Bát Quan Trai Giới

BÁT QUAN TRAI
GIỚI

Thích Tuệ Sỹ

 

TU GIỚI

Phật pháp như
thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh. Có điều, không phải như thuốc Tây, được bào
chế như thế nào thì đồng loạt các người bịnh dùng như vậy, chỉ hơi khác nhau về
cân lượng tùy theo thể trọng của mỗi người. Phật pháp tuy cũng một pháp môn
thể được truyền dạy cho nhiều người như nhau, nhưng để cho sự thực hànhhiệu
quả
hơn, cũng cần phân biệtthành phầnxã hội, trình độnhận thức, và kinh
nghiệm
từng trải của mỗi người mà phương phápthực hành có thể một vài sai
khác.

Bát quan trai
giới
cũng trong trường hợp như vậy. Tất nhiên, Phật dạy giới này áp dụng chung
cho tất cả các Phật tửtại gia, không phân biệtPhật tử này thuộc thành phần
hay đẳng cấp xã hội nào. Nhưng vì trình độnhận thức, và nhiều lý do khác nữa,
một Phật tửnhận thứcý nghĩa của giới pháp một cách cá biệt, và do đó thọ giới
với cứu cánh riêng biệt.

Để có thể hiểu
sự khác biệt này, trước hết chúng ta nói về chữ tu.

Mọi người đến
chùa cầu thọbát quan trai giới đều có một ý niệm như nhau, là mình đang tu giới.
Nhưng, thế nào là tu?

Đối với những
Phật tử lớn tuổi, khi mà trách nhiệm đối với đời coi như khôngđáng kể, đối
với các vị này, tu là cầu phúc. Tu giới ở đây đồng nghĩa với tu phúc. Tức
thọ trìgiới pháp của Phật để gieo trồng quả phúc, hầu mong đời sau được
hưởng. Có người muốn đời sausang giàu hơn, hoặc thông minh, hoặc có địa vị
hội
cao hơn, cho đến, làm vua làm chúa. Cũng có người mong muốn đời sau được
nhiều thuận duyên, để học và thâm hiểu Phật pháp, do đó trình độtu tập cao
hơn.

Đối với các
Phật tử như vậy, tu bát quan traiđơn giản là đến xin giới, rồi thực tậpquá
đường
, trang trọng bưng bình bátcúng dườngmười phươngTam bảo. Do tính cách
trang trọng, và những bài kinh chú cúng dườnglinh thiêng, nên sẽ mang đến
nhiều phước báo hơn là tự mình cúng Phật ở nhà. Ngoài việc cúng dường trước khi
thọ thực như vậy, Phật tửthọ trìbát quan trai không cần học hỏi gì thêm về bản
chất
của giới pháp, ý nghĩa của từng giới tướng. Cho nên, cũng không cần biết
công năng của giới này có thể dẫn đến phước báo cao hơn nữa, mà cao nhất là đạo
quả
vô lậuNiết bàn.

Quan niệm thông
thường của thế gian cho rằng tu là sửa: đổi ác làm lành, cải tà qui chánh. Đây
là mặt tiêu cực của chữ tu. Tu thân để tề gia, mà cứu cánh cũng chỉ là bình thiên
hạ
. Cứu cánh cũng chỉ lẩn quẩn trong thế gian này, thăng trầm theo con sóng
thường
biến dịch, mang theo trong thân và tâm dấu ấn khó xóa nhòa của quá khứ
tham, sân, si, vô lượngphiền não, cấu uế.

Giới bát quan
trai
được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia,
hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo. Trong
ý nghĩa này, tu có nghĩa là phát triển, làm cho bản thân càng lúc càng cao
thượng ngang tầm Thánh đạo, để càng lúc càng nhìn thấy rõ dấu chân dẫn đến Niết
bàn
. Tu như vậy là tu giới, tu định và tu huệ. Ba khoản tu tạo thành một chuỗi quan
hệ liên tục.

Có người nói:
tu cốt tại tâm. Điều này đúng một phần. Nhưng nếu không biết huấn luyện thân,
khuất phục nó không buông lungtheo bản năng hưởng thụ; ấy thế mà nói đến sự tu
tâm
thì nhiều có vẻ không tưởng. Tu thân, chính là tu giới. Tu tâm chính là tu
định. Có định mới dẫn đến huệ phát sinh.

Tại sao nói tu
thân
là tu giới? Trong năm giới của tại gia, và tám giới của cận trụ tức bát
quan trai
, những điều cần học là ngăn cản thân và khẩu không làm những sự xấu
ác.

