Mangala Sutta (Khp 5, Sn 2.4)
HẠNH PHÚC KINH
(Mangala Sutta) [1]
Tôi có nghe như vầy:
Vào một thời nọ Đức Thế Tôn ngự tại Jetavana (Kỳ Viên) của Trưởng Giả Anathapindika [2] (Cấp Cô Độc), gần thành Savatthi (Xá Vệ) [3].
Lúc bấy giờ, đêm về khuya, có một vị Trời hào quang chiếu diệu sáng tỏa toàn khu Kỳ Viên, đến hầu Phật, lại gần nơi Phật ngự, đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi đứng sang một bên. Khi đã đứng yên, vị Trời cung kính bạch với Đức Thế Tôn bằng lời kệ [4]:
1. Chư Thiên và nhân loại đều cầu mong được an lành, và ai cũng suy tìm hạnh phúc. Kính Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ chỉ dạy chúng con về Phúc Lành Cao Thượng Nhất. [5]
2. Không kết giao với người ác, thân cận với bậc hiền trí, và tôn kính bậc đáng kính – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
3. Cư ngụ nơi thích nghi [6], đã có tạo công đức trong quá khứ, và hướng tâm về chánh đạo [7] – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
4. Học nhiều hiểu rộng [8], lão luyện tinh thông thủ công nghiệp[9], giới hạnh thuần thục trang nghiêm [10], có lời nói thanh nhã – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
5. Hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ, thương yêu tiếp độ vợ con, và hành nghề an lạc – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
6. Rộng lượng bố thí, tâm tánh trực giác, giúp đỡ họ hàng, và tạo nghiệp chân chánh – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
7. Loại trừ và ngăn ngừa nghiệp ác [11], thận trọng kiêng cữ các chất say, vững vàng giữ gìn phẩm hạnh – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
8. Đức hạnh biết tôn kính [12], khiêm tốn, biết đủ, biết ơn và đúng lúc, lắng nghe Giáo Pháp (Dhamma) [13] – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
9. Nhẫn nhục, biết vâng lời, thường gặp gỡ bậc Sa Môn(Samanas) [14] và tùy thời, luận đàm về Giáo Pháp – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
10. Tự kiểm soát, sống đời Thánh Thiện, quán tri Tứ Đế, liễu ngộNiết Bàn – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
11. Người mà tâm không giao động khi tiếp xúc với thế gian pháp[15], Không Sầu Muộn, Vô Nhiễm và An Toàn [16] – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
12. Đối với những ai đã viên mãn hoàn thành các pháp trên [17], ở mọi nơi đều không thể bị thất bại, đi khắp nơi đều được hạnh phúc – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất [18].
-oOo-
Chú Giải Hạnh Phúc Kinh:
[1] So sánh với Túc Sanh Truyện Mahamangala Jakata (số 453). Bài kinh này được ghi trong bộ Sutta Nipata và Khuddaka Nikaya. [2] Anathapindika, theo nghĩa trắng là “Người cho ăn đến kẻ cô đơn không được giúp đỡ” hoặc “Nuôi sống những người bị bỏ rơi”, ta thường gọi là Cấp Cô Độc. Tên thật của ông là Sudatta. Sau khi quy y trở thành Phật tử, ông mua một khu rừng tươi tốt của Ông Hoàng Jeta (Kỳ Đà) và xây dựng một ngôi đạo tràng có tên là Jetavanarama (Kỳ Viên Tịnh Xá). Nơi đây Đức Phật cư ngụ phần lớn đời Ngài.Muốn có nhiều chi tiết về Sudatta, đọc Kindred Sayings, phần I, trang 27; và Vinaya Text, tập iii, trang 179.
[3] Savathi, tên ngày nay là Sahet-Mahet. [4] Bản Chú Giải ghi nhận rằng ngày kia có một cuộc bàn thảo sôi nổi xảy ra trong “Hội Trường” nhằm tìm hiểu thế nào là phúc lành cao thượng nhất.Đông người, mỗi người có một ý kiến riêng. Có người chủ trương rằng sáng sớm ra đường thấy một điềm lành (như gặp một người mẹ bồng con, một em bé, một con bò trắng, v.v…) là phúc lành.
