VIÊN NGỌC MINH CHÂU
TKN Thích Nữ Chân Liễu
Các vị Tổ khi
xưa tu đắc đạo nhưng thân còn tại thế. Vì muốn hóa độ dễ dàng hơn, các Ngài
thường vẽ ra hình tượng các vị Bồ Tát, để diễn tả các pháp tu, để khuyên dạy và
giáo hóachúng sanh. Người thế gian nếu chấp những hình tượngBồ Tát đều là
linh tượng, thánh tượng theo thần quyền, có thể ban phướcgiáng họa, cầu nguyệnvan xin, thì không lợi ích gì cho con đường tu tậpbản thân. Chẳng những vậy,
điều cố chấp này còn làm cho con ngườiyếu hèn, sanh tâm ỷ lại, thêm tâm ích
kỷ, ham muốn lợi riêng cho bản thân mình, gia đình mình. Rồi từ đó, con người
sống cuộc đời với tâm tranh chấp hơn thua, đấu tranh và đau khổtriền miên.
Khi vô thường
đến cướp mất người thân yêu, hay là chính bản thân đứng trước cửa tử, lúc bấy
giờ tâm con ngườibất an, đau đớn, hoảng loạn, kêu cứu, giờ phút đó không biết
rơi vào cảnh giới xấu tốt nào, địa ngục hay thiên đàng, Phật ở đâu, Bồ Tát ở
đâu, sao không thấy? Làm sao giữ được bình tĩnh để ra đi an lành trong giờ phút
đó? Câu hỏi này chúng tacần phải tìm cho được giải đáp ngay bây giờ, trong lúc
thần thức còn sáng suốt, tâm trí còn ổn định. Sanh tử sự đại. Đó mới là sự cần
thiết quan trọng bậc nhất.
Trong các
chùa chiền, tự viện, tu viện, tôn tượngtrang nghiêm được an trí bên cạnh Đức
Phật Bổn Sư Thích Ca, vị Bồ Tát thân đắp cà sa, hình tướng một vị tăng xuất
thế, tay phải cầm tích trượng, tay trái nâng viên ngọc minh châu tỏa sáng. Đó
là hình ảnhtôn tượngđại bi, đại nguyện, đại thánh, đại từ, bổn tôn Địa Tạng
Vương Bồ Tát. Ngài phát đại nguyện: Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật.Tâm
nguyệnBồ Tát không muốn an hưởngNiết Bàn khi thấy chúng sanh còn quá nhiều
đau khổ.
Địa: sâu dầy, chắc cứng, kiên cố, sâu kín,
tối tăm.
Tạng: chứa đầy đủ, không hạn định, không đo
lường.
Trong đạo
Phật, Địa Tạng hàm ý đại địabao la, tượng trưng cho tạng thức và căn tánhcon
người có thể dung chứa tất cả thiện ác, tốt xấu, có chân thật, có giả dối. Tâm
con người có địa ngục và tâm con người cũng có niết bàn.
Tinh
thần mạnh mẽ vô úy, lý tưởngvị tha của một vị hình tướngxuất gia, luôn dấn
thân để cứu độchúng sanh đang chịu khổ cảnhđịa ngụckinh hoàng bởi vô minh.
Hình ảnh thân đắp cà sa, gương mặt đôn hậu từ ái, lòng đại từ đại bi cao cả, là
tấm gương sáng cho tất cả chúng sanh, tượng trưng cho “Tăng Bảo”, một trong ba
ngôi tam bảo quí hiếm. Tăng bảo là người tu xuất gia, là kho chứa châu báudiệu
pháp, mồi ngọn đuốc từ bitrí tuệ nơi Đức Thế Tôn, đem lợi lạc cho chúng sinh,
mở sáng trí tuệ cho người tu học Phật.
Mặc
dù sống trong nhà phiền não, nhưng người xuất thế tục gia được người đời tin
tưởng, là bậc thầy chỉ đườngvượt qua rừng u minh tăm tối. Tâm từ bi độ lượngbao dung của người tu, như thửa ruộng hạnh phúc an vui cho cuộc đời. Những lời thuyết pháp của Tăng bảo có sức mãnh liệt
phá tan những vọng tâm, vọng tưởng sâu kín tận trong tâm thức của những người
đang mê ngủ với thú vui tạm bợ, làm cho họ thức tỉnh.