Tu giới, đấy là
trau dồi đạo đức; cũng có thể nói là tu sửa thân tâm, trau dồi phẩm chất đạo
đức
để cuộc sống của mình thanh cao hơn. Tu định, tất nhiên là không phải tu
sửa định rồi. Tu định là tu tập để phát triển năng lực làm chủ thân tâm; tập
trung tư tưởng, không buông lung tâm ý, để tăng cường khả năng nhận thức, khai
mở trí tuệ. Cuối cùngtu huệ, cũng không có nghĩa là tu sửa huệ mà có nghĩa
là phát triển và nâng caonhận thức của mình, mở tầm mắt của mình để thấy rõ sự
vật. 

Trong cái ý
nghĩa
tu giới, ta hỏi “giới là gì?” Thông thường ta hiểu giới là những điều
ngăn cấm. Nhưng trong kinh Phật thì giới còn có nhiều nghĩa hơn thế nữa. Giới,
ý nghĩa chính của nó, đó là cái phẩm giá của con người. Trì giớigiữ gìn cái
phẩm chất đạo đức của mình, cái giá trịcon người của mình.

Tu tập giới là
nâng cao phẩm giá con người của mình. Nói thông thường là phẩm chất đạo đức,
cái làm nên giá trịcon người

Phẩm chất con
người
là thế nào? Ta sinh ra trong xã hộiloài người: sống, lớn lên và chết.
Với người bình thường, không làm việc ác gây tai hại cho mình, cho xã hội, giữ
cuộc đời mình trọn vẹn để chết không hối hận mình đã làm hại người khác. Đạo
đức
ở đời chỉ cao bằng mức ấy.

Nhưng tu giới
của người Phật tử là nâng phẩm chất con người cao hơn nữa, vượt lên trên
giá trịcon ngườihiện tại.

Làm sao ta có
thể vượt quagiới hạn con người? Mỗi người sinh ra với mục đích gì? Cha mẹ sinh
ra ta; lớn lên, có gia đình; có bổn phận đối với gia đình, đối với xã hội, làm
thế nào cho gia đình được hạnh phúc và đóng góp cho xã hội được bình an. Như
vậy là đủ rồi.

Nếu tu tập
giới, tự thân thấy có cái cao quý hơn thế nữa.

Cái này không
thể nói trong một vài lời mà phải bằng kinh nghiệm sống, kinh nghiệmtu tập của
mình; mới biết thế nào là cao hơn. Ở dưới chân núi không có tầm mắt nhìn, chỉ
thấy đến ngọn cây; nhưng có người hướng dẫn mình leo đến đỉnh núi, mới biết là
đỉnh núi cao. 

Có thể mình
không ý thức mình lên cao đến cỡ nào, nhưng một thời gian sau bằng quá trình tu
tập
thì có thể thấy. Tu giới phải ý thức như vậy mới thấy có hiệu quả, còn
không thì tu giới chỉ làm việc lành gọi là diệu hạnh: làm điều tốt với quả báođời sau sinh ra giàu sang hơn, hạnh phúc hơn, sáu căn đầy đủ, thông minh hơn.
Dù có thông minh cỡ nào, như nhà bác học, vua chúa, thì cũng chỉ trong phạm vicon
người
, không chiến thắng nổi cái già, cái chết, còn nhiều cái không chiến thắng
nổi, nghĩa là mình vẫn làm nô lệ cho một cái gì đó mà mình không biết.

Một người sinh
ra trong một gia đình làm nô lệ cho người khác; cha mẹ làm nô lệ, cả dòng họ
làm nô lệ, lớn lên mình cũng không biết làm nô lệ cho cái gì.

Chỉ có người
nào đến mở đường mở lối, chỉ cho biếtgiá trị của con người, mới biết là mình
nô lệtìm cáchthoát khỏithân phậnnô lệ của mình. Chúng tacũng thế: sinh
ra ở đời, trăm đời nghìn đời quen nô lệ cho một sức mạnh nào đó mình không hiểu
được, chưa ai hiểu, chưa ai thấy được. Quen như vậy, chấp nhậnthân phận đó.

Giống như đứa
trẻ sinh ra bị ghẻ lở. Hạnh phúc của nó là được ngồi bên đống lửa, và gãi. Càng
gãi càng thấy đã ngứa; nhưng càng gãi thì càng thêm lở lói. Bà conthân nhân
thấy tội nghiệp, muốn hạnh phúcan lạc cho nó, nên đưa đến lương y để trị. Nó
la khóc, nói rằng: chú bác, cha mẹ, hung ác; nó đang ngứa mà không cho gãi;
đang ngồi bên lửa ấm thế này mà mang nó đi đâu, hành hạ nó. Về sau, khi lành hết
ghẻ ngứa; bấy giờ bảo thò tay gãi nó cũng không dám gãi; bảo ngồi bên lửa thì
nó nói là nóng quá, đi chỗ khác ngồi.

Chúng ta
những người đang chìm đắm trong bùn lầy hôi thối, nhưng mấy ai thấy rõ chúng ta
đang sống trong bùn lầy? Khó thấy lắm. Như đứa bé sập xuống bãi sình, thấy lún
thì mừng, nói là đất lún hay quá; đến khi ngộp thở thì hết khóc được. 

