kệ, miêu tảhoàn cảnhxã hội cổ Ấn Độ và bàn luận những lời dạy đầy tính cáchtriết học và đạo đức của Đức Phật, cùng lý tưởng trong nếp sốngthanh tịnh của các Tỳ kheo.
6) Vimanavatthu (Chuyện Thiên cung): gồm 85 chuyện chia ra 7 chương, miêu tả mọi cảnh huy hoàng của các lâu đài Thiên giới ở đời sau dành cho những người sống theo chánh đạo và làm thiện sự ở đời này.
7) Petavatthu (Chuyện Ngạ quỷ): gồm 51 chuyện trong 4 chương miêu tảcảnh giới khổ đau của các loài quỷ do ác nghiệp của chúng tạo ra ở đời này. Cả hai tập chuyện Thiên cung và Ngạ quỷ này nhằm nói lên tương quan giữa Nghiệp và Quả, cùng khích lệ sự tu tập của giới tại gia.
8) Theragàthà (Trưởng lão Tăng kệ): gồm 1,360 bài thơ kệ do 264 vị Tỷ kheo cảm tác từ đời sốngtu tập của chư vị.
9) Therigàthà (Trưởng lão Ni kệ): gồm 524 bài kệ do 73 Tỷ kheo ni cảm tác. Cả hai tập thi kệ Theragàthà và Therigàthà được đánh giá là những tác phẩm đẹp nhất trong văn họcẤn Độ vì tính cách mang nặng tình người hòa lẫn thiền vị của các đệ tử Phật. Đây là những khúc hoan ca phản ánh đời sốngthanh tịnh của những người tầm cầu giải thoátgiác ngộ, chân hạnh phúc.
10) Jàtaka (Bổn sanh hay Chuyện tiền thânĐức Phật): gồm 547 chuyện ngắn và dài theo thể văn xuôi xen kẽ thi kệ trong 22 chương, theo thứ tự các bài kệ tăng dần từ chương một với một bài kệcho đến chương 22, chấm dứt với tiền thân Vessantara nổi tiếng qua cả ngàn bài kệ. Các chuyện tiền thân có mục đích tạo niềm tin vào đạo pháp trong mọi tầng lớp xã hội từ vua chúa, Bà la môncho đến các giới bình dâncùng khổ. Đối với các học giả, các chuyện tiền thân có tầm quan trọng lịch sử vì chúng được xây dựng trong khung cảnh Ấn Độ cổ đại.
11) Nidesa (Nghĩa tích): là một luận thư trình bày sự phân tích bình giải các vấn đềgiáo lý của tập kinh Sutta Nipata. Sách này gồm hai phần: Đại nghĩa tích và Tiểu nghĩa tích.
12) Patisambhidàmagga (Vô ngại giải đạo): một luận thư trình bày các vấn đề phân tích giáo lý theo hình thức hỏi đáp như trong bộ A Tì Đàm. Hai tập kinh này được đánh giá là các tác phẩmtiền phong của văn họcA Tì Đàm và được xem là do Tôn giả Sariputta (Xá Lợi Phất) thuyết giảng và bình luận 32 vấn đềgiáo lý trong 3 phẩm.
13) Apadana (Sự nghiệp anh hùng): kể theo thể thơ kệ cuộc đờiĐức Phật và các Thánh đệ tử của Ngài. Tập kinh gồm 4 phần: cuộc đờiĐức Phật Gotama (Thích Ca), 41 vị Độc giác Phật, và 559 vị Tỷ kheo và Tỷ kheo ni đã trải qua những cuộc chiến đấu anh hùng cao thượng để đạt cứu cánhgiải thoátgiác ngộ.
14) Buddhavamsa (Phật sử): tập kinh theo thể thơ kệ nói về sự tích 24 vị cổ Phật từ Đức Phật Dipankara (Nhiên Đăng) đến Đức Phật Kassapa (Ca Diếp) và phương cách các Đức Phậtchuyển Pháp luân. Tất cả đều do Đức Phật Gotama kể lại từ khi Ngài còn là Bồ tát được Đức Phật Dipankara thọ kýcho đến khi Ngài diệt độ trong Niết bàn Vô dư y.
