Vì “Giới luật là nền tảng của Phật giáo” (Vinayo Buddhànasàsanamùlam nên chư TăngPhật giáoNam Tông dù ở bất cứ quốc gia, khu vực địa lý nào trên thế giới, cũng đều có chung một đặc điểm là yêu cầu nghiêm trì giới luật. Chư TăngPhật giáoNam Tông Kinh tại Việt Nam, xưa nay cũng đặt nặng yêu cầu đó, ở cùng mức độ, và không chấp nhận một biệt lệ nào trong việc giữ gìngiới luật của Phật chế.
Tuy nhiên, việc giữ giới của người chư TăngPhật giáoNam Tông Kinh không có hoàn cảnh khách quan thuận lợi như chư TăngPhật giáoNam Tông các nước. Vì vậy, việc giữ gìngiới luật trở nên khó khăn hơn nhiều, đòi hỏi chư TăngPhật giáoNam Tông Kinh những nỗ lực lớn lao.
Chúng ta đều biết, điều kiện khách quan của môi trường xã hộiảnh hưởng rất nhiều đến việc giữ giới của bậc xuất gia. Nếu được xuất gia vào thời đức Phật còn tại thế thì, trong bối cảnh tăng đoànlúc ấy, việc giữ giớitrang nghiêm, thanh tịnh dễ dàng hơn bây giờ rất nhiều.
Hiện nay, bối cảnh tu tập của chư TăngPhật giáoNam Tông tại các nước như Campuchia, Lào, Thái Lan…có nhiều thuận lợi cho việc giữ giới của chư Tăng.
Trong điều kiện tại các nước đó, xã hội đều có sự hiểu biết và ý thức cao về giới luật của bậc xuất gia, hầu hết Phật tửtại gia cùng có những nỗ lực giúp chư Tănggiữ gìngiới luật, cùng nỗ lựchành trì bổn phận và giới luật của người tại giacư sĩ và cùng có ý thức giám sát việc giữ giới luật của chư Tăng.
Chẳng hạn, tại Thái Lan, người Phật tử không bao giờ cúng dườngthực phẩm cho chư Tăng vào buổi chiều, và họ cũng không chấp nhận chư tăng thọ thực riêng vào buổi chiều. Điều đó cho thấy, điều kiệnxã hội tốt sẽ giúp cho chư Tănggìn giữ tốt giới luật đã thọ trì. Tăng ni sống trong điều kiệnxã hộithuận lợi, thì việc tu học, nhất là việc giữ gìngiới luậtthanh tịnh cũng được thuận lợi hơn.
Đối với chư TăngPhật giáoNam tông Khmer ở Việt Nam cũng có được thuận lợi hơn chư Tăngnam Tông Kinh, vì hầu hết xung quanh các ngôi chùa Khmer Tây Nam Bộ đều có Phật tử dân tộc sinh sống. Chư Tăngthường xuyên được gần gũi với Phật tử; Phật tử có điều kiện giám sát việc giữ giới của chư Tăng.
Chư TăngPhật giáoNam Tông người Kinh thì không có được thuận lợi như vậy vì :
Phật giáoNam tông Kinh có số lượng chùa và chư Tăng khiêm tốn, tồn tại trong bối cảnh xã hội có nhiều tôn giáo, chỉ riêng Phật giáo thì đa số vẫn là Phật giáoBắc tông. Do đó việc chư TăngNam Tông Kinh giữ gìngiới luật theo đúng truyền thống của chư TăngPhật giáoNam Tông như ở các nước khác hay chư TăngPhật giáoNam Tông Khmer Tây Nam Bộ thì có phần nào khó khăn hơn..
Vì không có được môi trường xã hộithuận lợi trong việc giữ giới như thế nên để giúp cho chư TăngNam Tông Kinh gìn giữ giới được trong sạchthanh tịnh đòi hỏi bản thânchư TăngNam Tông Kinh phải có sự nỗ lựctinh tấn nhiều, và tập thể chư Tăng và Phật tử hệ phái cũng cần phảiý thức đặt mình trong sự tồn tại và phát triển chung trong lòng Giáo Hội Phật giáo Việt nam, trên cơ sở pháp lý chung của Giáo Hội.
Trước một bối cảnh như thế, chư TăngNam Tông Kinh cần thấy việc nghiêm trì giữ gìngiới luật theo truyền thống hệ phái phải khế hợp cùng chư Tăng ni các hệ phái để từng bước hình thành các thế hệxuất gia của Giáo Hội Phật giáo Việt nam, trong đó có chư TăngNam Tông Kinh, sống hòa hợp và tôn trọnggiới luật Phật chế trên cơ sở thực hiện đúng Hiến Chương, Nội qui Tăng sự của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam đã đề ravì lợi ích và sức mạnh chung của Phật giáo Việt Nam.