Đức Phật bằng
nhiều phương tiện cứu vớt chúng sinh ra khỏi vũng sình sinh tử đó. Vớt lên rồi,
Ngài khiến cho tắm sạch bằng nước của giới, xông ướp bằng hương thơm của định, và
cho đeo tràng hoachuỗi ngọc bằng huệ. Sau đó người ấy muốn đi đâu thì đi, với
một thân hình sạch sẽ thơm tho, bằng vòng hoachuỗi ngọc, trở thành một con
người
cao quý, tham dự tất cả chúng hội nào; các triều đình vua chúa cũng tới
được. 

Hiểu được mình
đang trong sình lầy, hiểu được thế nào là nguồn nước trong của giới, hương thơm
của định và thế nào là tràng hoaan lạc của huệ. Điều này phải hành mới thấy
được.

Hành đầu tiên
đó là thọ giới. Tùy căn cơ Phật đặt ra nhiều cấp bậc giới. Như mỗi người sinh
ra với thể xác khác nhau; người yếu, thân hình ốm 35 kg, thì vác 20 kg; người mập
mạnh khỏe có thể vác cả trăm kg. Giới luật được đặt ra cũng vậy. Tùy theocăn
, theo trình độ, năng lựcđạo đức hay tự kềm chế.

Người học giới
theo Phật như đứa trẻ tập đi, tất nhiên phải té; nếu không có bố mẹ dìu đỡ;
không thể tự mình ráng gượng dậy tự đi, không thể không té ngã.

Người tu Phậtcũng thế. Thọ giới, có thể phạm rất nhiều; nhưng biết là phạm thì phải sửa.
Không ai sinh ra mà đi được liền; dù con vua nếu tập đi mà cung nhân không đỡ
thì cũng té và cũng khóc thôi. Nhưng bản năng té thì đứng dậy. Có người không
nghị lực té xong nằm luôn, không đứng dậy nữa. Như người tu Phậtban đầutinh
tấn
, nhưng một thời gian sau thoái hóa, đọa lạc, không bao giờ đứng dậy
nổi. 

Vì vậy, từ bước
đi căn bản, Phật chế ngũ giới

Nâng cao lên
một bậc nữa là bát quan trai giới.

 
Ý NGHĨABÁT
QUAN TRAI

Bát quan trai,
theo nghĩa đen chữ Hán, là tám điều kiêng cữ, như là tám cửa ảichận đứng các
pháp bất thiện. Giới bát quan traichính xác được gọi là giới cận trụ. Nghĩa
là, sống gần đời sốngxuất gia, gần chùa chiền, gần nơi thanh tịnh. Tập quen
với đời sốngthanh tịnh để thấy được giá trị

Còn cao hơn
nữa, cận trụ được hiểu là tập sống gần đời sống một vị A La Hán, là bậc Thánh
xuất thế gian.

Ngoài nghĩa cận
trụ
, giới bát quan trai còn được gọi là giới bố tát hay trưởng tịnh: trì giới
làm phát triển phần thanh tịnh, những đức tính tốt trong mình.

Cùng một chữ
nhưng hai nghĩa: cận trụ, sống gần gũi đời sống cao thượng của một bậc Thánh.
Với người xuất gia tất cả giới luật là khuôn mẫu đạo đức đều noi gương đời sống
của một vị A La Hán. Mặc dù tâm tư của người ấy có thể còn nhiều hờn giận, ham
muốn
, nhưng bên ngoài, đi đứng nằm ngồi, tác phong đạo đứcthường xuyên noi
theo gương mẫu của Thánh nhân, học tập theo Thánh nhân. Người tại gia không thể
làm được như vậy, mà chỉ có thể tập gần, tập làm quen. Gần như vậy sẽ thấy có
một niềm tin rằng thế gian này chắc chắn có bậc thánh, có vị A La Hán, là bậc
Chân nhânđạo đứctoàn vẹn, dứt sạch tham, sân, si; sống luôn luôn an lạc,
không còn bị chìm đắm trong cõi luân hồiđau khổ. Đó là niềm tinhướng thượng,
từ đó mà tìm thấyý nghĩa và hướng đi cho đời sống của mình.

Từ chỗ tin
tưởng
này, có thể phát triển tính lành, không cần cấm sát sanh, không cần cấm
trộm cắp, mà tự nhiên mình sẽ không làm việc đó vì tin tưởng có một giá trị rất
cao mà mình đang học. Đó là nghĩa tích cực của giới. Cho nên, giới khôngđơn
giản
ý nghĩatiêu cực là sự cấm đoán. Tuy rằng, khi học giới người học được
dạy là không nên làm điều này, hãy nên làm điều kia. 