15) Cariyà Pitaka (Sở hạnh tạng): gồm 35 chuyện tiền thânĐức Phật được kể theo lời thỉnh cầu của Tôn giả Sariputta, với mục đích nêu rõ ý chí tầm cầu giải thoát với nỗ lực cao độ và sự hy sinhvô thượng mà Bồ tát đã thực hiện qua mười công hạnhBa la mật (viên mãn) của Ngài.
(Trích Nguyệt san Giác Ngộ, 01-1999)
GIỚI THIỆUKINH TẬP
Tiểu Bộ – Khuddhaka Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Tập I
Kinh Tập Sutta Nipata
Mục Lục
Giới thiệu
Chương Một – Phẩm Rắn (Uragavagga)
1. Kinh Rắn
2. Dhaniya
3. Kinh Con Tê Ngưu Một Sừng
4. Kinh Kasibbàradvàja, Người Cày Ruộng
5. Kinh Cunda
6. Kinh Bại Vong
7. Kinh Kẻ Bần Tiện
8. Kinh Từ Bi
9. Kinh Hemavata
10. Kinh Alavaka
11. Kinh Kinh Thắng Trận
12. Kinh Vị ẩn sĩ
Chương Hai – Tiểu Phẩm
1. Kinh Châu Báu
2. Kinh Hôi Thối
3. Kinh Xấu Hổ
4. Kinh Điềm Lành Lớn
5. Kinh Sùciloma
6. Kinh HànhChánh Pháp
7. Kinh PhápBà La Môn
8. Kinh Chiếc Thuyền
9. Kinh Thế Nào Là Giới
10. Kinh Đứng Dậy
11. Kinh Ràhula
12. Vangiụsa
13. Kinh Chánh Xuất Gia
14. Kinh Dhammika
Chương Ba – Đại Phẩm
1. Kinh Xuất Gia
2. Kinh Tinh Cần
3. Kinh Khéo Thuyết
4. Kinh Sundarika Bhàradvàja
5. Kinh Màgha
6. Kinh Sabhiya
7. Kinh Sela
8. Kinh Mũi Tên
9. Kinh Vàsettha
10. Kinh Kokàliya
11. Kinh Nàlaka
12. Kinh Hai Pháp Tùy Quán
Chương Bốn – Phẩm Tám
1. Kinh Về Dục
2. Kinh Hang Động Tám Kệ
3. Kinh Sân Hận Tám Kệ
4. Kinh Thanh Tịnh Tám Kệ
5. Kinh Tối Thắng Tám Kệ
6. Kinh Gìa Tám Kệ
7. Kinh Tissametteyya
8. Kinh Pasùra
9. Kinh Màgandiya
10. Kinh Trước Khi Bị Hủy Hoại
11. Kinh Tranh Luận
12. Sự Tập Hợp Nhỏ Bé
13. Những Vấn Đề To Lớn
14. Kinh Tuvataka
15. Kinh Chấp Trượng
16. Kinh Sàriputta
Chương Năm – Trên Đường Đến Bờ Bên Kia
1. Bài Kệ Mở Đầu
2. Câu Hỏi Của Thanh Niên Ajita
3. Câu Hỏi Của Thanh Niên Tissametteyya
4. Câu Hỏi Của Thanh Niên Punnaka
5. Câu Hỏi Của Thanh Niên Mettagù
6. Câu Hỏi Của Thanh Niên Dhotaka
7. Câu Hỏi Của Thanh Niên Upasiụva
8. Câu Hỏi Của Thanh Niên Nanda
9. Câu Hỏi Của Thanh Niên Hemaka
10. Cau Hỏi Của Thanh Niên Todeyya
11. Câu Hỏi Của Thanh Niên Kappa
12. Câu Hỏi Của Thanh Niên Jatukanniụ
13. Câu Hỏi Của ThanhNiên Bhadràvudha
14. Câu Hỏi Của Thanh Niên Udaya
15. Câu Hỏi Của Thanh Niên Posàla
16. Câu Hỏi Của Thanh Niên Magharàja
17. Câu Hỏi Của Thanh Niên Pingiya
18. Kết Luận
Giới ThiệuKinh Tập (Sutta Nipata)
Hoà thượng Thích Minh Châu
Tập Sutta Nipatà là kinh thứ 5, trong 15 kinh thuộc Bộ Khuddaka Nipàta tức là Tiểu Bộ Kinh. Bộ Tiểu Bộ Kinhgồm có 15 kinh:
Khuddakapàtha (Tiểu Tụng Kinh),
Dhammapada (Pháp Cú),
Udàna (Phật Tự Thuyết Kinh, Cảm Hứng Ngữ),
Itivuttaka (Như Thị Ngữ Kinh, Phật Thuyết Như Vậy),
Vimànavatthu (Thiên Cung Sự Kinh),
Petavatthu (Ngạ Quỷ Sự Kinh),
Theragàthà (Trưởng Lão Tăng Kệ),
Therigàthà (Trưởng Lão Ni Kệ),
Jàtaka (Bổn Sanh),
Mahàniddesa (Đại Nghĩa Tích),
Cùlaniddesa (Tiểu Nghĩa Tích),
Patisambhidàmagga (Vô Ngại Giải Đạo),
Apadàna (Thí Dụ Kinh),
Buddhavamsa (Phật Sử) và
Cariyàpitaka (Tiểu Nghĩa Kinh, Sở Hạnh Tạng).