Thân
đắp cà sa có ý nghĩakham nhẫn, sống đời phạm hạnhthanh tịnh và còn là sức
mạnh của giới pháp, ngăn ngừa những tội lỗi của ác pháp. Chiếc áo cà sache chở
cho người tu trong cuộc sống xã hội đầy tham vọng, sân hận và si mê. Người xuất
thế tục gia có nghị lực mạnh mẽ phát triển các thiện pháp, tự giải thoát cho
bản thân, phát tâm hạnh Bồ Tát vì người, không phải chuyện dễ dàng ai cũng làm
được.
Trong
37 phẩm trợ đạo, đức Phật dạy người tu cần phải có sức mạnh của Ngũ Căn (Tín,
Tấn, Niệm, Định, Tuệ), gọi là “Ngũ Lực”
gồm có:
1. Tín Lực:Sức mạnh của sự tin tưởng
vào chánh phápkhông
thối chuyển.
2. Tấn Lực:Sức mạnh của sự tinh tấn,
quyết tâmthành
tựuphạm hạnh trên đường tu.
3. Niệm Lực:
Sức mạnh
của tâm niệm, luôn ghi nhớ xa
rời điều ác, giữ giớitrong sạch.
4. Định Lực:
Sức mạnh
của sự quánsát tâm và tập trung vào
thiền định, an nhiêntự tại.
5. Tuệ Lực: Sức mạnh của sự sáng suốt,
trí tuệ mạnh mẽ đi
đến bờ giác ngộ.
Tu
là ở nơi nội tâm có chánh tínsáng suốt và tư duythanh tịnh, không phải ở hình
tướng bên ngoài. Con người dù thân còn tại gia nhưng tâm xuất gia đều có thể
thực hành “Ngũ Lực” mạnh mẽ và phát hạnh nguyệnBồ Tát như người xuất giađắp ygiải thoát vậy.
Tu là noi
theo hạnh nguyệnBồ Tát Địa Tạng, thấy được trong tâm địacon người có nghiệp
lành, có nghiệp dữ, có tốt có xấu, có địa ngục, có niết bàn và có tự tâmtự
tánh “Tăng Bảo” thanh tịnh. Từ đó có thể tự tu, tự giácngộ giải thoát cho
chính bản thân và mọi ngườihữu duyên, như hạnh nguyện của người xuất giađắp ygiải thoát vậy.
Người biết
cách tu, phải tự lực, tự giác ngộ, tự chuyển đổitâm địa của chính bản thân,
đến khi hoàn toàn không một tạp niệm nào sinh khởi nữa, tức là địa ngục đã
trống không, lúc đó được giải thoát.
Đó chính là Tự Tánh “Tăng Bảo” thanh tịnh, mà ai ai
cũng có.
PHÁ CỬA ĐỊA NGỤC: CHÁNH PHÁP (TỰ TÁNHPHÁP BẢO – CHÂN CHÁNH)
Địa ngục
không nhất thiết khi con người chết đi
mới thấy, địa ngục ở ngay cõi đời ngũ trượcác thế. Địa ngục sanh ly tử biệt,
địa ngục tù giam cấm cố tra tấn, địa ngục bịnh hoạn, đau đớn, rên xiết. Thật là
quá nhiều địa ngục ngay trước mắt, con người phải chịu đền trả quả báo gây tạo
ra nhiều đời nhiều kiếp trong lục đạo luân hồi.
Bồ Tát Địa
Tạng tay cầm Tích Trượngbiểu dươngsức mạnh của Chánh Pháp.Năng lực của Tích
Trượng hay Thiền Trượng là tâm đại từ đại bi của Bồ Tát, dùng chánh phápchuyển
hóatâm địacon người đầy tham lam, hận thù, đố kỵ, si mêmù quáng có thể thức
tỉnh kịp thời. Như những cánh hoa sen nở thơm tho thanh khiết, kết tụ của sự giác
ngộgiải thoát, hoa sen đều từ gốc bùn tanh. Mục đích của người tu là phải có
chánh pháp, hiểu tận tường thấu đáo, thực hành đúng theo lời Phật dạy. Chánh
pháp chính là hiệu quả của “Tích Trượng phá cửa địa ngục”, là gậy vàng
đập tan gông cùm xiềng xích trói buộc của địa ngụcphiền nãođau khổ.