Người khôn
ngoan, có trí trong đời, biết rõ đâu là con đường chí thiện, là đường tốt
để mình đi. Đâu là con đường xấu, tự mình tránh; không cần ai cấm. Đó là học
giới
cho người hiểu biết; có trí tuệ. Còn đối với người không đủ năng lực để
phân biệt những gì là cao thượng và thấp kém, thì những sự cấm cản là cần
thiết
. Như người lớn khôn ngoan khi thấy lửa, thấy thuốc độc, không bao giờ thò
tay lấy và xử dụng một cách vô ý thức. Nhưng trẻ nít hay người chưa hiểu
biết
thì gặp gì cũng ăn, cũng uống, rất nguy hiểm. Với những người như vậy tất
nhiên cần phải có sự cấm cản; quy định rõ những điều nên làm và không nên làm.

Ý NGHĨATHỌ
GIỚI

Chỉ các bậc
Thánh A-la-hán trong đời mới phân biệt rõ bằng trí tuệvô lậu rằng cái gì độc
hại
, không độc hại. Ngoài ra, các hạng phàm phu, kể tất cả chư thiênloài người,
bị trùm kín trong màn vô minh u tối, khó có thể định rõ con đườngtrước mắt
mình, nên đi theo lối nào; cũng không thể nhận rõ những gì là độc hại; cho nên
Phật chế giới, để theo đó mà hành trì. Vì vậy, các chúng đệ tử Phật, khi đã quy
y Tam bảo
, phải thọ trì các cấm giới.

Thọ giới là sự
phát nguyện một cách tự nguyện tuân thủ những điều Phật cấm, để tự rèn luyệnbản thân, tu tập thân và tu tập tâm, nâng cao phẩm chất đạo đức, giá trịhướng thượng
của con người của mình. Do sự phát nguyện này, phát nguyện đúng cách, đúng
pháp, trong tự thân người thọ giới phát sinh một năng lực gọi là phòng hộ. Năng
lực
ấy được thí dụ như là bờ đê, ngăn cản những dòng nước bẩn không cho chảy
vào ao nước sạch.

Tâm ta như hồ
nước. Nước vốn trong sạch nhưng chung quanh nhiều rác; và thường xuyên dòng
nước đục từ bên ngoài tràn vào làm vẩn đục, hồ trở thànhdơ bẩnđộc hại. Cho
nên, cần có bờ đê ngăn lại để cản các dòng nước bẩn không chảy vào tâm. Vậy nên
hiểu theo thí dụ: giới là bờ đê. 

Làm thế nào để
đắp thành bờ đê và giữ cho vững chắc? Đó là ý nghĩathọ giớitrì giới.

Người không thọ
giới
Phật cũng có thể sống trọn cuộc đờiđạo đứcgương mẫu. Nhưng đó là đạo đức
bẩm sinh, có tính tự phát. Giống như con nai hiền lành; và suốt đời cũng chỉ
hiền lành như vậy, không có gì tiến bộ cao cả hơn. Trong người ấy không có năng
lực
phòng hộ; do đó không có sự tăng trưởng của giới. Nói cách khác, người ấy sinh
ra với tính thiện, như hạt giống tốt, quý hiếm, mà được cất kỹ trong kho, không
mang ra gieo trồng thì không bao giờ thành cây, để cho hoa cho trái.

Mỗi tháng có 6
ngày thọ giới là mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30. Hoặc 8 ngày, nêu thêm mồng 7 và
22.

Trong truyền
thuyết
tín ngưỡng cổ xưa ở Ấn độ, người đời tin rằng vào các ngày đó ma quỷ
thường quấy nhiễuloài người, và cũng là những ngày mà Thiên đế và bốn vị Hộ thế
Thiên
vương đi tuần hành nhân gian để giúp đỡ những ai làm điều thiện. Vì thế
người đời bấy giờ mới bày ra chuyện dâng cúng phẩm vật, cầu khẩnthần linh phò
hộ, trừ ma quỷ, ban cho nhiều điều phước, nhiều tài lộc, may mắn. Người tin
Phật không tin vào những chuyện hối lộ Thần thánh kiểu đó; chỉ tin vào những
nghiệp thiện ác do chính mình làm, và những hậu quảlành dữ của nó. Cho nên,
thay vì cúng bái, cầu khẩn, chúng tatu tậpbát quan trai giới.

Mặt khác, người
chưa sống ở miền quê thì chưa thấy được tác dụng của ngày âm lịch. Người miền
quê qua nhiều thế hệkinh nghiệmnhận thấy rằng tính tìnhcon người thường thay
đổi theo từng mùa trăng, từng con trăng. Con trăng thay đổi, khi tròn khi
khuyết, tánh tình theo đó cũng ít nhiều biến đổi, hiền hòa hơn hay hung dữ hơn;
dễ vui hơn hay dễ cáu gắt hơn. Thọ giới vào những ngày này có tác dụng rất lớn
đối với sự tu tậpthân tâm.

