Giới Bổn Thức- Xoa Của Luật Tứ Phần (Sách Ebook PDF)

VIỆN NGHIÊN CỨUPHẬT HỌCVIỆT NAM
GIỚI BỔN THỨC- XOA
CỦA LUẬT TỨ PHẦN
Dịch và chú thích
THÍCH NHẬT TỪ
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC 2021
gioi bon thuc xoagioi bon thuc xoa
MỤC LỤC

Lời giới thiệu – HT. Thích Giác Toàn 
Lời giới thiệu của dịch giả 
Lời nói đầu 
Chương 1: Học bốn giới căn bản 
Chương 2: Học sáu pháp 
Chương 3: Học hành pháp 
1. Phần giới luật 
2. Phần oai nghi 
Bài sám hối đối với 292 điều hành pháp 
Phụ lục: Giới Thức-xoa bằng Hán văn 
Vài nét về Thầy Nhật Từ 

LỜI GIỚI THIỆU

Tôi nhận được bản thảo của quyển “Giới bổn Thức-xoa của Luật Tứ phần” do Thượng tọa Nhật Từ dịch và chú thích từ bản chữ Hán “Thức-xoa-ma-na-ni giới bổn” (式义摩那尼戒本) do Sa-môn Hoằng Tán (沙門弘贊) biên tập.

Giới bổn này đã được Trưởng lão Thích Trí Quang dịch và xuất bản từ năm 1993. Tuy nhiên, việc dịch mới một tác phẩmthích ứng với điều kiệntu học của hành giả trong thời điểm hiện tại cũng là điều hết sứccần thiết. Bản dịch của Thượng tọa Nhật Từ có nhiều chú thích về thuật ngữ, giúp các Thức-xoa-ma-na, các Ni sinh đang ngồi trên ghế các trường Trung cấp Phật học, Trường Cao đẳng Phật học, hoặc đang tu học tại các tòng lâmtự viện, hiểu rõ hơn về các điều khoản giới luật một cách chi tiết, nhận thức rõ tầm quan trọng của Giới bổnứng dụnghành trì trong bối cảnh tu học của tự thân.

Đóng góp chính của sách này là, ngoài hàng trăm chú thích, còn đối chiếu sự trùng lắp của tất cả 302 giới Thức-xoa so với giới Tỳ-kheo-ni của Thượng tọa bộ. Việc này giúp các vị chuyên nghiên cứuLuật tạnghiểu rõ sự tương đồng của giới Thức-xoa và Tỳ-kheo-ni cũng như từ nguyên và ngữ nghĩa của giới luậtđạo Phật.

Quyển sách gồm có 3 chương, đi thẳng vào cốt lõithực tậpgiới hạnh của các Thức-xoa. Hai chương đầu giải thích bốn giới căn bản và sáu học pháp mà một Thức-xoa cần phảigìn giữ, không được phạm. Chương cuối giới thiệu 292 giới cần được các vị Thức-xoa ứng dụng vào trong đời sống thường nhật.

Tôi rất hoan hỷtán tháncông đức của Thượng tọa Nhật Từ đã dịch và chú giải quyển “Giới bổn Thức-xoa của Luật Tứ phần” này. Rất mong các vị Thức-xoa-ma-na nói riêng và Ni đoàn nói chung, những người con gái của đức Phậtphát tâm cao thượng, siêng hành trìgiới luật, để tự thân được sống an vui trong Pháp và Luật của đức Phật, thành tựuPhạm hạnh cao quý, làm lợi ích cho đời.

Mùa An cư Tân Sửu, 2021

Hòa thượng Thích Giác Toàn

(Viện trưởng Viện Nghiên cứuPhật họcViệt Nam)


 
LỜI GIỚI THIỆU CỦA DỊCH GIẢ

1. NĂM LOẠI GIỚI CỦA NGƯỜI XUẤT GIA

Đối với người xuất gia, giới có 5 loại: (i) Giới Sa-di (P. Sāmaṇera, S. Śrāmaṇera, 沙彌), (ii) Sa-di-ni (P. Sāmaṇeri, S. Śrāmaṇeri, 沙彌 尼), (iii) Tỳ-kheo (P. Bhikkhu, S. Bhikṣu, 比丘), (iv) Tỳ-kheo-ni (P. Bhikkhuni, S. Bhikṣuṇī, 比丘尼), (v) Thức-xoa-ma-na-ni (P. Sikkhamānā, S. Śikṣamāṇā, 式叉摩那尼). Sa-di đối với nam, Sadi-ni đối với nữ có nghĩa đen là “Sa-môn tử” (P. Samaṇuddesa, 沙門 子), tức người đang tập hạnh làm Sa-môn (P. Sāmaṇa, S. Śramana, 沙門), tức chưa chính thức làm Tỳ-kheo gọi nôm na là thầy, hay Tỳ-kheo-ni gọi nôm na là sư cô. Các Sa-di và Sa-di-ni phải thực tập 10 giới (十戒) của người xuất gia.1

Các vị Tỳ-kheo phải thực tậpgiới đức theo quy định của Giới bổn Tỳ-kheo (比丘戒本) còn gọi là Kinh giới Tỳ-kheo (比丘戒經) là bản văn gồm 250 giới điều của Tỳ-kheo đối với Luật Tứ phần (Dharmaguptaka vinaya), 227 điều đối với Luật Thượng tọa bộ (Theravāda vinaya), 251 điều đối với Luật Ngũ phần (Mahīśāsaka vinaya), 218 điều đối với Luật Tăng-kỳ (Mahāsāṃghika vinaya), 263 điều đối với Luật Thập tụng (Sarvāstivāda vinaya) và 249 điều đối với Luật Căn bản thuyết hữu bộ (Mūlasarvāstivāda vinaya). 

