Tỳ Kheo Ni Giải Nghiêm dịch từ bản Pali-English của Andrew Olendzki
….
Thuở xưa[1] khi các người đi buôn bằng đường biển
dong thuyền ra biển, họ mang theo một con chim để nhắm hướng đất liền. Khi
thuyền ở chỗ không thấy đất liền, họ thả con chim ra; con chim bay về các hướng
đông, tây, nam, bắc, trên, dưới và xung quanh. Và nếu không thấy đất liền, con
chim bay trở lại tàu; còn nếu thấy đất liền gần đó, nó sẽ đi luôn thật. [2]
…
Ngày xưa[3] có một cây vả chúa tên là Kiên Định,
thuộc về vua Koravya; cây có năm cành rộng cho bóng mát rất dễ chịu. Tàng cây
toả rộng cả trăm dặm, rễ lan ra chừng bốn mươi dặm. Quả của cây này rất tuyệt:
lớn như cái thúng – mọng ngon như vậy – và trong như mật ong.
Vua và các cung nữ hưởng một phần; quân
đội hưởng một phần; dân trong thành và trong thôn làng hưởng một phần; các bà
la môn và nhà tu khổ hạnh hưởng một phần; chim và thú hưởng một phần. Không ai
canh giữ quả của cây vả này cả, và cũng không ai hãm hại lẫn nhau vì quả của
cây này.
Nhưng có một người kia đi đến, ăn quả của
cây Kiên Định cho bằng thích, bẻ gãy cành rồi bỏ đi. Vị thiên nữ trú nơi cây
Kiên Định thầm nghĩ: “Thật kinh khủng, thật lạ lùng, có kẻ lại xấu xacho đến
nổi dám ăn quả cây Kiên Định cho bằng thích, bẻ gãy cành rồi bỏ đi! Vậy để cây
Kiên Định không còn ra quả nữa xem sao cho biết?” Và cây vả Kiên Định không còn
ra quả nữa.
Thế
rồi vua Koravya đến chỗ Thiên ChủĐế Thích (Sakka), gặp ngài và nói: “Chắc Ngài
đã biết rồi, Kiên Định – cây vả chúa – không còn ra trái nữa?” Đế Thích bèn hoá
hiện làm như có một trận mưa to gió lớn ập xuống, làm cây vả chúa Kiên Định ngả
xuống, trốc gốchoàn toàn. Vị thiên trú nơi cây Kiên Địnhbuồn rầu, khóc lóc,
đứng khóc một bên cây, nước mắt đầm đìa.
Thiên ChủĐế Thích đi đến chỗ vị thiên đang đứng, đến đó rồi nói rằng: “Này
thiên nữ, cớ sao mà bà lại buồn rầu, khóc lóc, đứng một bên cây nước mắt đầm
đìa?”
“Thưa Ngài, đó là vì một trận mưa to gió lớn vừa ập xuống, làm chỗ ở của tôi bị
ngả xuống, trốc gốchoàn toàn.”
“Này
thiên nữ, có phải bà đang trì Pháp của loài cây khi việc này xảy ra không?”
“Nhưng thưa Ngài, thế nào là một cái cây trì Pháp của loài cây?”
“Như
thế này, thiên nữ: những người cắt rễ lấy rễ cây; những người lột vỏ cây lấy
vỏ; những người hái lá lấy lá; những người hái hoa lấy hoa; những người hái
trái lấy trái – không một điều nào đủ là cái cớ để cho một vị thiên chỉ nghĩ
đến mình hay rầu rĩ cả. Này thiên nữ, một cái cây trì Pháp của loài cây là như
vậy.”
“Vậy
thì thưa Ngài, con không đang trì Pháp của loài cây khi mưa to gió lớn ập
xuống, làm chỗ ở của tôi bị ngả xuống, trốc gốchoàn toàn.”
“Nếu
như vậy thì, thiên nữ, nếu như bà trì Pháp của loài cây, chỗ ở của bà có thể sẽ
hoàn nguyên như cũ.”
“Thưa Ngài, tôi sẽ xin trì Pháp của loài cây! Mong trú xứ của tôi được hoàn
nguyên như cũ.”
Khi
ấy, Thiên ChủĐế Thíchhoá hiện làm như có một trận mưa to gió lớn ập xuống,
nâng cây vả chúa Kiên Định dậy, rễ cây lành lặn hoàn toàn.
…
Chú thích của Andrew
Olendzki:
[2] Từ Pali ở đây là
tathagatako (E.M. Hare dịch trong bản dịch
của PTS là “gone for good”; Andrew Olendzki dich là “truly gone”,)
câu chuyện này giúp chúng ta hiểu thêm rất nhiều vì sau Đức Phật lại dùng danh
hiệu “Tathagata” để tự xưng.