Ngày nay, đời
sống
hàng ngày tập trung vào các đô thị lớn, nhật thực nguyệt thực đều ít khi
biết nên chu kỳ trăng không cần thiết. Đời sống càng ngày càng xã hội hóa, tại các
thành phố chỉ có chu kỳ xã hội, cho nên đến ngày thứ Sáu, hay thứ Bảy trong
tuần thì con ngườicảm giác khác với các ngày thường khác, cảm giác ngày chủ
nhật cũng khác liền. Vậy không nhất thiết phải theo mùa trăng, mà ngày chủ nhật
thọ giới cũng được. 

Hiệu lực của sự
thọ giới phân làm hai loại. Một là giới tận hình thọ, tức phát nguyện thọ rồi
thì trì suốt đời; cho đến khi chết thì giới tự động xả. Hoặc chưa chết, nhưng
không còn tin tưởng, không còn thích thú trong việc trì giới, mà tự mình tuyên
bố
, xả giới, hay bỏ Phật, bỏ Pháp, bỏ Tăng, bấy giờ giới thể cũng mất. 

Thứ hai là giới
một ngày một đêm. Đó là giới cận trụ. Sau khi thọ, giới thể chỉ tồn tạiluân
lưu
trong thâm tâm người thọ một ngày một đêm, từ khi mặt trời mọc hôm nay đến mặt
trời
mọc hôm sau. Hết thời hạn này, giới tự động xả. 

Tại các thành
phố lớn không thể tínhthời hạn một ngày theo ánh sáng mặt trời được, mà phải
tính theo thời khắc của đồng hồ. Mốc khởi đầu của một ngày để thọ giớibát quan
trai
có thể ấn định từ 6 giờ sáng hôm nay cho đến 6 giờ sáng hôm sau. Sau 24
giờ, dù có lên chùa làm lễ hay không, giới vẫn tự động xả. Nếu có lên chùa làm
lễ xả, đó chỉ là sự hồi hướng; tức nguyện đem công đức trì giới một ngày hướng
vào ước nguyện nào đó.

Giới bát quan
trai
không thể tự thọ; mà cần phải thọ từ một Sa-di hay Tỳ kheo (ni cũng được).

NỘI DUNG TÁM
GIỚI

Bát quan trai
giới
, là trai giới có 8 chi. Nội dung các chi, theo ý nghĩa, chia làm 4
phần. 

1. Giới tự
tánh
, gồm có 4 chi: sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ. Nói là tự
tánh
, vì đó là phẩm chất cơ bản nhất của con người. Mất đi những phẩm chất này thì
cũng mất luôn giá trị làm người, mà đọa lạc xuống thành hàng súc sinh, động vật
thấp. Phật xuất hiện hay không xuất hiện ở đời, 4 phẩm chất này là cần thiết để
được tái sinh làm người. Tuy nhiên, khi có Phật ra đời, quy định thành điều
học; và Phật tửphát nguyệnthọ trì, bấy giờ tự thân giới phát triển thành năng
lực
vừa phòng hộ, vừa nâng cao tâm của người thọ trì hướng về Thánh đạo.

Bốn chi này là
căn bản của ngũ giới. Có sự khác biệt trong 8 giới là không được dâm dục, trong
khi năm giới chỉ tránh sự tà dâm. Do hiệu lực của năm giới là thọ suốt đời, mà
trong 8 giới chỉ thọ một ngày một đêm, nên thể của các giới này cũng có sự khác
nhau. Như giới sát sanh. Trong năm giới, nó có giá trị phòng hộ để không bị báo
ứng
đau khổ về sau, là phước báo trong loài người mà thôi. Trong 8 giới, nó
không những tăng cườngnăng lực phòng hộ, mà còn phát triển thành nhân tố tích
cực
, trở thànhnăng lựcđối trịphiền não, chế ngựdiệt trừ tâm sân hận, từ
đó dễ dàng chứng đắc các thiền, cao hơn nữa là các Thánh quả

2. Một chi
trừ phóng dật, là chi giới cấm uống rượu
, dùng các chất say; những thứ
khiến cho tâm trở thànhbuông lung, không được kiểm soát. Trong năm giới, chi
tránh uống rượu chỉ là sự phòng hộ không để say sưa, mất tự chủ, rồi dẫn đến
phạm các giới khác. Trong 8 giới, chi tránh xa uống rượu này trở thànhnăng lực
ngăn trừ sự phóng dật, hay buông lung.

Phật dạy: có
một pháp dẫn tới Niết bàn và có một pháp khiến các người làm nô lệ cho ma
quỷ
tức ma vương, tử thần. Một pháp, nếu ai thành tựu, có đầy đủ, ai có nó nằm ngay
trong lòng mình, người có pháp đó sẽ không bao giờ thoát khỏi bàn tay của ma
vương
, của tử thần. Đó là phóng dật, buông lung.