 

Tương tự, các vị Tỳ-kheo-ni phải thực tậpgiới đức theo quy định của Giới bổn Tỳ-kheo-ni (比丘尼戒本) còn gọi là Kinh giới Tỳ-kheoni (比丘尼戒經) là bản văn có 348 giới điều của Tỳ-kheo-ni theo Luật Tứ phần (Dharmaguptaka Vinaya, 四分律) hoặc 311 giới điều theo Luật Thượng tọa bộ (Theravāda Vinaya, 上座部律), 380 điều đối với Luật Ngũ phần (Mahīśāsaka Vinaya, 五分律), 290 điều đối với Luật Tăng-kỳ (Mahāsāṃghika Vinaya, 僧祇律), 354 điều đối với Luật Thập tụng (Sarvāstivāda Vinaya, 十誦律) và 346 điều đối với Luật Căn bản thuyết hữu bộ (Mūlasarvāstivāda Vinaya, 根本說 一切有部律).

2. THỨC-XOA-MA-NA-NI: KHÁI NIỆM, TUỔI TÁC VÀ GIỚI PHÁP

2.1. Khái niệm: Thức-xoa-ma-na-ni (式叉摩那尼) gọi tắt là Thức-xoa-ma-na (式叉摩那) hay Thức-xoa (式叉) thường được dịch trong Hán Việt là “học pháp nữ” (學法女), một giới phẩm của Ni đoàn, cao hơn Sa-di-ni và thấp hơn Tỳ-kheo-ni (屬於沙彌尼以 上,比丘尼以下的一級).

2.2. Hai năm giữ gìn: Sở dĩgiới luật riêng dành cho Thức-xoa là vì thời Phật có phụ nữ đã kết hôn2 phát tâmxuất gia mà không biết mình đã mang thai. Sau khi đi tu, bào thai của phụ nữ này ngày càng lớn, làm cho người đời đàm tiếu các sư cô, hoài nghi về sự thanh tịnh của Ni đoàn. Để tránh tình trạngtương tự, đức Phậtquy định rằng các Sa-di-ni trước khi tiếp nhận giới Tỳ-kheo-ni phải trải qua 2 năm Thức-xoa.

Về phương diệnthời gian, dù nói là 2 năm, thực chất, theo Luật Tăng-kỳ, quyển 39 ghi: “Hai năm được hiểu là 2 mùa mưa”, nghĩa là từ đầu mùa mưa năm nay đến cuối mùa mưa sang năm, tức trong vòng 12-14 tháng, nhằm xác định Sa-di-ni có mang thai hay không? Về sau này, hai năm được hiểu là 24 tháng, theo đó, các Thức xoa phải học và tu những giới luậtchính yếu dành cho mình, nhằm giúp họ trở thành các vị Tỳ-kheo-ni có lý tưởng cao quý trong tương lai.

Về tuổi của Thức-xoa, theo Luật Tứ phần: “Các Sa-di-ni tuổi từ 12-18 tuổi phải học giới trong 2 năm. Đến khi tròn 20 tuổi mới được tiếp nhận giới Tỳ-kheo-ni, chính thức làm Sư cô.

2.3. Sáu học pháp của Thức-xoa

Sáu học pháp chính của Thức-xoa bao gồm: (i) Không được xúc chạm thân thể người nam với tâm nhiễm ô (不與染污心男子身 相觸), (ii) Không được trộm cắp dưới 5 quan tiền (不取减五錢), (iii) Không được giết hại mạng sống của súc sanh (不故斷畜生 命), (iv) Không được nói láo nhỏ nhặt (不小妄語), (v) Không được ăn phi thời (不非时食), (vi) Không được uống rượu [bia] (不飲酒).

Luật Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộquy định về sáu giới pháp của Thức-xoa khác với Luật Tứ phần. Sáu giới pháp theo luật Hữu bộbao gồm: (i) Không được đi đường một mình, (ii) Không được qua sông một mình, (iii) Không được xúc chạm thân người nam, (iv) Không được ở chung với người nam, (v) Không được làm mai mối hôn nhân, (vi) 6. Không được che giấu Tỳ-kheo-ni phạm tội nặng.

Ngoài ra, còn có sáu tùy phápbao gồm: (i) Không được cầm vàng bạc, (ii) Không được cạo lông ở nách và đường tiểu tiện, (iii) Không được đào đất chỗ ẩm thấp, (iv) Không được cố ý nhổ cỏ chặt cây, (v) Không được tự mình lấy thức ăn để ăn, (vi) Không được ăn đồ ăn đã xúc chạm.