Theo một phân loại khác, Luật Tạng, Luận Tạng và tất cả kinh chưa được sưu tập vào 4 Bộ Nikàyà chính, lập thànhTiểu Bộ Kinh. Các vị thọ trìTrường Bộ Kinhkhông chấp nhận các kinh Khuddakapàtha, Cariyàpitaka và Apadàna, và phân loại các kinh khác vào Luận Tạng. Các vị thọ trìTrung Bộ Kinhkhông chấp nhận tập Khuddakapàtha, nhưng chấp nhận các kinh còn lại và phân loại chúng vào Kinh tạng. Theo truyền thống Miến Điện, 4 tập khác được cộng thêm vào, như Milindapanha, Suttasamgaha, Petakopadesa và Nettipakarana.
Kinh Tập này gồm có 5 Chương:
Chương I, Phẩm Rắn (Uragavagga) gồm có 12 kinh;
Chương II, Tiểu Phẩmgồm có 14 kinh.
Chương III, Đại Phẩmgồm có 12 kinh;
Chương IV, Phẩm Tám gồm có 16 kinh; và
Chương V, PhẩmTrên Con ĐườngĐến Bờ Bên Kia, gồm có 17 kinh tất cả.
Tổng cộng kinh này có 5 Chương và 71 bài kinh.
*
Đặc biệt của tập này gồm những kinh có thể được xem là những kinh xưa nhất, cổ nhất, nghĩa là gần với thời đức Phật nhất. Chúng tôidựa trên một số yếu tố để xác nhận tánh chất thật sự nguyên thủy của Bộ Suttànipàta này, về cả hai mặtVăn cú và Nội dung.
Trước hết, Tập Suttanipàta viết bằng một thể văn Pàli xưa nhất và cổ kính nhất, so sánh với các thể văn chúng ta thường được gặp trong các Bộ Dìgha Nikàya (Trường Bộ), Majjhima Nikàya (Trung Bộ), Samyutta Nikàya (Tương Ưng Bộ), Anguttara Nikàya (Tăng Chi Bộ). Nhiều thể văn gần với văn Vedà (Vệ Đà) được tìm thấy rất nhiều trong tập này, nhưng không tìm thấy trong các tập khác, như các danh từ và động từ số nhiều: sitàse, upatthitàse, caramàse. Các hình thức chủ cách số nhiều và sử dụng cách số ít của một số danh từ như: vinicchayà thế cho vinicchayàni, lakkhanà thế cho lakkhanàni, mantà thế cho mantàya. Ngoài ra, chúng ta thường gặp các nguyên mẫu Vedà như vippahàtane, sampayàtave, unnametave rất ít khi được tìm thấy trong các tập kinh khác. Nhiều khi chúng ta thấy một số danh từ đặc biệt như chữ datthu thế cho disvà, atisìtvà thế cho atikkamivà, maga thế cho miga, tumo thế cho so v.v… Những danh từ này rất gần với tiếng Vệ đà không tìm thấy ở các bộ kinh khác. Như vậy, chứng tỏ Tập Suttanipàta được viết trong thời kỳ xưa nhất của ngôn ngữ Pàli, chưa được trau chuốt lưu loát, nhiều âm điệu như ngôn ngữ Pàli sau này. Giá trịcổ kính của ngôn ngữ Pàli trong tập này đánh giá tánh chất nguyên thủy của tập Suttanipàta.