Còn một pháp
thoát khỏi sự khống chế của ma vương đi tới cứu cánhan lạc, đó là không buông
lung

Buông lung
sự buông thả, hay xao lãng, làm càn, làm dở, không tự kiểm soát mình, là không
tỉnh giác. Như học trò muốn thi đậu. Ngày mai thi, bài học chưa thuộc,
nhưng lại buông lung theo các các trận bóng đá, mà hậu quả là sự thi
trượt. Đó là trạng tháibuông lung không kiềm chế được. Người có buông lung thì
không làm gì nên nổi sự nghiệp lớn; luôn luôn thất bại.

Buông lunggồm
buông lung thân, buông lung tâm. Buông lung thân là thế nào? Mệt một chút
thì đi nằm, ngồi học một chút buồn ngủ quá thì đi ngủ. Người tu ngồi lần chuỗi
mới được nửa chuỗi thì nghĩ tưởng đủ thứ chuyện. Buông lung tâm là xao lãng,
mất chánh niệm, suy nghĩ viễn vông, không tập trung tâm ý vào điều thiện, nên
cũng dễ được dẫn đến chỗ làm càn, làm bậy. 

3. Hai chi
ngăn trừ kiêu mạn.
Một, tránh không ngồi nằm trên các thứ giường tòa cao
rộng. Hai, tránh trang sức các thứ tràng hoa, anh lạc, thoa ướp hương thơm;
cũng tránh không ca múa, hát xướng, cố ý xem nghe. Trong giới sa-di, hai chi
này được phân thành ba, vì mục đích học tập chánh niệm.

Ở đời, giai cấp
địa vịxã hội là những tiêu chuẩn để phẩm định giá trị một người. Ông hoàng
đế
khi vi hành, chỉ mang theo vài ba lính hầu, phục sức như dân dã; chẳng ai
sợ, cũng chẳng được ai tôn kính. Thuở xưa, vua Ba-tư-nặc mỗi khi ra khỏi hoàng
cung
đều có tiền hô hậu ủng, gươm, giáo, tàn lọng; nhưng khi đến tinh xá hầu
Phật; ông bỏ hết tất cả nghị trượng vua chúa quyền uy ấy, chỉ một mình đi bộ
đến giảng đường, cúi lạy Phật. Không thể bước vào Thánh đạo với tâm kiêu mạn,
với cảm tưởngquyền uy, giàu sang nào cả. Phật nói, như bốn con sông lớn khi
chảy vào biển cả, chỉ còn một vị mặn duy nhất; cũng vậy, đời có phân biệtbốn
giai cấp
sang hèn khác nhau, nhưng khi bước vào Thánh đạo, tất cả hòa thành một
hương vị duy nhất, là hương vị giải thoát

4. Một chi
là thể của bát quan trai
. Đó là chi không ăn phi thời, làm nền tảng cho tất
cả 8 điều. Do chi không ăn phi thời này mà bản chấtgiới sát sinh, v.v.,
trong 5 giới khác với thể của các chi trong 8 giới.

Chúng ta biết
rằng, trong phong tục Trung hoa, khi một ông Vua muốn làm lễ tế thiên địa, thì
trước đó phải dọn mình cho sạch sẽ bằng cách trai giới một tuần tức 10 ngày.
Trai giới ở đây là kiêng cữ rượu thịt và sắc dục.

Trong tục lệ
tôn giáo Vệ-đà của Ấn độ, người gia chủ muốn làm dâng lễ Soma cho thần linh,
trước hôm hành lễ cũng phải trai giới, tức không ăn chiều.

Những tục lệ
như vậy thuộc về tín ngưỡng, nặng tính cầu nguyện, không ảnh hưởng gì đến
việc tu tập của Phật tử
. Nhưng, những ngày mà họ chọn để hành lễ thì quả
thật
ý nghĩa.

Thật ra, trong
xã hội nông nghiệp cổ xưa, các hiền triết hay đạo sĩ sống trong rừng, do quan
sát
tâm tư mình hay do tiếp xúc với dân chúng, họ nhận thấy, tâm tư con người
vào những ngày này rất dễ bị tác động; hoặc dễ cáu kỉnh hơn ngày khác, hoặc dễ
cảm
thấy hoan hỷ hơn. Nhưng vì không thể lý giải bằng ngôn ngữ của lý trí, nên
họ biểu hiện ý nghĩa đó qua tín ngưỡngthần linh, rằng tình trạng thay đổi tâm
tính
bất thường như vậy là do ma quỷquấy nhiễu, hay do thần linh phò trợ.