Thực ra, sáu học pháp của Thức-xoa chỉ là một trong ba phần học và thực hành của Thức-xoa. Hai phần học và thực hành còn lại bao gồm: (i) Học 4 giới căn bản, (ii) Học thực hành 292 giới.

2.4. Tổng số điều giới của Thức-xoa

Theo Luật tạng Đàm-vô-đức (S. Dharmaguptavinaya, 法藏部戒 律), các vị Thức-xoa trong 2 năm phải thực tậpgiới đức theo quy định của Giới bổn Thức-xoa-ma-na-ni (式叉摩那尼戒本)3 bao gồm:

(i) Bốn giới căn bản (學四根本戒) tức không được dâm dục, trộm cắp, giết hại, nói dối (淫、盗、殺、妄之四重戒), tương đương với 4 giới trục xuất đầu của Giới bổn Tỳ-kheo-ni của Luật Tứ phần.

(ii) Sáu giới pháp (六法戒) như nội dung ở mục 2.3 nêu trên. Cần lưu ý rằng trong sáu học pháp của Thức-xoa thì học pháp 2, 3, 4 trùng lắp với các giới trục xuất 2, 3, 4 của Giới bổn Tỳ-kheo-ni của Luật Tứ phần. Nếu trừ đi 3 giới trùng lắp thì giới Thức-xoa chỉ còn lại 289 giới, thay vì 292 giới.

(iii) Học thực hành 292 giới và oai nghi (學諸行威儀) của Thức-xoa, trong đó có 193 giới và 99 điều nên học, vốn trùng lắp với các giới của Tỳ-kheo-ni theo Luật Tứ phần.

2.5. Các giới không trùng lắp giữa Thức-xoa và Tỳ-kheo-ni

Về nội dung, có 36/348 giới của Tỳ-kheo-ni theo Luật Tứ phần không trùng lắp với 302 giới của Thức-xoa. Nói cách khác, sau khi hoàn tất 2 năm giữ giới Thức-xoa thì khi tiếp nhậngiới Cụ túc, các Tỳ-kheo-ni mới chỉ học thêm 36 điều giới mới, mà thực chất, nếu trừ đi 3 giới trùng lắp (học pháp 2, 3, 4 trùng với trục xuất 2, 3, 4) thì các Thức-xoa chỉ học và giữ thêm 36 giới mới để trở thành Tỳkheo-ni mà thôi. Các giới của Tỳ-kheo-ni trùng lắp và không trùng lắp với Thức-xoa bao gồm như nhau:

(i) Giới tẩn xuất: Trùng lắp 8/8 giới.

(ii) Giới Tăng tàn: Trùng lắp 16/17 giới, ngoại trừ giới Tăng tàn 6.

(iii) Giới xả vật: Trùng lắp 28/30 giới, ngoại trừ giới xả vật 3, 10.

(iv) Giới sám hối: Trùng lắp 151/178 giới, ngoại trừ 25 giới sám hối gồm 46, 119-126 (8 giới), 128, 130-135 (6 giới), 137-141 (5 giới), 165-168 (4 giới).

(v) Giới hối lỗi: 8 giới của Tỳ-kheo-ni gộp trong một giới hành pháp thứ 193 của Thức-xoa.

(vi) Điều nên học: Trùng lắp 99/100, ngoại trừ điều nên học 49 của Tỳ-kheo-ni.

(vii) Cách dứt tranh chấp: 7 điều này không có trong giới Thức-xoa.

Trong giai đoạn chuyển tiếp lên giới phẩm Tỳ-kheo-ni, trong 2 năm các vị Thức-xoa ngoài việc nắm vững và giữ gìnthanh tịnh 10 giới Sa-di-ni trước đó, còn phải làm quen dần cho đến trở nên thuần thục 302 giới (gồm 3 phần học) dành riêng cho mình, mà về bản chất cũng chính là những giới khoản dành cho Tỳ-kheo-ni về sau. Có thể nói, giới Thức-xoa là các giới chuyển tiếp khá lý thú của Ni đoàn, đang khi phía Tăng đoàn, từ Sa-di chỉ có 10 giới lên giới phẩm Tỳ-kheo gồm 250 giới, không có sự chuyển tiếp tương tự.

3. PHẠM TỘISÁM HỐI

Nếu Thức-xoa vi phạm một trong tám các giới Ba-la-di (P. pārājika, 波羅夷) của Tỳ-kheo-ni thường dịch là “cực ác” (極惡), “chặt đầu” (đoạn đầu, 斷頭), “vứt bỏ” (khí vô dư, 棄無餘) sẽ bị trục xuất trọn đời khỏi Ni đoàn (expulsion from the sangha for life) và không còn cơ hội phục hồitư cáchTu sĩ nữa. Đây là 8 giới trục xuất (驅擯) bao gồm: (i) Quan hệ tình dục với người hoặc động vật, (ii) Trộm cắptài sản, (iii) Giết người, xúi giục, đồng lõa, ủng hộ giết người, (iv) Tuyên bố lừa dối rằng mình là thánh nhân, chứng đắcthiền định, (v) Tiếp xúc cơ thể người nam, (vi) Cho người nam chạm cơ thể, (vii) Che giấu đồng tu phạm tội trục xuất, (viii) Đi theo thầy Tăng bị tố giác.