Một yếu tố nữa giúp chúng ta biết giá trịcổ kính của tập này là một số kinh của tập này được tìm thấy trong các bộ kinh khác, và chứng tỏ các kinh khác đã sưu tầm một số kinh hiện có trong bộ Suttanipàta. Ví dụ kinh Seta (Sn. 548-573) được tìm thấy trong Majjhima Nikàya M.i. 146; kinh Vàsettha (Sn. 594-656) được tìm thấy cũng trong Majjhima Nikàya M.ii. 196.
*
Ngoài ra, tập Suttanipàta có ghi chép lại một vài giai đoạn trong đời sống tìm đạo và học đạo của Thái tử, những mẫu chuyện này rất giản dị và mộc mạc, không có xen lẫnthần thông phù phép với những hình ảnh thật đơn sơ và tươi đẹp.
Kinh Xuất gia (Sn. 405-424) diễn tả cuộc gặp gỡ giữa Thái tử với Vua Bimbisàra, khi Thái tử vừa mới xuất gia. Vua Bimbisàra đứng trên lầu nhìn xuống thấy Thái tử đang đi khất thực.
“Bình Sa Vương thấy Ngài,
Đứng trên sân lầu thượng
Thấy đầy đủ tướng tốt,
Bèn nói lên lời này.” (409)
Sau khi sai sứ giảđi theo để tìm chỗ Thái tử, Vua Bimbisàra liền đi đến gặp Thái tử và thưa:
“Ngài thanh niên tuổi trẻ,
Ngây thơ, bước vào đời,
Cao đẹp được viên mãn,
Thiện sanh giòng Sát lỵ…
Tài sản ta cho ngươi.
Hãy hưởng và trả lời.” (420-421)
Và Thái tửdứt khoáttrả lời :
“Giòng họ thuộc mặt trời
Sanh tộc là Thích Ca,
Từ bỏgia tộc ấy,
Thưa vua Ta xuất gia.
Ta không có thiết tha,
Đối với các loại dục,
Thấy nguy hiểm trong dục,
Bỏ chúng, là an ổn;
Ta sẽ đi, tinh tấn,
Ý Ta được hoan hỷ.” (423-424)
Kinh Tinh Tấntiếp theo nói lên sự cám dỗ của Ác ma. Khi Thái tử ngồi dưới cây Bồ đềtu hành, Ác mađến gần, nói lên giọng từ mẫn :
“Ngươi ốm, không dung sắc
Nhà ngươi gần chết rồi,
Cả ngàn phần, ngươi chết;
Chỉ một phần còn sống.
Hãy sống, sống tốt hơn,
Sẽ làm các công đức.” (426-427)
Thái tửtrả lời từ tốn, nhưng không kém phần nghị lực :
“Bà con ác phóng dật,
Ngươi đến đây làm gì?
Với công đức nhỏ bé,
Ta đâu có cần đến!
Đây có tín, tinh tấn,
Và Ta có trí tuệ,
Như vậy Ta tinh tấn
Sao ngươi hỏi Ta sống.” (431-432)
Và Thái tử nói lên quyết tâm chiến đấu của mình :
“Ôi này Ma Nu Ci!
Đây là quân đội ngươi,
Đây quân đội chiến trận
Của giòng họ Kanhà,
Kẻ nhát, không thắng ngươi
Ai thắng ngươi được lạc.
Ta mang cỏ Munja
Vững thay, đáng đời sống
Thà Ta chết chiến trận
Tốt hơn sống thất bại.” (439-440)
Và cuối cùng, Ác ma thất bại trước dũng chí của Thái tử và vừa bỏ đi vừa than:
“Bảy năm ta bước theo
Chân theo chân Thế Tôn,
Không tìm được lỗi lầm
Nói Thế Tônchánh niệm,
Như quạ bay xung quanh,
Hòn đá như đống mỡ.”
“Có thể có gì mềm?
Có thể có gì ngọt?
Không tìm được vị ngọt
Quạ từ đó bay đi!