Với Phật tử đã
thọ Tam quy Ngũ giới thì không có ngày nào là không tránh xa sự sát sinh, trộm
cắp
, nói dối, v.v.. Nhưng sự tránh xa này chỉ là trạng tháitiêu cực. Rồi khi
thọ trìtrai giới, tránh không ăn phi thời, thì sự không ăn phi thời này chính
là lực tác động khiến cho năng lực phòng hộ của giới được tăng trưởng. Vì vậy,
giới này cũng được gọi là giới Trưởng tịnh. Vì sao? Ý nghĩa cũng đơn giản thôi.
Người đời, sự ăn và sự uống là một phần của sự sống cho nên không cảm thấy
gì khác lạ trong sự ăn uốnghằng ngày. Nay thọ trìtrai giới, ý thức rằng từ
trưa nay cho đến sáng mai, mình không ăn và chỉ uống những thứ được quy định
như pháp; do đó mà trong tâm thường trựchiện hành một năng lực phòng hộ, tránh
không ăn phi thời. Năng lực này làm nền tảng, cũng là làm chất xúc tác, để cho
năng lực phòng hộ của các giới khác tự nhiênluân lưutăng trưởng. Do đó, nếu
người thọ trì giới bát quan trai mà ăn phi thời, thì thể của trai giới tự động
hủy.

Mặt khác, với
người đời, bữa ăn chiều tối là chính. Trong đó, không chỉ ăn uống, tiệc tùng,
hưởng thụ các thứ vật dục, các lạc thú trần gian; mà đó còn là các mối quan hệ
xã hội, là cơ hội giao tiếp, bàn bạc các công việc làm ăn, thiện có ác có. Nói
cách khác, đó là thời gianthắt chặt các sợi giây ràng buộc của xã hội. Một
ngày tránh ăn phi thời, là tạm thời tránh xa những quan hệ ràng buộcxã hội như
vậy. Chính do sự tránh xa này mà người tại gia cảm nghiệm được ý nghĩaviễn ly,
rõ được giá trị của sự giải thoát khỏi những buộc ràng thế tục. Đó chính là
khởi đầu của Thánh đạo. Cho nên, giới này cũng được gọi là giới cận trụ; là
giới mà năng lực phòng hộ dẫn người thọ trì đi gần đến Thánh đạo.

Với ý nghĩa như
vậy, sự thọ trìbát quan trai giới chính là thọ trì sự không ăn phi thời. Những
nghi thức khác, như cúng dường ngọ trai, hay tụng kinh, bái sám, chỉ là các
hình thức hỗ trợ cho giới thể được vững mạnh. Đó không phải là những điều cốt
yếu trong sự thọ trìbát quan trai giới.

Thời Phật, các
cư sĩ như Ông Cấp Cô Độc, hay Bà Tỳ-xá-khư, là những nhà đại phú hộ; có cơ
nghiệp gia sản to lớn. Họ vẫn thường xuyênthọ trìtrai giới. Vào ngày thọ
giới
, họ đến chùa xin giới với một vị tỳ kheo hay tỳ kheo ni, sau đó trở về
nhà, quản lý công việc làm ăn buôn bán như thường. Nhưng do sự không ăn chiều,
trong thân tâm họ giới thểtự nhiênluân lưu trọn một ngày đêm. 

Đa số người thọ
giới
thói quen ăn chiều nên muốn được châm chước. Tức là xin được ăn cháo,
hay các thứ bột ngũ cốc cho đỡ đói. Làm như vậy thì sự thọ trìtrai giới không
còn ý nghĩatrì giới, mà chỉ là việc làm lành để cầu phước thôi. Thật ra,
nhịn đói một ngày, chẳng thiệt hại gì. Trái lại, nếu tập nhịn được, người thọ trì
sẽ thấy ích lợivô cùng của giới pháp này. Tất nhiên, chỉ những ai có hành mới
có hiểu.

TĂNG TRƯỞNGTHIỆN CĂN

Trong các thiện
căn
, thứ nhất là tín tâm, thứ hai là tinh tấn. Tinh tấn chính là nghị lực, nó
là gốc rễ của thiện căn, không có nghị lực, không phát triển thiện căn được.

Tinh tấn hiểu
là siêng. Siêng thì ai cũng siêng được, vì người đời sống thì cần phải làm việc
chứ ngồi không dễ sinh chán, ngồi xem TV hoài, thích thú mấy rồi cũng có lúc
mệt mỏi, chán chường. Siêng năng như vậy không phải là tinh tấn.

Người tinh tấn
là người có nghị lực. Nhiều người cứ nghĩ nghị lực là làm việc gì lớn lao như
bậc đại trượng phu. Dù làm việc lớn việc nhỏ gì cũng phải giữ vững quyết tâm, phải
kiên trì; từ chuyện nhỏ cho tới chuyện lớn, đã quyết định thì không bỏ.
Đó là nghị lực cần được huấn luyện. Ở đời, dễ mất nghị lực. Có nhiều người khi
hứa thì hăng hái, dũng mãnh. Rồi sau đó thì nguội dần, cho đến khi tắt hẳn. Tất
nhiên mọi sự đều có lý dobiện hộ; đều có cái lẽ tại vì, hay bởi vì. Chính các
cớ sự được dẫn ra để biện hộ cho sự thoái thất của mình ấy nuôi dưỡng sự buông
lung
trong ta một ngày một lớn.