Đối với tội đột-kiết-la (P. dukkaṭa, S. duṣkṛta, 突吉羅), thường được dịch là “ác tác” (惡作) hay “ác hành” (惡行) tức làm các hành vi xấu, không phù hợp với phẩm hạnh Thức-xoa và Tỳ-kheo-ni. Về động cơ thì tội đột-kiết-la có hai trường hợp: (i) Cố ý phạm, (ii) Vô ý phạm. Pháp sám hốicăn cứ vào động cơ phạm tội cũng có hai thứ: (i) Đối với tội cố ý thì phải sám hối trước một vị Tỳ-kheo-ni, (ii) Đối với tội vô ý thì tự sám hốithành tâm.

Quy định về sám hối như sau. Thức-xoa phạm giớicố ý phải đối trước một vị Ni trưởng, Ni sư hoặc Tỳ-kheo-ni, trịch áo bày vai bên phải, quỳ gối chắp tay, thưa trình như sau: “Kính thưa Ni trưởng/Ni sư/ Sư cô, con là Thức-xoa AB cố ý dùng tâm dơ bẩn để đàn ông khác, tâm cũng dơ bẩn, nắm tay, nên đã phạm giới. Con xin phát lồsám hối. Con cam kết sẽ không tái phạm. Xin Ni trưởng/ Ni sư/ Sư côghi nhận cho con sám hối” (3 lần). Ni trưởng/ Ni sư/ Sư côđáp lại: “Hãy trách tâm mình.”

Đối với tự sám hối thì Thức-xoa phải đắp y, quỳ trước bàn Phật, chắp tay bạch rằng: “Con là Thức-xoa sơ ýphạm tội đột-kiết-la. Con xin sám hối và hứa không tái phạm.”

4. CÁC THUẬT NGỮ LUẬT HỌC QUAN TRỌNG

Sau đây, tôi giới thiệu khái quát một số thuật ngữ quan trọng về Luật học Phật giáo, sắp theo thứ tự ABC của các thuật ngữ, nhằm giúp các Thức-xoa nắm vững những điều mà họ phải biết khi tiếp nhận giới Tỳ-kheo-ni:

Biệt trú (P=S. parivāsa, 別住): Không được sống chung với Tăng đoàn, hình thức trị phạt bước đầu đối với Tỳ-kheo phạm 1/13 giới Tăng tàn đối với Tỳ-kheo, hoặc 1/17 điều đối với Tỳ-kheo-ni. Người phạm giới phải chịu phép “ý hỷ” (意喜) trong sáu ngày để được tiến bộ. Phép làm yết-ma hết tội (出罪羯磨) đối với Tỳ-kheo phải hội đủ 20 thành viên Tăng đoàn, đang khi giải tội đối với Tỳkheo-ni phải hội đủ 20 Tỳ-kheo và 20 Tỳ-kheo-ni.

Bố-tát (P. Uposatha, S. Upavasatha, 布薩): Lễ đọc Giới bản (recitation of the Pātimokkha) trong ngày trăng tròn. Rằm và mùng một là “ngày đọc giới” (說戒日) để Tăng đoàn được tăng trưởng điều lành (trưởng tịnh, 長淨), do vậy, Tăng đoànTăng đoàn ở mỗi trú xứ phải hội tụ về địa điểm riêng của mỗi bên, làm lễ đọc giới. Tại các chùa Bắc tông, ngoài việc đọc giới xuất gia, còn đọc tám giới (Bát quan trai giới, 八齋戒) cho Phật tửtại gia nên “Bố-tát” còn được dịch không sát nghĩa là “ngày trai” (齋日), “ngày trai giới” (齋戒日), “ngày tuân thủ tám giới” (遵守八戒日).

Cách dứt tranh chấp (P. adhikaraṇa samatha, S. adhikaraṇaśamathā, 滅諍): Thường được dịch là “diệt tránh” (滅諍) gồm 7 nguyên tắc hòa giảikết thúctranh chấp, áp dụng chung cho Tăng đoàn và Ni đoàn: (i) nguyên tắc hai bên có mặt, (ii) nguyên tắc đương sự nhớ lại, (iii) nguyên tắc không còn tâm thần, (iv) nguyên tắc tự trình bày tội, (v) nguyên tắc điều tra vết tội, (vi) nguyên tắc phục tùng số đông, (vii) nguyên tắc như cỏ che đất.

Điều nên học (P. sikkhākaraṇīya, S. Śiksākaraṇīya, 眾學法): Thường được dịch là “chúng học pháp” (眾學法) hay “ưng học pháp” (應學法) gồm 100 điều nên học đối với Tỳ-kheo và 175 điều nên học đối với Tỳ-kheo-ni theo Luật Tứ phần. Những điều nên học này liên hệ đến oai nghi của Tăng sĩ, mặc pháp phục, ăn uống, vệ sinh cá nhân, tôn kính tháp, xá-lợi và cách thuyết pháp cho người tại gia.