Như quạ mổ hòn đá
Ta bỏ Gotama.” (446-448)
Câu chuyện thứ ba nói về ẩn sĩ Asita (A Tư Đà) đoán tướng cho Thái tử. Asita thấy Chư thiênvui mừng liền hỏi duyên cớ. Chư thiên đáp :
“Tại xứ Lâm tì ni
Trong làng các Thích Ca,
Có sanh vị Bồ tát
Báu tối thắng, vô tỷ.
Ngài sanh, đem an lạc
Hạnh phúc cho loài người,
Do vậy chúng tôi mừng
Tâm vô cùnghoan hỷ.
Ngài, chúng sanhtối thượng
Ngài, loài ngườitối thắng,
Bậc Ngưu Vươngloài người
Thượng Thủ mọi sanh loại.
Ngài sẽ chuyển Pháp luân,
Trong khu rừng ẩn sĩ,
Rống tiếng rống sư tử,
Hùng mạnh, nhiếp loài thú.” (683-684)
Đạo sư Asita liền vội vàng đi đến Kapilavatthu để được chiêm ngưỡngThái tử.
“Sau khi thấy Thái tử,
Chói sáng như lửa ngọn,
Thanh tịnh như Sao ngưu
Vận hành giữa hư không
Sáng chiếu như mặt trời
Giữa trời thu mây tịnh
Ẩn sĩ tâm hoan hỷ
Được hỷ lạc rộng lớn.” (687)
Khi thấy Thái tửchói sáng như mặt trời, khi nghĩ đến viễn ảnhchánh pháp được tuyên thuyết, nghĩ đến phận mình già yếu, A Tư Đà đã phát khóc.
“Khi vị ấy nghĩ đến
Số mệnh của tự mình,
Số mệnh không tốt đẹp,
Vị ấy rơi nước mắt”… (691)
Trước sự lo lắng của các vị Thích Ca, ẩn sĩA Tư Đà giải tỏa mối lo lắng:
“Thấy họ Thíchlo lắng
Vị ẩn sĩtrả lời:
Ta không thấy bất hạnh
Xảy đến cho Thái tử
Đối với (Thái tử) ấy,
Chướng ngại sẽ không có.
Vị này không hạ liệt,
Chớ có lo lắng gì.
Thái tử này sẽ chứng
Tối thượng quả Bồ đề,
Sẽ chuyển bánh xe Pháp
Thấy thanh tịnh tối thắng
Vì lòng từthương xót,
Vì hạnh phúc nhiều người,
Và đời sốngPhạm hạnh
Được truyền bárộng rãi
Thọ mạng ta ở đời
Còn lại không bao nhiêu
Đến giữa đời sống Ngài,
Ta sẽ bị mệnh chung.
Ta sẽ không nghe Pháp
Bậc tinh cầnvô tỷ
Do vậy ta sầu não,
Bất hạnh và khổ đau.” (692-694)
*
Yếu tố thứ tư xác nhận sự cổ kính của Kinh Tập này là một số câu văn, một số ví dụ, một số hình ảnh được diễn tả, đã trở thành những câu cách ngôn dân gian.
Biển lớn thì im lặng. Khe nước thời chảy ồn. Cái gì trống kêu to. Cái gì đầy thì yên lặng. Những ví dụ này cho chúng ta thấy những kẻ ít hiểu biết thì hay nói nhiều, những kẻ hiểu biết nhiều thời thường im lặng như 2 câu kệ sau đây :
“Hãy học các giòng nước,
Từ khe núi vực sâu
Nước khe núi chảy ồn
Biển lớn đầy im lặng.” (720)
“Cái gì trống kêu to,
Cái gì đầy, im lặng,
Ngu như ghè vơi nước
Bậc Trí như ao đầy.” (721)
Với những kẻ hay nói, họa sẽ tự miệng sanh, như câu kệ khéo diễn tả dưới đây:
“Phàm con người đã sanh,
Sanh với búa trong miệng,
Kẻ ngu khi nói bậy,
Tự chặt đứt lấy mình.” (657)
Hình ảnh sau đây, có vẻ trào phúng, nói đến đàn quạ thấy hòn đá lầm tưởng là miếng thịt mỡ, đến mổ để tìm cái gì ngọt, khi mổ xong biết mình lầm liền bay đi. Câu kệ châm biếmÁc mađi theođức Phật để tìm cơ hội hại Ngài, cuối cùng hại Ngài không được nên bỏ đi.
