Tự Tánh Khởi Dụng

TỰ TÁNH KHỞI DỤNG
(Lục Tổ Huệ Năng)
Nguyễn Thế Đăng

 

luc to hue nangluc to hue nangCon người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩthấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém. Con người chính là ý nghĩ của nó, vì trước khi hành động phải có ý nghĩ.

Ý nghĩ, chữ Hán, là Niệm. Tất cả các tông pháiPhật giáo đều có những phương pháp để đối trị với những ý nghĩ, những niệm xấu kéo con người xuống, và nuôi dưỡng những ý nghĩ tốt để làm con ngườitiến bộ. Nhưng những đối trị, “nhổ gốc”, chuyển hóa các ý nghĩ, muốn thật sự hiệu nghiệm, phải làm việc ở tận nguồn gốc, nền tảng của các ý nghĩ, các niệm, tức là làm việc ở tâm, ở bản tâm. Các tông phái cao cấp thì làm việc trực tiếp ở bản tâm, như Thiền, Đại Toàn Thiện (Dzogchen), Đại Ấn (Mahamudra)…

 

Để chỉ bản tâm, bản tánh của tâm, Lục Tổ Huệ Năng dùng nhiều nhất là chữ “Tự tánh” – Tự tánhtánh Không, và tánh Không này là bản tánh của con người và của tất cả các sự vật, tất cả các pháp.

Sao gọi là Ma ha? Ma ha là lớn, tâm lượng rộng lớn như hư không, không có biên bờ, cũng không vuông tròn lớn nhỏ, chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, cũng không giận, vui, phải trái, lành dữ, không đầu không cuối. Các cõi Phật đồng như hư không. Diệu tánh của người đời vốn Không, không có pháp nào có thể đắc. Tự tánhChân Không cũng lại như vậy”.

(Phẩm Trí Huệ)

Tự tánhchân không này cũng gọi là “Phật tánh”, “tự tánh Bát nhã (Trí huệ)”, “Trí Bát nhã giác ngộ”. “Tự tánh Bát nhã” nghĩa là tự tánh chính là Trí huệ.

Các thiện tri thức! Trí Bát nhãgiác ngộ, người đời đều vốn tự có, chỉ duyên theo tâm mê nên chẳng thể tự ngộ. Phải nhờ đại thiện tri thứcchỉ dẫn cho thì được thấy tánh. Hãy biết, người ngu kẻ trí Phật tánh vốn không sai khác, chỉ do mê ngộ chẳng đồng mà có ngu có trí”.

(Phẩm Trí Huệ)

Tự tánh hay bản tánh của tâm là tâm Phật, là Pháp thân.

Hãy đến đây, các thiện tri thức! Sự này phải từ trong tự tánh khởi ra. Trong tất cả thời gian, niệm niệm tự tịnh tâm mình, tự tu tự hành, thấy Pháp thân chính mình, thấy tâm Phật của mình, tự độ tự giới, mới chẳng uổng công đến đây”.

(Phẩm Sám Hối)

Tự tánh đầy đủ cả ba thân, Pháp thân, Báo thân, và Hóa thân.

Thiện tri thức! Sắc thân là nhà trọ, không thể nói quy hướng vào đó được. Phật ba thân ở trong tự tánh mình, người đời đều có. Chỉ vì tự tâm mê chẳng thấy tánh ở trong, mà lại tìm ba thânNhư Lai ở ngoài, thành ra chẳng thấy trong thân mình có Phật ba thân. Các ông nghe giảng, khiến các ông trong thân mình thấy tự tánh mình có Phật ba thân. Phật ba thân ấy từ tự tánh mình sanh, chẳng do ở ngoài mà được”.

(Phẩm Sám Hối)

Tự tánh chính là Chân Như:

Niệm là niệm bản tánhChân Như, Chân Như là thể của niệm, niệm là dụng của Chân Như.

Tự tánhChân Như khởi niệm, chẳng phải mắt tai mũi lưỡi có thể niệm được. Chân Như có tánh do đó mới có niệm khởi. Nếu Chân Như không có thì mắt tai sắc thanh liền tiêu hoại ngay

(Phẩm Định Huệ).

tự tánhtánh Không, là Phật tánh, là tâm Phật, là Pháp thân, là Chân Như nên tự tánh vốn thanh tịnh:

Sao gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật? Người đời tánh vốn thanh tịnh. Muôn pháp đều tự tánh sanh”.