Những người có ý kiến khác nhau chia làm ba nhóm, mạnh mẽ bênh vực ý kiến của nhóm mình, và cuộc bàn cãi sôi nổi lan tràn đến cảnh giới chư thiên. Các vị Trời cũng không đồng ý với nhau, không thỏa mãn được với những cuộc tranh luận, đem câu chuyện lên đến Vua Trời Sakka (Đế Thích).
Sau cùng, Vua Trời Sakka đề cử một vị Trời đại diện đến hầu Phật và cung thỉnh tôn ý Ngài. Chính vị Trời ấy đến gần Đức Thế Tôn và bạch hỏi bằng câu kệ.
[5] Phúc Lành Cao Thượng Nhất. Theo Bản Chú Giải, Mangala có nghĩa là những gì dẫn đến hạnh phúcvà thịnh vượng. Theo các nhà ngữ nguyên học, danh từ này chia làm ba phần: “Man” là trạng thái khốn khổ, “ga” là đưa đến và “la” là cắt đứt. Các Ngài gộp chung ba phần lại và giải thích “Mangala” là “cái gì chặn đứng con đường đưa đến trạng thái khốn khổ”. [6] Cư ngụ nơi thích nghi. Tức là nơi nào Tứ Chúng (chư vị Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Cận Nam và Tín Nữ) thường cư trú, thường có những người tâm đạo nhiệt thành thực hành thập thiện nghiệp, và nơi mà Giáo Pháp được xem là quy tắc của đời sống. (Bản Chú Giải). [7] Hướng tâm về chánh đạo. Tức là hướng cái tâm đồi bại vô luân về đạo đức chân chánh, tâm mất đức tin về niềm tin chân chánh và tâm ích kỷ vị ngã về lòng quảng đại vị tha. (Bản Chú Giải). [8] Học nhiều hiểu rộng. Bahusutta, theo nghĩa trắng là “người có nghe nhiều”, đa văn. Danh từ này hàm ý là người có học vấn uyên bác thâm sâu. Vào thời xưa không có sách vở, vì lẽ ấy, người nhớ nhiều giáo huấn của thầy được xem là học rộng, hiểu sâu. Nơi đây học rộng, hay “nghe nhiều” có nghĩa là người thông hiểu Giáo Pháp (Dhamma) một cách sâu xa. [9] Bản Chú Giải đề cập đến hai loại công ăn việc làm: nghề không làm tổn hại đến ai của người sống tại gia, như thợ bạc, thợ rèn v.v… và nghề của người xuất gia như vá y v.v… [10] Vinaya, tức giới hạnh trang nghiêm trong tư tưởng, lời nói và việc làm.Bản Chú Giải đề cập đến hai loại giới hạnh: giới của người tại gia, tức không vi phạm thập bất thiện nghiệp và giới hạnh của hàng xuất gia như bảy loại vi phạm được kể trong Giới Bổn (Patimokkha), hoặc nghiêm trì Tứ Thanh Tịnh Giới.