Mất nghị lực,
thì tín tâm rồi cũng sẽ mất; các pháp thiện cũng bị xao lãngdần dần đi đến
chỗ đoạn tuyệt. Cho nên, có tín thì phải có tấn, có đủ nghị lực mới có thể tập
trung chú ý, tức có niệm. Có niệm, có tập trung chú ý, mới có nhận thức đúng,
chân chính; tức có huệ.

Làm thế nào để
phát triển các thiện căn này, là tín, tấn, niệm, định, huệ?

Học tập thọ trìbát quan trai giới để gần gũi đời sống một vị A-la-hán, để có chánh tín nơi
Thánh đạo, biết rõ có con đường thánh, có con đường ra khỏi thế gian cho mình
đi. 

Tinh tấn
nghị lực. Niệm, tức chánh niệm, không xao lãngpháp thiện, không quên bỏ mục
đích
tối thượng của đời mình. 

Niệm thông
thường để có niềm tin. Niệm là nhớ, suy nghĩ, từ suy nghĩcho đếnchánh niệm.
Trong tu bát quan trai giới, người Phật tửthọ giới được khuyên dạy là nên tu
tập
pháp mônlục niệm tức đối tượng để chiêm nghiệm và suy niệm. Đó là : niệm
Phật
, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thí, niệm Giới, niệm Thiên. Đây cũng là một
phần của việc tu định.

Niệm Phật, là
niệm những phẩm tính của Phật. Phật là đáng Đại giác, đã diệt trừphiền não,
đạo đứctoàn vẹn, không còn tham sân si; Phật là đấng Ứng cúng, Chánh biến tri,
đấng Giác ngộ hoàn toàn… 10 hiệu của Phật.

Niệm Phật
nghĩ đến những đức đại từ, đại bi, đại trí, đại tuệ chứ không phải chỉ niệm mà
không biết gì.

Niệm Pháp
niệm những lời dạy của đức Phật. Pháp của đức Thế Tôn khéo nói, khéo giảng dạy;
pháp đó vốn thanh tịnh, ly dục, nếu mình thực hành thì có hiệu quả ngay, đem an
lạc
ngay trong hiện tại; pháp mà Phật giảng dạy là đến để mà thấy, để chứng
nghiệm
, chứ không phải đứng xa xa mà nghe. Nếu không đến, không thực hành,
không chứng nghiệm thì không thể hiểu được. Đó là tính chất Pháp của Phật giảng
dạy.

Niệm Tăng. Tăng
là chúng đệ tử của Phật, những vị đang đi trên con đườngthánh đạo, đang thực
tập
, là phàm Tăng hoặc là thánh Tăng đang hướng đến Niết bàn hay chứng đạo quảNiết bàn, có thật những vị Tăng trong thế gian. Niệm Phật, Pháp, Tăng để có
chánh tín rằng có Thánh đạo ngay trong cõi đời này.

Niệm Thí là suy
niệm về sự thực hành bố thíhiệu quả. Ở thế gian thực tập hạnh thí xả; xả bỏ
tiền tài, danh vọng, không tham lamchấp trướctài sản.

Niệm Giới
suy niệm làm thế nào giới không bị khuyết, không bị vỡ, không bị sứt mẻ, không
bị hoen ố, không bị tì vết như viên ngọc, phẩm chất trong sáng.

Niệm Thiên
suy niệm rằng ngoài cõi người này còn có cõi trời, thế giới của thiên thần, xa
hơn
nữa có thế giới của Bồ Tát, của Phật, ít nhất là trên cõi người còn có
những thế giới cao hơn con người.

Nếu vun trồng
được thiện căn, cơ bản là thành tựu được bát quan trai giới, nó sẽ phát sinh ra
hiệu quả mình sẽ thấy, mình cảm nhận được Phật Phápvi diệu, đưa mình lên đời sống
cao hơn, càng thấy phẩm giá mình càng lúc càng lên cao. 

Phật pháp không
lìa khỏi thế gian. Điều đó có nghĩa Phật pháp chính là sự sống. Hiểu Phật pháp
là hiểu lẽ sống của mình. Sống phải biết mục đích sống, tại sao mình sống, tại
sao mình chết. Sống cả cuộc đời, làm ăn vất vả lam lũ, may mắn thì làm vua làm
chúa, cuối cùng chả biết đi về đâu; thế thì uổng lắm.

Cầu mong các
Phật tử sau một ngày thọ trìtrai giới, thấy mình được gần Thánh đạo hơn một
bước. 

cập nhật :
10-07-2006