(Phẩm Sám Hối)

Kinh Bồ tát giới nói: tự tánh mình bổn nguyên thanh tịnh. Thiện tri thức! Trong niệm niệm, tự thấy bản tánhthanh tịnh, tự tu tự hành, tự thành Phật đạo”.

(Phẩm Ngồi Thiền).

 

Tự tánhChân Như này “người đời đều vốn tự có, người đời tánh vốn thanh tịnh”, thế thì tại sao lại có sanh tử, khổ đau? Bởi vì sử dụngsai lầm các niệm, các ý tưởng, khiến tạo ra các phiền não, trần lao, che lấpbản tánhthanh tịnh.

Pháp mônngồi thiền này, nguyên chẳng dựa bám nơi tâm, cũng chẳng dựa bám nơi tịnh, mà cũng chẳng phải là chẳng động. Nếu nói dựa nơi tâm thì tâm nguyên là vọng; biết tâm như huyễn nên không có chỗ dựa bám. Nếu nói dựa vào tịnh thì tánh người vốn tịnh. Chỉ bởi vọng niệmche lấpbản tánhChân Như. Chỉ khôngvọng tưởng thì tánh tự thanh tịnh. Nếu khởi tâm dựa bám vào tịnh thì lại sanh ra cái vọng về sự thanh tịnh. Vọng không có xứ sở, thế mà dựa bám thì đó là vọng. Tịnh khônghình tướng, thế mà lập ra tướng tịnh, gọi đó là công phu. Thấy hiểu như thế làm che chướng bản tánh mình, lại bị cái tịnh trói buộc”.

Thực hành là thấy được tự tánh và an trụ trong tự tánh, chẳng bị ngu mê, kiêu căng, ghen ghét làm nhiễm ô.

Các đệ tử, từ niệm trước, niệm nay đến niệm sau, niệm niệm chẳng bị ngu mê nhiễm. Bao nhiêu nghiệp xấu ngu mê các tội đã khởi từ trước thảy đều sám hối, nguyện nhất thờitiêu diệt, vĩnh viễn chẳng khởi lại.

Các đệ tử, từ niệm trước, niệm nay đến niệm sau, niệm niệm chẳng bị kiêu căng dối lừa nhiễm. Bao nhiêu nghiệp xấu kiêu căng dối lừa các tội đã khởi từ trước thảy đều sám hối, nguyện nhất thờitiêu diệt, vĩnh viễn chẳng khởi lại.

Các đệ tử, từ niệm trước, niệm nay đến niệm sau, niệm niệm chẳng bị ghen ghét nhiễm. Bao nhiêu nghiệp xấu ghen ghét các tội đã khởi từ trước thảy đều sám hối, nguyện nhất thờitiêu diệt, vĩnh viễn chẳng khởi lại”.

(Phẩm Sám Hối)

Ngu mê là nghĩ tưởngphân biệt chủ thể – khách thể, ta – người, ta – thế giới, đây – kia…, từ đó sanh ra các phiền nãokiêu căng, dối lừa, ghen ghét. Tất cả những cái đó làm ô nhiễm, che lấptự tánhChân Như. Sám hốichừa bỏ lỗi cũ, không tạo ra lỗi mới, và an trụ trong tự tánh vốn thanh tịnh, chưa từng bị nhiễm ô.

Chữ “niệm niệm” nói lên thiền định là một dòng tương tụcthanh tịnh, và chính dòng tương tụcthanh tịnh không bị ô nhiễm này thể nghiệm được “tự tánh mình bổn nguyên thanh tịnh”.

 

Con người vốn là và vốn ở trong tự tánhPháp thân thanh tịnh, chỉ vì khởi sanh và sử dụng các niệm, các ý nghĩsai lầm, xấu ác mà thành các nẻo đường xấu ác và khởi sanh sử dụng các niệm thiện thì sanh vào các nẻo đường tốt lành.

Sao gọi là thanh tịnh pháp thân Phật? Người đời tánh vốn thanh tịnh. Muôn pháp đều từ tự tánh sanh: nghĩ lường tất cả sự ác bèn sanh hạnh ác, nghĩ lường các tất cả sự thiện bèn sanh hạnh thiện. Như vậy các pháp ở trong tự tánh mình, như trời thường trong, mặt trờimặt trăng thường sáng, nhưng vì mây bay che lấp nên trên sáng dưới tối. Bỗng gặp gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng, muôn hình tượng đều hiện. Tâm thức người đời thường phù du, như mây trên trời kia.