[11] Hoàn toàn lánh xa ác nghiệp, không phải chỉ tiết chế chừng mực. [12] Tức tôn kính Đức Phật và các môn đệ của Ngài, tôn kính Thầy, cha, mẹ, bậc trưởng thượng v.v… (Bản Chú Giải). [13] Thí dụ như lúc ta bị những tư tưởng ô nhiễm ám ảnh, khuấy động. [14] Những người đã đè nén khát vọng của mình. [15] Thế gian pháp (lokadhamma), gồm có tám là: được và thua, danh thơm và tiếng xấu, tán dương và khiển trách, đau khổ và hạnh phúc (xem Chương 43). [16] Asokam, Virajam và Khemam. Mỗi danh từ trong ba Phạn ngữ này đều hàm xúc tâm của một vị A La Hán. Asoka là không sầu não, phiền muộn. Virajam là không có những ô nhiễm tham ái, sân hận và si mê. Khema là an toàn không bị trói buộc trong những thằng thúc tham dục (Kama), trở thành, hữu (Bhava), tà kiến (Ditthi) và vô minh (Avijja) — (dục lậu, hữu lậu, tà kiến lậu và vô minh lậu). [17] Tức ba mươi tám Phúc Lành kể trên. (Bản Chú Giải). [18] So bản dịch trong quyển “Buddhism” trang 125 của Rhys David và “Some Sayings of the Buddha” của Woodward, trang 56.Trích:
ĐỨC PHẬT VÀ PHẬT PHÁP
Đại Đức Narada Maha Thera, 1980 – Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Nguyên tác: “The Buddha and His Teachings”
Buddhist Publication Society, Sri Lanka
CẦU AN THEO TINH THẦN KINH PHƯỚC ĐỨC
Quảng Tánh
Mahamangala Sutta thuộc Sutta Nipata II, Tiểu Bộ kinh I, Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch là Kinh Phước Đức, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch là Kinh Điềm Lành Lớn (Kinh Đại Hạnh Phúc), một bản kinh cầu phước đức rất nhiệm mầu, hiệu ứng an lành đích thực cho những ai tụng đọc, thực hành và ứng dụngtrong đời sống hàng ngày. Vào các ngày đầu xuân, những người con Phật lên chùa dâng hươngcầu nguyện, mong ước một năm mới bình an, thịnh vượng. Bên cạnh việc lễ bái, cầu nguyện, cúng dường v.v…, nếu người nào hữu duyên được đọc tụng và hành trì theo kinh Phước Đức thì chắc chắn sẽ gặt hái được phước báovạn sựcát tườngnhư ý.
Bản kinhPhước Đức ngắn gọn, súc tích, nghĩa lýrõ ràng có thể đưa vào kinh Nhật tụng để mọi ngườiđọc tụng mỗi ngày. Duyên khởi để Thế Tôn ban pháp thoại này phát xuất từ lời thỉnh cầu của một vị Trời mong muốn biết và thực hành gieo trồng phước đức nhằm xây dựngđời sốngan lành. Chư thiên là loài được xem là có phước đức hơn hết so với các loài trong lục đạo mà còn thỉnh ý Thế Tôn nói về phước đức để kiện toàn phước báo cho tự thân, huống gì loài người, và nhất là Phật tửchúng ta.
* * *
Lánh xa kẻ xấu ác
Được thân cận người hiền
Tôn kính bậc đáng kính
Là phước đức lớn nhất.
Theo Thế Tôn, phước đức lớn nhất, trước tiên là phát huy tuệ giác, thành tựuchánh kiến. Một trong những biểu hiện của chánh tri kiến là thấy rõ thiện và ác cùng với gốc rễ của nó (Kinh Chánh Tri Kiến, Trung Bộ I). Thấy rõ điều ác và người ác để tránh xa, đồng thời thấy rõ điều thiện và người hiền để thân gần, tôn kính các cá nhânđức hạnh, bậc mô phạm về đạo đức trong xã hội… chính là những nhân tố cực kỳ quan trọng để thành tựuphước đức. Đặc biệt, sự “tôn kính bậc đáng kính” vô cùngcần thiết cho việc thành tựuphước đức của cá nhân và cả quốc gia, xã hội. Bậc đáng kính là người có tài đức, bậc hiền tài, là nguyên khí của quốc gia. Thiếu trân quý, không trọng dụng hiền tài hoặc đặt để không đúng người, đúng việc, làm lãng phí tài và đức là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho phước đức của quốc giasuy giảm.
Sống trong môi trường tốt
Được tạo tác nhân lành
Được đi trên đường chánh
Là phước đức lớn nhất.
Mỗi người đều có quyền lựa chọn môi trường sống và làm việc cho chính mình. Tất nhiên, thực tế thì ít khitoàn diện, được cái này thì mất cái kia, song điều cần tỉnh giác ở đây là những thuận lợi về phương diệnvật chất không phải lúc nào cũng cần thiết để cho chúng ta nhắm mắt và sẵn sàng đánh đổi. Cần bình tâm để nhận diện rằng được sống, làm việc, học tập và phụng sự trong môi trường lành mạnh sẽ tác động rất lớn đến việc hình thành nhân cách cao thượng. Nhờ sống trong môi trường đạo đức và trí tuệ, xung quanh hầu hết là người tốt nên ta dần trở nên chín chắn, hiền thiện và an lành hơn.