“Như quạ bay xung quanh
Hòn đá như đống mỡ.
“Có thể có gì mềm?”
“Có thể có gì ngọt?” (447)
“Không tìm được gì ngọt
Quạ từ đó bay đi
Như quạ mổ hòn đá
Ta bỏ Gotama.” (448)
Một câu kệ nữa nói đến sóng biển không sanh ở giữa biển đại dương, cho chúng ta biết, kẻ đã giải thoát bao giờ cũng trầm tĩnh yên lặng, như bài kệ sau đây:
“Như chính giữa trung ương
Của biển cả đại dương,
Sóng biển không có sanh,
Biển hoàn toàn đứng lặng
Cũng vậy, vị tỷ kheo,
Đứng lặng không giao động
Không có sự bồng bột
Náo nức ở giữa đời.” (920)
Đức Phật khuyên các người xuất gia, nên sống riêng một mìnhtinh tấntu hành, như con tê giác chỉ có một sừng, sống một mình trong rừng.
“Do thân cận giao thiệp
Thân ái từ đấy sanh,
Tùy thuận theo thân ái,
Khổ này có thể sanh.
Nhìn thấy những nguy hại,
Do thân áisanh khởi,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng”. (36)
“Như nai trong núi rừng
Không gì bị trói buộc,
Tự đi chỗ nó muốn
Để tìm kiếmthức ăn,
Như các bậc hiền trí
Thấy tự dogiải thoát,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.” (37)
*
Khi đức Phậtthuyết pháp, giới thiệu đạo mới của Ngài, Ngài phải đương đầu với hai hệ thốngxã hội rất hùng mạnh đang ngự trị trên xã hộiẤn Độ bấy giờ, tức là tổ chức Sa môn và tổ chức Bà la môn. Mỗi hệ thống có một số giáo chủ cầm đầu với hội chúng, với chủ thuyết, với phương pháptu hànhsai biệt và nhiều khi mâu thuẫn nhau. Đức Phật đã mạnh dạn loại bỏ những gì Ngài xem là trở ngại cho con ngườigiác ngộ và giải thoát, và tự mình vạch ra một con đường mới mẻ đặc biệt của Ngài.
Trước hết, đức Phậtkhông chấp nhận đời sống người tu hành mà còn đoán số, đoán mộng, bói toán, ăn các đồ ăn do kệ tụng đem lại :
“Ta không có thọ dụng
Đồ ăn từ kệ tụng,
Hỡi này Bà la môn,
Đây không phải là pháp,
Của những người có trí.
Chư Phật đều từ bỏ,
Ca hát các bài kệ.” (480)
“Chớ có dùng bùa chú,
Anthava Vedà,
Chớ tổ chức đoán mộng,
Coi tướng và xem sao,
Mong rằng đệ tử Ta,
Không đoán tiếng thú kêu
Không chữa bệnh không sanh,
Không hành nghề lang băm.” (927)
Đức Phật cũng không chấp nhận cầu mong điềm lành. Các chư Thiên hỏi đức Phật làm thế nào được điềm lành (Mangalam), đức Phậttrả lời bằng 48 hành động tốt, vì chỉ có hành động lành là điềm lànhtối thượng, như kinh Mangala sutta đã khéo diễn tả :
“Không thân cận kẻ ngu
Như gần gũi bậc trí,
Đảnh lễ người đáng lễ
Là điềm lànhtối thượng.” (259)
“Học nhiều nghề nghiệp giỏi,
Khéo huấn luyện, học tập
Nói những lời khéo nói.
Là điềm lànhtối thượng.” (261)
“Hiếu dưỡng mẹ và cha
Nuôi dưỡng vợ và con
Làm nghề không rắc rối,
Là điềm lànhtối thượng.” (262)
“Bố thí, hành đúng pháp,
Săn sóc các bà con,
Làm nghiệp, không lỗi lầm,
Là điềm lànhtối thượng.” (263)
“Chấm dứt, từ bỏ ác,
Chế ngựđam mê rượu,
Trong pháp khôngphóng dật,
Là điềm lànhtối thượng.” (264)
“Kính lễ và hạ mình
Biết đủ và biết ơn
Đúng thời, nghe chánh pháp
Là điềm lànhtối thượng.” (265)
Như vậy, đức Phậtbác bỏ sự tin tưởng ở điềm lành và khuyến khích làm các hạnh lành, vì các hạnh lành là điềm lànhtối thượng.