Tên
của Ngài là Siddhattha; là một sa mônkhổ hạnh Ngài lấy tên của tộc họ bên thân
mẫu của Ngài là Gotama; Ngài được người đương thời biết đến như một bậc hiền
trí dưới tên của tộc họ của thân phụ ngài, Sakyamuni; và khi giác ngộ, ngài
được gọi là Buddha, Bậc Giác Ngộ. Những người theo ngài thường gọi Ngài là
Bhagavant, hay “Thế Tôn,” nhưng tên mà ngài luôn dùng để tự xưng lại là Tathagata
(Việt dịch là Như Lai.)
Tathagata
là một từ khó dịch ra tiếng Anh. Tatha nghĩa là ‘như vậy,’ (so, thus, in
this way); và gata là động tính từ của động từ đi, và có nghĩa là “đã đi
rồi”, “khứ” (gone.) Chúng ta thường thấy từ này được dịch ra tiếng Anh là
“Thus-gone” hay “the Thus-Gone” (‘đã đi như vậy’, ‘bậc đã đi như vậy’ tức là
‘như khứ’.) Luận sư Buddhaghosa (Phật Âm) liệt kê 8 cách dịch khác nhau cho từ
này (Digha Atthakatha 1.59), trong đó đưa ra những cách phân tích gốc từ rất
sáng tạo.
Tôi
(Andrew Olendzki) thừa nhậnchưa bao giờ thật sự hiểu ý nghĩa từ Tathagata cho
đến khi tôi đọc câu chuyện này. Với hình ảnh con chim được thả ra để tìm bờ bên
kia, nhiều việc trở nên sáng tỏ.
Trước
hết, chúng ta cần nhận ra 2 cách thành ngữ này được sử dụng: một chỉ cho đức
Phật như là người không còn sinh lại nữa, và hai là diễn tảtâm thức của người
đã giác ngộ vẫn còn trụ thế đối với các trần.
Có
lúc một vị A La Hán qua đời, Mara – như một đám mây đen – đi tìm xem tâm thức
của vị A La Hán đang tái lập (sinh) ở đâu. Trong trường hợp đó, đức Phật nói
rằng tâm thức của A La Hán “không bám trụ vào đâu nữa” (ví dụ SN 22.87.) Theo ý
nghĩa này, đức Phậtrõ ràng dùng danh hiệu “Tathagata” với ý nghĩa ngài sẽ
không còn phải sinh lại nữa – như con chim rời chiếc thuyền không còn quay trở
lại, tâm thức của ngài không đậu lại bất cứ cảnh giới nào để bị ràng buộc vào
một thân khác.
Nhưng
cũng có một nghĩa khác, trong đó thành ngữ Tathagata diễn đạt một cách thích
đángbản chất của tâm đã giải thoát ở trong hiện đời. Khi người hỏi cố tìm cách
để bắt đức Phật phải trả lờitâm thức ngài có còn sau khi chết không, ngài quở
họ qua việc đáp rằng chính ngay trong đời này tâm thức của Tathagata còn không
thể dò được, vì không nằm trong phạm trù đo lường thì làm sao các khái niệm
còn, không còn có thể áp dụng được để đo lường tâm thứcNhư Lai (ví dụ SN
1074.) Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời
(bất cứ đối tượng nào của thức) – như một con chim đã thoát, không còn quay trở
về bám đậu vào thuyền nữa.
Chú thích của người dịch tiếng Việt: từ Như Lai dịch hay hơn là từ tiếng Anh vì, bao hàm được
ý nghĩa vô thỉ vô chung (vô khư vô lai). Cách giải thích của Olendzki chỉ nói
được một mặt là ‘đi hẳn, không quay trở lại’ nhưng không giải thích chữ ‘such’,
‘so’, ‘in this way’ (Như.)
[3] Đây có thể là một câu chuyện có thật – có lẽ
Kiên Định là tên của cả hành tinh, không phải chỉ là một cái cây thần thoại.
Làm sao chúng ta có thể giải thích khác hơn về đức nhẫn lớn lao và sự làm lợi
ích không ngừng của trái đất trước sự tham lam và phá hoại mà con người đã làm
đối với trái đất? Tôi (Olendzki) nghĩ rằng Gaia, nữ thần ngự trị trái Đất dễ
thương của chúng ta đã được Sakka (Đế Thích) dạy cho bài học này từ thuở xa
xưa, và với đức Đại Nhẫn đã chịu đựng và tha thứ cho những điều tệ hại nhất mà
chúng ta đã làm để đáp lại những ân huệ của bà. Nếu đó là sự thật, bà sẽ không báo
cho chúng ta biết khi chúng ta đã đi quá xa – vì cho rằng đó là phần trách
nhiệm của chúng ta.