Giới bổn (P. Pātimokkha, S. Pratimokṣa,戒本): Còn gọi là “kinh giới” (戒經), thường được phiên âm là “Ba-la-đề-mộc-xoa” (波 羅提木叉), được dịch nghĩa là “biệt biệt giải thoát” (別別解脫), “biệt giải thoát giới luật” (别解脱戒律), “tùy thuận giải thoát” (隨順解脫), “xứ xứ giải thoát” (處處解脫), “vô đẳng học” (無 等學), “hộ giải thoát” (護解脫). Đối với kinh dạy về giới luật dành cho Tỳ-kheo thì gọi là Tỳ-kheo giới bổn (比丘戒本). Đối với kinh dạy về giới luật dành cho Tỳ-kheo-ni thì gọi là Giới bổn Tỳ-kheo-ni (比丘尼戒本).

Giới bổn Tỳ-kheo (P. Bhikkhu Pātimokkha, S. Bhikshu Pratimokṣa, 比丘戒本) còn gọi là Kinh giới Tỳ-kheo (比丘戒經) là bản văn gồm 250 giới điều của Tỳ-kheo đối với Luật Tứ phần (Dharmaguptaka vinaya), 227 điều đối với Luật Thượng tọa bộ (Theravāda vinaya), 251 điều đối với Luật Ngũ phần (Mahīśāsaka vinaya), 218 điều đối với Luật Tăng-kỳ (Mahāsāṃghika vinaya), 263 điều đối với Luật Thập tụng (Sarvāstivāda vinaya) và 249 điều đối với Luật Căn bản thuyết hữu bộ (Mūlasarvāstivāda vinaya).

Giới bổn Tỳ-kheo-ni (P. Bhikkhuni Pātimokkha, S. Bhikshuni Pratimokṣa, 比丘尼戒本) còn gọi là Kinh giới Tỳ-kheo-ni (比丘尼 戒經) là bản văn có 348 giới điều của Tỳ-kheo-ni theo Luật Tứ phần (Dharmaguptaka vinaya) hoặc 311 giới điều theo Luật Thượng tọa bộ (Theravāda vinaya), 380 điều đối với Luật Ngũ phần (Mahīśāsaka vinaya), 290 điều đối với Luật Tăng-kỳ (Mahāsāṃghika vinaya), 354 điều đối với Luật Thập tụng (Sarvāstivāda vinaya) và 346 điều đối với Luật Căn bản thuyết hữu bộ (Mūlasarvāstivāda vinaya).

Giới kinh (P. Pātimokkhasutta, S. prātimokṣasūtra, 戒經) tương đương với Giới bổn (P. Pātimokkha, S. Pratimokṣa, 戒本), gồm cóGiới bổn Tỳ-kheo (P. Bhikkhu Pātimokkha, S. Bhikshu Pratimokṣa, 比丘戒本) và Giới bổn Tỳ-kheo-ni (P. Bhikkhuni Pātimokkha, S. Bhikshuni Pratimokṣa, 比丘尼戒本).

Giới Bồ-tát (S. Bodhisattva-śīla, 菩薩戒): Thuật ngữĐại thừa chỉ cho hai loại giới bổn gồm: (i) Giới bổn Bồ-tát xuất gia (梵網 經菩薩戒本, Phạm võng Kinh Bồ-tát giới bổn) gồm 10 giới nặng (重, trọng) và 48 giới nhẹ (輕垢, khinh cấu), (ii) Giới Bồ-tát tại gia (優婆塞戒經, Ưu-bà-tắc giới kinh) có 6 giới nặng và 28 giới nhẹ. Giới Bồ-tát gồm có ba nhóm giới (S. tri-vidhāni śīlāni, 三聚淨戒, tam tụ tịnh giới) chính: (i) Giới nhiếp luật nghi (S. sajvara-śīla, 攝 律儀戒), còn gọi là “tất cả giới Bồ-tát” (一切菩薩戒, nhất thiết Bồ-tát giới), dứt trừ tất cả điều ác, (ii) Giới nhiếp điều thiện (S. kuśala-dharma-sajgrāhaka-śīla, 攝善法戒, nhiếp thiện pháp giới), tức tu tập tất cả pháp lành (修習一切善法) gồm sáu ba-la-mật (六 波羅蜜), (iii) Giới làm lợi lạc hữu tình (S. sattvārtha-kriyā-śīla, 饒 益有情戒), còn gọi là “giới nhiếp tất cả chúng sanh” (攝眾生戒, nhiếp chúng sanh giới) hay “giới lợi ích chúng sanh” (眾生益戒) bao gồm các việc lợi ích (諸饒益事), độ sanh không mệt mỏi.

Giới chỉ trì (止持戒): Những điều giới được quy định phải đình chỉ (該止), không được làm (不能作), hễ làm là vi phạm giới (作即 犯). Nói theo ngôn ngữhiện đại, “giới chỉ trì” là những điều “không nên làm” (不該做). Giới chỉ trìbao gồm tất cả 250 điều khoản giới (đối với Tỳ-kheo) và 348 điều khoản giới (đối với Tỳ-kheo-ni). Giới tác trì (作持戒): Những quy định về Tăng sự phải tuân thủ (該作), hễ không làm là vi phạm giới (不作即犯). Giới tác trìbao gồm phép biểu quyếtTăng đoàn (yết-ma), an cư mùa mưa (結 夏安居), tự tứ (自恣), truyền giới” (授戒) các nhóm chủ đề (犍 度, kiền-độ).