Thêm một bước nữa, đức Phậtkhông chấp nhận quan điểm của các Bà la môn, tin tưởng ở thuyết thọ sanh tử cho mình là giai cấp đáng tôn trọng nhất, chỉ vì sanh ra từ miệng Phạm thiên và do vậy các giai cấp Sát đế lỵ, Phệ xá và Thủ đà phải tôn trọngphục vụgiai cấpBà la môn. Đức Phậtchống lạiquan điểm thọ sanh này và tuyên bố rằng chỉ do hành động mới đánh giágiá trịcon người, xem con người có đáng tôn trọng hay không.
“Bần tiện không vì sanh.
Phạm chí không vì sanh,
Do hành, thành bần tiện,
Do hành thành Phạm chí.” (136)
“Không phải do thọ sanh (*)
Được gọi Bà la môn!
Không phải do thọ sanh,
Gọi phi Bà la môn
Chính do sự hành động,
Được gọi Bà la môn
Chính do sự hành động
Gọi phi Bà la môn.” (Trung Bộ Kinh)
(*) thọ sanh: đẻ
Bước thêm một bước nữa, đức Phậtbác bỏ các luận thuyết, các triết lý suông, vì chúng không thể đưa con người đến giải thoát, an tịnh. Có đến 63 luận thuyếtthịnh hành trong thời đức Phật và đức Phật đều bác bỏ chúng, vì chúng chỉ gây thêm tranh luận :
“Các Sa môntranh luận,
Có đến 63 thuyết,
Các ngôn thuyếtvăn tự
Y đây, các tưởng khởi.” (538)
“Ai thiên trú trong kiến,
Xem kiến ấy tối thắng
Ở đời đặt kiến ấy
Vào địa vịtối thượng,
Người ấy nói tất cả,
Người khác là hạ liệt,
Do vậy không vượt khỏi
Sự tranh luận ở đời.” (796)
“Những ai muốn tranh luận
Sau khi vào hội chúng,
Chúng công kích lẫn nhau,
Chúng gọi nhau là ngu
Cái làm nó cống cao
Cũng là đất hại nó,
Tuy vậy nó vẫn nói
Lời cống caokiêu mạn.” (830)
“Không phải từ tri kiến
Từ truyết thống, từ trí
Không phải từ giới cấm,
Thanh tịnh được đem đến.” (839)
“Ngươi đã có cuồng tín,
Không đưa đến thanh tịnh
Vì đã có thiên vị,
Với tri kiếntác thành.” (910)
Sau khi bác bỏmê tín dị đoan, tà kiến, truyền thống, điềm lành, các luận thuyết, tế thần, tế lửa, v.v… Đức Phật tự mình xây dựngcon đườnggiải thoát, giác ngộ của mình. Và tập Suttanipàta sưu tầm cho chúng ta thấy, những bài kệdiễn tảđức Phật, sai khác với các ngoại đạo sư hiện tại như thế nào.
Trước hết, Ngài là bậc có mắt, cakkhumantu, có pháp nhãn thấy rõ tất cả :
“Đức Phật thật có mắt
Đối với tất cả pháp. (161)
“Bậc có mắt xuất hiện
Đời này và thiên giới
Quét sạch mọi u ám,
Độc cư, chứng an lạc.” (956)
“Vị ấy Chánh đẳng giác
Hỡi này Bà la môn,
Bậc có mắt thấy được
Trong tất cả các pháp.” (992)
Đức Phật là vị có một cái nhìn sáng suốt, một sự hiểu biếtthấu triệt, thấy đau khổ trong các chủ thuyết, không chấp nhận chủ thuyết nào, tìm đến chân lý, Ngài thấy được sự an tịnhnội tâm.
“Với Ta không có nói!
Ta nói như thế này,
Sau khi quan sát kỹ
Sự chấp thủ trong pháp
Trong tất cả tri kiến.