Có học, có nghề hay
Biết hành trìgiới luật
Biết nói lời ái ngữ
Là phước đức lớn nhất.
Kinh nghiệm của tiền nhân cho thấy “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Có chuyên môn cao ở bất cứ lĩnh vực nào cũng đều hữu dụng, mang lại lợi íchthiết thực cho tự thân, gia đình và xã hội. Có tài năng nhưng phải được đạo đức định hướng và dẫn dắt thì mới xứng hiền tài. Tài mà không hiền thì vẫn vô phước vô phần, đôi khi trở nên cực kỳ nguy hiểm nếu họ cậy tài để làm ác. Mặt khác, người có tài thì không nên tự cao, quát nạt, giấu nghề mà ngược lại, luôn sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm, dìu dắt và đào tạothế hệkế thừa với tất cả lòng thành, khiêm tốn và yêu thương. Được như vậy, xã hội ngày càng trở nên hoàn thiện, đất nước ngày càng phát triển ổn định hơn. Do đó mỗi chúng ta, nhất là các bạn trẻ phải lập chíhọc hành để có một nghề nghiệp chân chính, có trình độ chuyên môn và thu nhập cao, phục vụ nhiều hơn cho cộng đồng. Đó chính là một trong những phương diện của phước đức.
Được cung phụng mẹ cha
Yêu thươnggia đình mình
Được hành nghềthích hợp
Là phước đức lớn nhất.
Những ai từng vì cuộc mưu sinh mà phải xa cha mẹ và người thân, sống nhờ nương nơi đất khách quê người, nhất là phải làm công việc nghịch tay trái nghề, mới thấm thía về sự thiếu phước. Ấy vậy mà có khá nhiều người đang nắm giữ phước đức trong tay nhưng lại không tự biết, thậm chí còn rúng rẫy xem thường khi đang có một công việc yêu thích ở gần nhà cùng với cha mẹ và những người thân. Cho nên, khi còn duyên lành sống với cha mẹ, anh em trong gia đình thì phải hiếu thuậnhết lòng, có việc làmthích hợp (dù thu nhập không cao) cũng nên tận tâm vì đó là những chất liệu hình thành nên nguồn vui sống. Chính niềm hòa hiếu an vui của chúng ta, điều mà không thể đem các giá trị khác như danh tiếng, giàu sang để có thể hoán đổi, nên mới gọi là phước đức lớn nhất.
Sống ngay thẳng, bố thí,
Giúp quyến thuộc, thân bằng
Hành xử không tì vết
Là phước đức lớn nhất.
Một người làm ăn lương thiện, tạo dựng cơ nghiệp từ bàn tay và khối óc của chính mình chính là phước đức lớn nhất. Càng phước đức hơn khi cuộc sống của bản thân đã tạm ổn, người ấy biết phụng dưỡng cha mẹ, giúp đỡ người thân và sẻ chia với mọi ngườixung quanh, nhất là những người đang thực sự thiếu thốn. Sống trung thực, ngay thẳng, nhìn về quá khứ không có bất cứ điều gì phải dằn vặt, bận lòng. Tâm hồntrong sáng, hành xử đúng với ta mà cũng phải với người cùng với niềm kính trọng, yêu thương là nền tảng của bình an. Thiết lập được bình an là thành tựuphước đức.
Tránh không làm điều ác
Không say sưa nghiện ngập
Tinh cần làm việc lành
Là phước đức lớn nhất.
Phước đức hình thành và tăng trưởng nhanh nhất khi chúng ta biết siêng năng làm các điều lành. Một người khi phát nguyện làm các điều lành thì đồng nghĩa với không làm các điều ác. Điều lành luôn mang các thuộc tính có lợi ích cho mình và người, tạo ra hiệu ứng an lành trong hiện tại và tương lai. Một điều rất thú vị ở đây là để tạo phước đức cho bản thân bằng cách làm các hạnh lành thì tuyệt nhiên không dính vào say và nghiện. Vì không nhiều người chú ý đến khía cạnh này nên chủ quan không cảnh giác rồi đánh mất mình khi lỡ sa vào say và nghiện. Nói cách khác, say sưa và nghiện ngập là hai yếu tố quan trọng khiến tổn giảm phước đức nhanh chóng. Do vậy, muốn tạo dựng và giữ gìnphước đức của bản thân thì hãy luôn tỉnh táo, làm chủ được mình.