Giới Thanh văn (聲聞戒): Giới luậtquy định đối với người theo Thanh Văn thừa (聲聞乘所受持的戒律). Đây là thuật ngữĐại thừaTrung Quốc chỉ cho các giới luật do Phật chế lập bao gồm 5 giới (đối với cư sĩ), 8 giới (cư sĩ tập sự xuất gia trong 24 giờ), 10 giới Sa-di và Sa-di-ni, 250 giới Tỳ-kheo, 348 giới Tỳ-kheo-ni theo Luật Tứ phần.

Hết tội (P. abbhāna, S. abhyāyana, 出罪): Còn gọi là phép xá tội (拔除罪法), giải tội, xuất tội, là sự công bố Tỳ-kheo phạm giớiTăng tàn đã hết tội, sau khi Tỳ-kheo này đã tuân thủ hình phạt “không sống chung với Tăng đoàn” (biệt trú) bằng với thời gianphạm giới, chịu phép “ý hỷ” (意喜) trong sáu ngày và có tiến bộ thật sự. Phép làm giải tội để phục hồi (abbhāna) tư cách Tỳ-kheo buộc phải hội đủ 20 Tỳ-kheo, đang khi đối với Tỳ-kheo-ni phạm giới phải hội đủ 20 Tỳ-kheo và 20 Tỳ-kheo-ni làm yết-ma hết tội (出罪羯磨).

Hối lỗi (P. patidesemi, S. deśayitavya, 悔過): Thường được dịch là “hối quá” (悔過), hay “tự ưng phát lồ” (自應發露), gồm 4 lỗi đối với Tăng và 8 lỗi đối với Ni. Tỳ-kheo nào vi phạm phải tự nói lỗi trước Tỳ-kheo đồng tu để được thứ lỗi và làm mới.

Tội ác ngữ (P. dubbhāsita, S. dukkaṭa, 惡語): Còn gọi là “ác thuyết” (悪説), “ác khẩu” (惡口), “hoại thoại” (壞話), tiếng Anh thường dịch là “wrong speech” có nghĩa là “lời sai lầm” gồm những lời nói xấu, mắng nhiếc, thuộc loại tội nhẹ (輕罪).

Tội chưa xác định (P=S. aniyata, 不定): Chỉ áp dụng đối với Tăng (Tỳ-kheo-ni không có giới này), gồm hai trường hợp. Trường hợp 1, Tăng sĩ ngồi một mình với phụ nữ ở chỗ khuất, có thể hành dâm, nhưng chưa thể xác định giới đã phạm, cho đến khi có người rất đáng tin cậy (住信優婆夷, trụ tín Ưu-bà-di, nữ cư sĩ rất đáng tin cậy), tố giác khả tín, làm chứng thuyết phục rằng thầy ấy vi phạm một trong ba tội, hoặc tội trục xuất, hoặc tội Tăng tàn, hoặc tội xả vật. Chính Tăng sĩ đó thú nhận mình phạm một trong ba tội trên. Trường hợp 2, Tăng sĩ ngồi một mình với phụ nữ ở chỗ trống, không thể hành dâm, nói lời thô tục. Việc này bị người rất đáng tin cậy như trên tố giác thầy ấy phạm một trong hai tội, hoặc tội Tăng tàn, hoặc tội xả vật. Chính Tăng sĩ đó thú nhận mình phạm một trong hai tội. Trên thực tế, nam cư sĩ rất đáng tin cậy cũng có thể làm việc tố giáctương tự. Theo Sớ giải Luật tạng (Vin-A.632), người đáng tin cậy (dù cư sĩ nữ hay cư sĩ nam) là người đã chứng quảdự lưu và hiểu trọn vẹn bốn chân lý thánh. Do vậy, lời tố giác của nữ cư sĩ này được hiểu không phải lời vu cáo.

Tội đột-kiết-la (P. dukkaṭa, S. duṣkṛta, 突吉羅): Thường được dịch là “ác tác” (惡作) hay “ác hanh” (惡行) tức làm các hành vi xấu, không phù hợp với phẩm hạnh Tỳ-kheo.

Tội sám hối (P. pācittiya, S. pāyantika, 懺悔): Thường phiên âm là “Ba-dật-đề” (波逸提), “Ba-dật-để-ca” (波逸底迦), “Ba-dạ-đề” (波夜提) và được dịch là “đơn đọa” (單墮) hay “ưng đối trị” (應 對治) gồm có 90 lỗi nhỏ đối với Tăng và 178 lỗi nhỏ đối với Ni. Ai vi phạm các điều giới này chỉ cần sám hối trước Tỳ-kheo khác là hết tội.