Ta không có chấp trước,
Ta thấy sự cất chứa
Tịch tịnh trong nội tâm.” (837)
“Ai đã chặt sanh hữu,
Không còn gieo giống thêm,
Sanh hữu đã đoạn tận,
Không còn muốn thọ sanh,
Được gọi là ẩn sĩ
Một mình đi im lặng,
Bậc ẩn sĩ đã thấy
Con đườngtịch tịnh ấy.” (208)
Nếp sốngđức Phậtgiới thiệu là một nếp sống của vị ẩn sĩ, Mâu ni, một vị đã từ bỏgia đìnhsống không gia đình, không có trú xứ nào.
“Thân mật, sinh sợ hãi,
Trú xứ sanh bụi bậm
Không trú xứ, không thân
Hình ảnh bậc ẩn sĩ.” (207)
Một vị đã nhiếp phục tham ái và ái dục, không để ái dụcchi phối.
“Vị ấy sống viễn ly
Mọi sự việc ở đời…
Như hoa sen có gai,
Sinh ra ở trong nước,
Không bị nước và bùn
Mắc dính và thân ướt,
Như vậy bậc ẩn sĩ
Nói an tịnh, không tham,
Không bị dục và đời,
Mắc dính và thấm ướt.” (845)
Một vị ẩn sĩ không có thiếu thốn, không có tri kiến, không có tà kiến, từ bỏcác chủ thuyết và không có tranh luận với ai ở đời.
“Chính đối với vị ấy,
Ngã, phi ngã đều không
Vị ấy đã tẩy sạch,
Mọi tà kiến ở đời.” (787)
“Một số người nói rằng
Đây mới là sự thật,
Chứng nói các người khác,
Là trống không giả dối.
Do chấp thủ như vậy,
Chúng tranh luận đấu tranh,
Vì sao bậc Sa môn.
Không cùng nói một lời.” (88)
“Thường trú xả, chánh niệm,
Không nghĩ mình bằng người.
Hơn người thua kém người
Vị ấy không bồng bột.” (855)
Sống đời sốngviễn ly, không tham đắm vật gì, vị ẩn sĩ sống đời sốngvô hữu, không có “Ta”; không có “của Ta”, thực hành hạnh vô ngã một cách tốt đẹp.
“Vị ấy không con cái,
Thú vật, ruộng, tài sản,
Không có gì nắm lấy,
Là ta, là không ta.” (858)
“Ai không có vật gì,
Không có, không sầu muộn,
Không đi đến các pháp
Vị ấy gọi an tịnh.” (861)
“Không nghĩ: “đây của tôi”
Không nghĩ: “đây của người”
Người không có tự ngã
Không sầu gì không ngã.” (951)
Nhờ thực hànhvô ngã, vị ẩn sĩ đi đến an tịnh trong nội tâm:
“Hãy giữ được an tịnh
Về phía từ nội tâm,
Đã không có tự ngã,
Từ đâu có vô ngã!” (919)
Và đích cuối cùng của con đườngtu hành, đối với vị ẩn sĩ là “Niết bàn tịch tịnh”.
“Từ bỏ lòng tham dục,
Đây tỷ kheo có tuệ,
Chứng bất tửtịch tịnh,
Niết bàn giới, thường trú!” (204)
*
Một điểm son đáng chú ý là tập này có một số kinh rất được phổ thông, và được chư Tăng các nước Nam Tông tụng đọc thường xuyên như kinh Ratanasutta (kinh Châu Báu), kinh Mangalasutta (kinh Điềm Lành) và kinh Mettasutta (kinh Từ Bi). Ngoài ra có nhiều bài kinh ngắn gọn, ý tứ hàm xúc, tán thán hạnh ẩn sĩ làm nổi bậtđặc điểm của kinh này là tán dương ở đời sống của vị xuất gia tầm đạo, như kinh Rắn, kinh Vị ẩn sĩ, kinh Ràhula, kinh Dhammika, kinh Nàlaka, kinh Paràbhida, kinh Tuvataka, kinh Attadanda, kinh Sàriputta. Những kinh này phần lớn đề cập đến hạnh ẩn sĩ, và như vậy làm nổi bật bối cảnh an tịnhtu hành mà Kinh Tập này đề cao một cách đặc biệt.
Hòa Thượng Thích Minh Châu
Thiền việnVạn Hạnh
Sài Gòn, 1978 (PL. 2522)