Biết khiêm cung lễ độ
Tri túc và biết ơn
Không bỏ dịp học đạo
Là phước đức lớn nhất.
Thành tựuphước đức rất khó, nhưng khi có chút phước rồi mà người hưởng phước biết khiêm cung, lễ độ với mọi ngườiđồng thời luôn biết vừa đủ và tri ân lại càng khó hơn. Cái sự đời “giàu đổi bạn, sang đổi vợ” xưa nay không phải là chuyện hiếm. Có phước mà không biết gìn giữ và vun bồi nên chắc chắn sau một thời gianphước đức sẽ suy giảm. Với những người khi đã có cái ăn, cái mặc và chỗ ở rồi thì điều quan trọng không phải là cố gắng làm cho vinh thân phì gia thêm để thụ hưởng mà chính là vấn đềtu dưỡng phát huy đạo đức, an tịnh và thăng hoa tâm hồn. Những ai làm được như vậy thìphước đức ngày càng tăng thêm.
Biết kiên trì, phục thiện
Thân cận giới xuất gia
Dự pháp đàm học hỏi
Là phước đức lớn nhất.
Đi chùa, làm việc thiện, đi nghe pháp thoại, học đạo, tham thiền v.v… chính là những việc làm cao thượng, mang lại phước đức to lớn. Có nhiều vấn đề mà tiền bạc không mua được, danh vọng không đánh đổi được và uy quyền không lung lạc được… và chỉ có học đạo, tham thiền mới có thể giải quyếtrốt ráo, mang lại niềm an ổn cho con người. Xưa kiathái tử Siddhartha và sau là vua Trần Nhân Tôngtừ bỏ ngai vàng lên rừng tu đạo chính là đi tìm sự an tâm. Khi tâm đã an thì muôn sự đều bình an. Và chỉ có chuyên tâmhọc đạo mới có thể thành tựuphước đức to lớn này.
Sống tinh cần, tỉnh thức
Học chân lý nhiệm mầu
Thực chứng được Niết-bàn
Là phước đức lớn nhất.
Trong quá trình hướng nội, thanh lọc thân tâm thì chứng đạt Niết-bàn là phước đức lớn nhất. Sự siêng năng chuyên cầntu tập, duy trì sự tỉnh thứcthường trực là những nhân tố quan trọng để thành tựuđạo quả. Niết-bàn là sự giải thoát khỏi tất cả những ràng buộcphiền não, là ánh sáng phá tan u ám của bóng tối si mê, là sự chấm dứt khổ đau luân hồi sanh tử. “Việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống” rồi, hành giảthong dongtự tại làm đẹp cho đời.
Chung đụng trong nhân gian
Tâm không hề lay chuyển
Phiền não hết, an nhiên,
Là phước đức lớn nhất.
Với tâm giải thoáttự tại, hành giảan nhiênbất động trước vô vàn biến động, tự tại vào ra trong sanh tử để cứu độchúng sanh, làm đẹp cuộc đời như sở hành của vị Bồ-tát, đây không chỉ là phước đức cho một người mà tất cả cộng đồng, nhân loại.
* * *
Thật rõ ràng, xuyên suốt nội dung bản kinhThế Tôn dạy về “làm” phước mà không hề có chuyện “xin” phước. Nên trong đạo Phật có chủ trương cầu nguyện mà tuyệt không có cầu xin. Vì Phật không trực tiếp ban phước cho ta an lành mà chỉ dạy phương cách rồi chúng ta phải tự thực tập, hành trì để tạo ra phước đức và được bình an.
Mong ước được an lành chính là một sự phát nguyện vun bồi phước đức tự thân, được thể hiện qua sự chuyển hóaba nghiệp thân miệng ý theo hướng thiện lành. Do đó, bình an và phước đức có thể tạo dựng ngay bây giờ và ở đây. l
Quảng Tánh
(Báo Giác Ngộ, Xuân Tân Mão-2001)