Tội Tăng tàn (P. Saṅghādisesa, S. Saṃghāvaśeṣa, 僧残): Thường phiên âm là “Tăng-già-bà-thi-sa” (僧伽婆尸沙) gồm 13 tội (đối với Tăng) và 17 tội nặng (đối với Ni), trong đó, 9 giới đầu, hễ phạm là thành tội, còn các giới sau, sau ba lần khuyên mà không buông bỏ, mới tính phạm tội. Bất kỳ vị nào phạm vào tội Tăng tàn chính là làm cho tư cách Tăng sĩ của mình bị tàn phế (tàn mệnh, 殘命) hoặc “tàn khuyết bất toàn” (殘缺不全), tức bị sứt mẻ, không còn trọn vẹn phẩm chất Tỳ-kheo-ni. 13 giới Tăng tàn của Tăng bao gồm: (i) thủ dâm xuất tinh, (ii) chạm thân người nữ, (iii) nói lời dâm dục, (iv) đòi cúng hành dâm, (v) làm người se duyên, (vi) làm nhà quá lớn, (vii) không chỉ chỗ xây, (viii) vu khống, xuyên tạc, (ix) phỉ báng một chiều, (x) phá hòa hợp Tăng, (xi) giúp phá Tăng đoàn, (xii) hoen ố, việc ác, (xiii) ương ngạnh không nghe. Bên Tỳ-kheoni có thêm các giới sau đây: (xiv) cùng người làm ác, (xv) khuyên đừng tách chúng, (xvi) bỏ ba ngôi báu, (xvii) cho rằng Ni đoàn còn si mê. Muốn phục hồitư cách Tăng sĩ, Tỳ-kheo-ni phạm giớiTăng tàn phải bị phạt sống biệt trú bằng với thời gianphạm giới này, chịu phép ý hỷ (mānatta, 意喜) trong sáu ngày để chứng minh sự tiến bộ của bản thân. Phép làm xóa tội, Tỳ-kheo phải có sự chứng minh của 20 vị Tỳ-kheo, đang khi Tỳ-kheo-ni phải có 20 vị Tỳ-kheo, cùng với 20 Tỳ-kheo-ni mới được xem là hợp lệ.

Tội thâu-lan-giá (P. thullaccaya, S. sthūlātyaya, 偷蘭遮): Tội thô (粗罪) hay tội nặng (罪重, grave offence), chỉ đứng sau tội trục xuất và tội Tăng tàn về mức độ nghiêm trọng.

Tội trục xuất (P=S. pārājika, 驅擯, defeat): Thường phiên âm là “Ba-la-di” (波羅夷), thường dịch là “cực ác” (極惡), “chặt đầu” (đoạn đầu, 斷頭), “vứt bỏ” (khí vô dư, 棄無餘), gồm bốn điều giới nặng nhất, theo đó, Tăng sĩ vi phạm sẽ bị trục xuất trọn đời khỏi Tăng đoàn (expulsion from the  sangha  for life) và không còn cơ hội phục hồitư cách Tăng sĩ nữa. Bên Tăng có 4 giới, đang khi bên Ni có 8 giới trục xuất bao gồm: (i) Quan hệ tình dục với người hoặc động vật, (ii) Trộm cắptài sản, (iii) Giết người, xúi giục, đồng lõa, ủng hộ giết người, (iv) Tuyên bố lừa dối rằng mình là thánh nhân, chứng đắcthiền định, (v) Tiếp xúc cơ thể người nam, (vi) Cho người nam chạm cơ thể, (vii) Che giấu đồng tu phạm tội trục xuất, (viii) Đi theo thầy Tăng bị tố giác.

Tội xả vật (P. nissaggiya pācittiya, S. niḥsargika-pāyantika): Thường phiên âm là “Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề” (尼薩耆波逸提) được dịch là “xả đọa” (捨墮) trong Hán tạng hay “ưng xả đối trị” (應捨 對治) trong luật Nam tông. Một số dịch giả Trung văn dịch là “xả sám” (捨懺), tức buông bỏ đồ vật vi phạmsám hối với Tỳ-kheo khác để được thanh tịnh. Bên Tăng và bên Ni đều có 30 điều gần giống nhau. Tăng sĩ nào vi phạm 1/30 điều giới này thì các vật dụng không được phép giữ hoặc giữ sai phép sẽ bị Tăng đoàn tịch thu (forfeiture) tức phải xả bỏ các vật dụng (捨), đồng thời phải sám hối lỗi này với Tỳ-kheo khác.

Tự tứ (P. pavāraṇā, S. pravāraṇā, 自恣): Thỉnh cầu (pavāreti, 邀請) chỉ lỗi (非) giữa các thành viên Tăng đoàn trong ngày kết thúcan cư mùa mưa (雨安居) để giúp Tăng đoàngiữ giớithanh tịnh, hòa hợp, tiến bộ trong học Phật và tu Phật

Xả giới (捨戒): Bỏ các giới đã tiếp nhận (捨棄所受的戒), còn gọi là “xả giới hoàn tục” (捨戒還俗), có nghĩa là “bỏ giới Tăng sĩ làm người tại gia”. Có hai trường hợp xả giới. Trường hợp thứ nhất là người xả giới do không muốn tu nữa nên tình nguyện xả giới, trở vềđời sốngtại gia; đến thời điểm đó hoàn toàn không hề phạm giới trục xuất hay Tăng tàn. Trường hợp thứ hai là người phạm tội trục xuất nên bị Tăng đoàn buộc phải xả giới, vĩnh viễn mất tư cách làm Tăng sĩ.