Thiện tri thức! Trí như mặt trời, huệ như mặt trăng. Trí huệ thường sáng, do vì ở ngoài bám cảnh nên bị đám mâyvọng niệmche khuấttự tánh mà thấy chẳng sáng tỏ.

Nếu gặp thiện tri thức, nghe đượcpháp chân chánh, tự trừ mê vọng thì trong ngoài sáng suốt, trong tự tánh mình muôn pháp đều hiện. Người thấy tánh cũng giống như vậy. Đây gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật”.

(Phẩm Sám Hối)

Tự tánhPháp thân thanh tịnh, ai ai đều có và đều sống trong ấy. Nhưng do vì khởi vọng niệmphân biệt, nghĩ lường đủ thứ thiện ác mà thành ra cõi đời thiện ác như những đám mâyche khuấttự tánhPháp thân.

Tự tánhPháp thân thanh tịnh là nền tảng mà người nào cũng có và đang sống trong đó. Nếu khởi vọng tưởng rồi theo đó thì đi vàosanh tử, còn niệm niệmthường hànhtrí huệ, không phân biệt chủ – khách, ta – người, tâm – cảnh rồi sanh ra đủ thứ phiền não thì đây chính là chân tánhPháp thân, “trong tự tánh mình muôn pháp đều hiện”.

Thiện tri thức! Người mê chỉ miệng niệm, đang lúc niệm có vọng, có trái (phi: chẳng phải). Còn niệm niệmthường hànhtrí huệ, đó gọi là chân tánh. Ngộ được pháp này tức là pháp Bát nhã, tu được hạnh này tức là hạnh Bát nhã. Chẳng tu là phàm, một niệm tu hành thì tự thân đồng như Phật.

Thiện tri thức! Phàm phu tức là Phật, phiền não tức là Bồ đề. Niệm trước mê tức là phàm phu, niệm sau ngộ tức là Phật. Niệm trước bám cảnh tức là phiền não, niệm sau lìa cảnh tức là Bồ đề”.

(Phẩm Trí Huệ)

Con người luôn luôn là chân tánh, ở trong trong chân tánh, chỉ vì một niệm mê mờ, nghịch với sự “thường hành trí huệ” mà lọt ra ngoài, lạc lỏng trong sanh tử do mình tự tạo. Chính sự quyết định của một niệm này mà sanh tử hoặc Niết bàntức thờihiện diện. Đây là một trong những lý doLục Tổ gọi pháp của ngài là Đốn giáo (Phẩm Hành Do, Phẩm Trí Huệ). Đốn giáo là thấy tự tánh vốn sẵn có nơi mình và y trên nền tảng tự tánh ấy mà tu, mà hành.

 

Khi tất cả các niệm, các ý tưởng, dù tốt dù xấu, đều sanh khởi từ tự tánhChân Không, tự tánhChân Như thì niệm hay ý tưởngbản chất là thế nào? Các niệm hay các ý tưởng đều sanh khởihiện hữu rồi tan biến trong tự tánhChân Không, tự tánhChân Như nên bản tánh của tất cả các niệm đều là tự tánhChân Không, tự tánhChân Như. Thế nên với người đã chứng ngộ được tự tánhChân Không, tự tánhChân Như thì các niệm là sự biểu lộ của tánh Không – tánh Như, nên các niệm vốn tự giải thoát lấy chính chúng.

Sao gọi là Ngàn Trăm Ức Hóa thân? Nếu chẳng nghĩ muôn pháp thì tánh vốn như hư không. Một niệm nghĩ lường, gọi là biến hóa. Nghĩ lường việc ác thì hóa làm địa ngục, nghĩ lường việc tốt thì hóa làm thiên đường, độc hại hóa làm rồng rắn, từ bi hóa làm Bồ tát, trí huệ hóa làm cõi trên, ngu si hóa làm phương dưới. Tánh mình biến hóa rất nhiều, người mê chẳng thể tỉnh giác, niệm niệm khởi ác, thường hành đường ác. Xoay về một niệm thiện thì trí huệ liền sanh, ấy gọi là Tự tánhHóa thân Phật”.

(Phẩm Sám Hối)

Tất cả các niệm là Hóa thân của Pháp thântự tánhChân Không, tự tánhChân Như. Cho nên “tánh mình biến hóa rất nhiều”, với người không tỉnh giác thì thành ra ba cõisáu đường. Với người đã thấu đạt tự tánhChân Không, tự tánhChân Như thì tất cả các niệm biến hóa đều là Chân Không, Chân Như. Lục Tổ không nói Hóa thân, mà nói “Tự tánh Hóa thân Phật”, nghĩa là mọi hóa thân, mọi biến hóa đều từ Tự tánh Phật, nên mọi biến hóa đều là của Tự tánh Phật, “thanh tịnh đến vô dư” (bài kệ trong Phẩm Trí Huệ).