Qua kinh nghiệm thực thực tếlịch sử của Phật giáoNam Tông Kinh cho thấy, các bậc cao tăngtiền bối của hệ phái rất sáng suốt trong việc vận dụng tinh thầngiữ gìngiới luật khế hợp với bối cảnh xã hội đất nước và Phật giáo không được thuận lợi như hiện nay mà vẫn tồn tại và phát triển tốt đẹp; Điển hình như, trong các thập niên từ 1920 đến 1970…, Phật giáoNam Tông Kinh chỉ giới hạn trong một ít tỉnh thành với số lương chùa và chư Tăng khiêm tốn, nhưng nhờ thực hiệntinh thần “tứ chúng đồng tu” “chia vui chia khổ nhiệt hàn cùng Tăng”, có sự gắn bó hài hòa tốt đẹp giữa xuất gia và tại gia; những Phật tửtại gia thường gần gũi với chùa, nhiệt tâm với đạo, thường tới lui chùa cúng dường, thọ bát quan trai, làm công quả, nghe kinh thính pháp, nhiệt tình giúp đở cho chư Tănggìn giữgiới luật; có quan hệ tốt đối với các hệ phái Phật giáo khác…nên tạo niềm tin và tinh cảm của đông đảo Tăng tín đồPhật giáo Việt Nam, nhờ vậy màuy tín của Phật giáoNam Tông Kinh ngày càng tăng.
Đó chính là ngoại duyên hỗ trợ tích cực cho việc giữ gìn được giới luật của chư Tăngtiền bối được thanh tịnh và gặp nhiều thuận duyên trong công cuộc hoằng dương Phật Pháp cùng tồn tại và phát triển tốt đẹp với các tổ chức Giáo hội hệ phái Phật giáo khác tại miền Nam và đã tạo nên được truyền thống nghiêm trì giới luật khá tốt đẹp trong chư TăngPhật giáoNam Tông Kinh qua nhiều thập kỷ tồn tại.
Ngày nay, với thành quả thống nhất Phật giáo cả nước, trong đều kiện Đất nước và Giáo Hội đang trên đà xây dựng và phát triển ổn định, truyền thốnggìn giữgiới luật của chư TăngNam Tông Kinh tin tưởng sẽ có nhiều thuận duyên trong việc tiếp tụcduy trì và phát huy hơn nữa để cùng chư Tăng ni các hệ phái Phật giáo từng bước nâng cao phẩm chất giới luật của Tăng niGiáo Hội Phật giáo Việt Nam để hoàn thànhnhiệm vụ của bậc xuất giaPhạm hạnh, trưởng tử của đức Như Lai trong sứ mệnh truyền trì mạng mạch Phật Pháp vì hạnh phúcan lạc cho tự thân và cho đời, góp phần trang nghiêmGiáo Hội – phục vụ đất nước, phục vụnhân dân, góp phần thực hiệnphương châmhoạt động của giáo hội “Đạo Pháp – Dân Tộc- Chủ Nghĩa Xã Hội”, thực hiệnnếp sống tốt đời đẹp đạo, đoàn kết cùng toàn dân ra sức bảo vệ và xây dựng tổ quốc, làm cho Đạo pháp ngày càng được xương minh trong lòng dân tộc, nêu cao vai trò của Phật giáo Việt Nam trong cộng đồngPhật giáoThế giới vì hòa bình hợp tác hữu nghị và hội nhập toàn cầu.
Theo tôi, đó là nhận thứccần thiết của tăng niPhật tửViệt Nam trong đó có Phật giáoNam Tông Kinh trong thời đại hiện nay.
Được như vậy thì, Phật giáoNam Tông Kinh không những thực hiện được vai trò và nhiệm vụduy trì tuyền thống nghiêm trì Giới luật của các bậc tiền nhân của hệ phái và xuyên suốt lịch sử phát triển chư Tăng tại các nước Thái Lan, Myanmar, Srilanla…nỗ lực duy trìgìn giữ vậy.
Và đó cũng chính là thực thi yêu cầu bức thiết mà Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đang đặt ra đối với tăng ni, nhất là tăng ni trẻ trong nhiệm vụ nghiêm trì giới luật nhằm nâng cao phẩm chất đời sốngTăng niViệt Nam trước xu thếthời đại đầy thách thức và cám dỗ trong cuộc sống xã hội thiên nặng vật chất như hiện nay.
Mong sao qua giới đàn Hành Trụ sẽ cung cấp cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam những bậc tòng lâmthạch trụ của Tăng già ở tương lai để cho rừng thiền luôn được tỏa sáng. (TC. Phật Giáo Nguyên Thủy 13)