Ý hỷ (P. mānatta, S. mānatva, 意喜): Thường được phiên âm là “ma-na-đỏa” (摩那埵), là hình thức phạt Tỳ-kheo phạm giớiTăng tàn, sau hình phạt “không được sống chung với Tăng đoàn” (biệt trú, 別住) phải nỗ lực tự hối lỗi, ít nhất trong 6 ngày để chứng minh sự tiến bộ, theo đó, 20 thành viên Tỳ-kheo (đối với Tăng) và bao gồm 20 Tỳ-kheo cộng với 20 Tỳ-kheo-ni (đối với Ni) hoan hỷ, làm lễ xóa tội.

Để giúp độc giảdễ hiểu các thuật ngữgiới luậtPhật giáo, tôi dùng các khái niệm đã được Việt hóa, hoặc các khái niệm hiện đại để thay thế các thuật ngữ luật học Phật giáo bằng Hán cổ. Về một số thuật ngữ luật học quan trọng khác, tôi dịch mới các từ Hán cổ để độc giảdễ hiểu hơn: “điều khoản giới luật”, hay “giới khoản” thay cho “Ba-la-đề-mộc-xoa giới” (波羅提木叉戒), “đọc giới” thay cho thuyết giớihay nói giới (說戒), “biểu quyết Tăng đoàn” thay cho “yết-ma” hay “kiết-ma” (羯磨), “gửi nguyện vọng” thay cho “gửi dục” (說欲), “dạy khuyên” thay cho “giáo giới” (教誡), “truyền giới” (授戒, chữ giới có bộ thủ bên trái) thay cho “thụ giới”, “xóa tội” (出罪) thay cho “xuất tội”, “chủ đề” thay cho “kiền-độ” (犍 度), “làm hài lòng Tăng đoàn” thay cho “ma-na-đỏa” (摩那埵) và nhiều từ khác trong sách này.

***

Các Thức-xoa thân mến! Các con đã phát tâmxuất gia với niềm tin chân chánh, trải qua những năm tháng làm Sa-di-ni với lý tưởng cao quý. Thầy tin rằng các con sẽ thành công trong hai năm tu tậpgiới pháp Thức-xoa để khi tròn 20 tuổi, các con hội đủ điều kiện thọ giớiCụ túc, chính thứctrở thành Tỳ-kheo-ni. Từ đó, trên nền tảng giữ gìngiới hạnh thanh cao, thực tậpthiền định, phát triển trí tuệ, các con sẽ trở thành các vị xuất gia hữu ích cho mình và có giá trị cho đời, xứng đáng làm bậc thầy tinh thần của người tại gia, giúp mọi ngườivượt qua nỗi khổ niềm đau, trải nghiệm an vui và hạnh phúc.

Để giúp hơn 20.000 thành viên Ni đoàn trên toàn quốc có dịp sử dụngGiới bổn này trong những ngày bố-tát tại các chùa, Quỹ Đạo Phật Ngày Nay của chùa Giác Ngộ ấn tống hàng chục ngàn quyển Giới bổn này. Quý tôn đức tổ chức các Đại giới đàn tại 63 tỉnh thành cũng như Trụ trì các chùa và quý Tăng sĩ muốn có sách ấn tống này, vui lòngliên lạc với chùa Giác Ngộ theo địa chỉ bìa sách.

Để hoàn thành ấn phẩm này, tôi tán dươngtri ânđệ tử của tôi là Ngộ Tánh Hạnh đã tận tụy trợ giúp tôi trong việc đối chiếu, dò bản. Cảm ơn TT. Giác Hoàng đã đọc bản thảo và chỉnh sửa chính tả. Tôi tán dương các Phật tử đã phát tâmcúng dường để ấn bản này được phổ biếnrộng rãi trong nước và nước ngoài, giúp quý Tăng sĩ giữ gìngiới luật, tu tập hạnh Thánh, trở thành các vị chân sưgiá trị và hữu ích qua sứ mệnh: “Phụng sự nhân sinh, tốt đời đẹp đạo” và “Sáng soi đạo pháp, hộ quốc an dân.”

Xin hồi hướng công đức của việc ấn tống quyển Giới bổn Thứcxoa này đến sự thanh tịnh, hòa hợp và lớn mạnh của Ni đoàn Phật giáo tại Việt Nam và trên toàn cầu, nhờ đó, Phật giáo được hưng thịnh, góp phần mang lại phúc lợian lạc cho con người.

Ngày 02 tháng 6 năm 2021

THÍCH NHẬT TỪ 

___________

1. Xem chi tiết trong hai sách sau đây: (i) Thích Nhật Từ, Giới Sa-di, oai nghi, luật nghi và lời khuyến tu của tổ Quy Sơn. NXB. Hồng Đức, 2021, (ii) Thích Nhật Từ, Giới Sa-di-ni, oai nghi, luật nghi và lời khuyến tu của tổ Quy Sơn. NXB. Hồng Đức, 2021.

2. Ấn Độ cổ đại có tục tảo hôn (早婚) đối với các cháu gái từ 12 tuổi.

3. Nguyên tác chữ Hán [truy cập ngày 19/5/21]: http://tripitaka.cbeta.org/X40n0725_001

gioi bon thuc xoapdf_download_2
Giới Bổn Thức-Xoa Của Luật Tứ Phần

.