Khi ấy “niệm niệm tròn sáng, tự thấy tánh bản tánh. Thiện ác tuy khác nhau, nhưng bản tánh không hai, tánh không hai gọi là thật tánh. Trong thật tánh chẳng nhiễm thiện ác, đây gọi là Viên mãn Báo thân Phật. Thẳng đến Giác ngộvô thượng, niệm niệm tự thấy, chẳng mất bổn niệm, gọi là Báo thân” (Phẩm Sám Hối).

Khi niệm niệm tròn sáng thì “trong ngoài sáng suốt, muôn pháp đều hiện. Người thấy tánh cũng giống như vậy” (phần nói về Thanh tịnh Pháp thân Phật).

Khi niệm niệm tròn sáng, muôn pháp đều hiện, thì “tánh, tướng như như”, nghĩa là tánh, tướng là Chân Như.

Khi tâm ông như hư không mà chẳng bám vào cái thấy không, ứng dụngvô ngại, động tịnh đều vô tâm, tình phàm thánh dứt, năng sở đều hết, tánh tướngnhư như, thì không lúc nào chẳng định” (Phẩm Cơ Duyên).

 

Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, chữ “dụng” được dùng nhiều, như câu trên “ứng dụng vô ngại”. Vậy thì dụng là gì? “Chân Như là thể của niệm, niệm là dụng của Chân Như”. Các ý nghĩ, ý tưởng đều là dụng của Chân Như, khi biết rằng chúng đều phát sanh, hiển xuất từ tự tánhChân Như.

Lục Tổ dùng nhiều thành ngữ “chân tánh tự dụng” (Phẩm Trí Huệ), “tự tánh Chân Như khởi niệm” (Phẩm Định Huệ), “tự tánh động dụng” (Phẩm Phó Chúc), “tự tánh khởi dụng” (Phẩm Phó Chúc)…

Phải biết tất cả muôn pháp đều từ tự tánh khởi dụng, ấy là giới định huệchân thật” (Phẩm Đốn Tiệm).

Tự tánhbao gồmvạn pháp, gọi là Hàm tàng thức. Nếu khởi suy nghĩ tức là chuyển thức, sanh ra sáu thức, ra sáu cửa, thấy sáu trần. Mười tám giới như vậy đều từ tự tánh khởi dụng…Tự tánh động dụng, ngoài thì giao tiếp nói năng, trong thì ở nơi không mà lìa không” (Phẩm Phó Chúc).

Tất cả các pháp, tất cả các niệm đều là sự khởi dụng của tự tánh, chúng chính là sự biểu lộ của tự tánhChân Không, tự tánhChân Như, tự tánhTrí huệ.

Khi được Ngũ Tổgiảng KinhKim Cương ngài Huệ Năngđại ngộ, rồi nói bài kệtrước mặt Tổ:

Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,

Nào ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt,

Nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,

Nào ngờ tự tánh vốn không động lay,

Nào ngờ tự tánh sanh ra muôn pháp.

“Nào ngờ tự tánh sanh ra muôn pháp” chính là “tự tánh khởi dụng”.

Pháp môn đây từ một Bát nhã sanh ra tám vạn bốn ngàn trí huệ. Tại sao thế? Vì người đời có tám vạn bốn ngàn trần lao. Nếu khôngtrần lao thì trí huệ thường hiển hiện, chẳng lìa tự tánh”.

(Phẩm Trí Huệ)

Như thế, tất cả các pháp, các niệm từ tự tánh khởi dụng sanh ra đều là trí huệ. Không còn bóng dángtrần laophiền não đâu cả.

Chân Không khởi dụng thành Chân Không, Chân Như khởi dụng thành Chân Như, Pháp thân khởi dụng thành Pháp thân, Trí huệ khởi dụng thành Trí huệ, và sự khởi dụng ấy là vô số, không thể tính đếm, nên Lục Tổ nói là “diệu dụng như số cát sông Hằng” (Lục Tổ nói cho Tiết Giản, Phẩm Hộ Pháp).

 

Tóm lại nhờ tự tánh khởi dụng mà sanh tử chuyển thành Niết bàn, phiền não chuyển thành Bồ đề (Giác ngộ) và vũ trụchúng sanh chuyển thành pháp giới của chư Phật.