Như mọi chuyện Phật giáo
khác, truyện này mang nhiều ý nghĩa. Không phải ngẫu nhiên mà cây đại thụ này
có năm nhánh, và từ dùng cho mỗi phần quả là khandha – từ dùng để chỉ cho năm
uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức.) Người ăn thoả thích quả của mình khởi lòng
tham, và sự khát khao, sự bẻ cành của người này dụ cho sân, giận và ghét bỏ.
Đây là hai trong ba gốc rễ của độc từ đó mà các hành động bất thiện phát sinh (gốc
độc thứ ba là si – có mặt khi tham, sân có mặt.) Do đó, toàn bộhình ảnh này
đại diện cho một người bị người khác đối xử xấu, hay phải đối diện với sự nhen
nhúm của các kết sử của chính mình xúi giục mình làm hại.
Xin để ý câu truyện không
dạy “người xấu ác” về sự rồ dại của mình, vì thường ta không thể làm gì để
tránh những kẻ này, hay những khuynh hướng này ở trong ta. Câu truyện nhắm dạy
về phản ứng của chúng ta trước những lỗi lầm. Sakkha (Đế Thích) cho rằng phản
ứngnóng nảy, hờn dỗi trước sự lăng mạ là đứng ở chỗ coi mình là trung tâm
điểm, và câu trả lờiduy nhấtthích hợp trong trường hợp này là lòng từ và sự
rộng lượng – đối với mình cũng như với kẻ khác. Như Kinh Pháp Cú cũng đã dạy:
“Hận thù diệt hận thù, đời này không từng có. Từ bi diệt hận thù, là định luật
nghìn thù. [Dhp 5].
Bài pháp này được giảng cho
Dhammika, một tì khưu than thở về cách đối xử của một số người. Đức phật soi
lại tình trạng cho Dhammika, cho thấy bản thân ông không đối xử tốt với các bạn
đồng tu. Đây là một dịp để đức Phật dạy cho Dhammika, bằng câu chuyệnẩn dụ,
“pháp của một sa môn” được tóm tắt trong câu “không sỉ nhục lại người đã sỉ
nhục mình, không giận lại người giận mình, không xúc phạm lại người đã xúc phạm
mình.”
(TKN Giải Nghiêm dịch từ bản Pali-English của Andrew Olendzki. Xin chỉ dùng để phát tặng
không, không bán.)
(Source: www.dieukhong.org)
Nguyên văn bản tiếng Anh:
AN 6.54
PTS: A iii 366 Dhammika Sutta: Dhammika (excerpt) translated from the Pali by Andrew Olendzki © 2005–2012 … In[1] … Once upon a time[3] One portion was enjoyed by the king, along with his household of women; one portion was enjoyed by the army; one portion was enjoyed by the people of the town and village; one portion was enjoyed by brahmans and ascetics; and one portion was enjoyed by the beasts and birds. Nobody guarded the fruits of that royal tree, and neither did anyone harm one another for the sake of its fruits. But then a certain man came along who fed upon as much of Steadfast’s So then king Koravya went up to where Sakka, chief among the gods, was dwelling, and having approached said this: “Surely you must know, sire, that Steadfast, the royal fig tree, no longer bears fruit?” And then Sakka created a magical creation of such a form that a mighty wind and rain came down and toppled the royal fig tree Steadfast, uprooting it entirely. And then the deva who dwelled in Steadfast grieved, lamented, and stood weeping on one side with a face full of tears. And then Sakka, chief among the gods, went up to where the deva was standing, and having approached said this: “Why is it, deva, that you grieve and lament and stand on one side with a face full of tears?” “It is because, sire, a mighty wind and rain has come and toppled my abode, uprooting it entirely.” “And were you, deva, upholding the dhamma of trees when this happened?” “But how is it, sire, that a tree upholds the dhamma of trees?” “Like this, deva: Root-cutters take the root of the tree; bark-strippers take the bark; leaf-pickers take the leaves; flower-pickers take the flowers; fruit-pickers take the fruits — and none of this is reason enough for a deva to think only of herself or become morose. Thus it is, deva, that a tree upholds the dhamma of trees.” “Then indeed, sire, I was not upholding the dhamma of trees when the mighty wind and rain came and toppled my abode, uprooting it entirely.” “If it were the case, deva, that you were to uphold the dhamma of trees, And then Sakka, chief among the gods, created a magical creation of such a form that a mighty wind and rain came down and raised up the royal fig tree Steadfast, and its roots were entirely healed. … Notes
|
Đọc thêm bản dịch của HT. Thích Minh Châu:
●
Kinh DHAMMIKA HT Thích Minh Châu dịch