Xuất gia hay
tại gia đều có thể tự tu theo pháp “lục độ ba la mật”, trang nghiêmthân tướng
với bố thí, trì giới, kham nhẫn, tinh tấn, thiền định và trí tuệ, để đạt tự
tánh “Pháp Bảo” chân chánh. Từ đó phát sanh trí tuệ, phá vỡ cửa địa ngụcvô
minh nhiều kiếp luân hồi, tâm luôn hướng về Bồ Tát hạnh để cứu khổchúng sinh. Người
tu theo con đườngchân chính của Đức Phật chỉ dạy, sống trong chánh pháp được
an lạc hạnh phúc. Dù chưa thành Phật, chưa an hưởngniết bàn, nhưng ở mọi cảnh
giới đều có thể tự độ và độ tha như hạnh nguyệnBồ Tát Địa Tạng. Còn sống trên
đời, còn khỏe mạnh, con người nên dành nhiều thì giờ vào việc tu học, tự quán
sát, tự soi vào tâm địa chính bản thân, bởi vì Phật dạy thân người khó được và được
thân người là dễ tu nhất.
Trên đường tu
học đạo, con người thường phải trải qua nhiều chông gaithử thách. Nào trùng
độc, rắn dữ, cám dỗ của ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy), tiền của, sắc
đẹp, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ, ngày tháng rong chơi, ai nói gì cũng tin, ai
bảo làm gì cũng nghe theo. Những thứ tà pháp đó dẫn dắt con người lạc vào con
đườngtà đạo đầy bóng tối tội lỗi. Chánh pháp là cứu cánh tận diệt tội lỗi, dứt
trừ thói quen tạo nghiệp đua đòi và nhiều tật xấu tiềm ẩn trong kho tàng tâm
thứccon người. Khi hiểu tận tường giáo pháp trong kinh điển, thực hành và suy
ngẫm thấu đáo lời Phật dạy, chuyển hóatâm địasi mê sâu nặng trong tàng thức
và tâm ích kỷmù quáng, con ngườithức tỉnh kịp thời, đó là giải thoát.
Đức Phật dạy:
“Phải luôn luôn quán chiếunội tâm,
thúc liễm vọng tâmvọng thức để tự giác ngộ. Tâm làm chủ mọi hành động, mọi
nghiệp lực. Tâm là địa ngục, tâm cũng là niết bàn. Con người phải hứng chịu mọi
quả báoan lạc hay đau khổ do chính mình tạo ra. Chính tự thân mới có đủ năng
lực đưa mình ra khỏi địa ngụcđau khổ mà thôi”.
Địa Tạng là
tâm địa sâu kín chân thật của con người, khi thức tỉnh biết tàm quí, sám hốitội lỗi, chấm dứt nghiệp dữ. Chuyển hóa, sửa đổitâm niệm xấu ác thành thiện
lành chính là con đườnggiải thoát ra khỏi luân hồi, tam đồ ác đạo: địa ngục,
ngạ quỉ, súc sinh. Hiểu được đạo lý như vậy thì rất có lợi lạc cho việc tu
nhân, tích phước, kiệm đức, cứu người giúp đời. Người đời có thể che giấu được
tâm tốt hay xấu với người xung quanh, nhưng không gạt được tâm địa của chính
mình.
Nhận ra được
chân lý sống, con người biết dùng chánh pháp làm phương tiện thanh lọc những tư
tưởngô nhiễm bám vào tâm thức nhiều đời nhiều kiếp. Thực hànhlời Phật dạy,
suy tư và tinh tấn phát huy định lực tự thân, vững bước tu tậpcho đến khi đạt
đượcTự Tánh “Pháp Bảo” chân chánh,thân tâm được tự tạigiải thoát khỏi cảnh giớiđịa ngục.
CHÂU – TRÍ TUỆ (TỰ TÁNHPHẬT BẢO – SÁNG SUỐT)
Bồ
Tát Địa Tạng tay nâng viên ngọc Minh Châu, tượng trưng cho vật thể vô cùng quí
giá, ánh sáng của ngọc Minh Châu có thể soi sáng trong bóng tối vô minh. Hình
tượng Phật và Bồ Tát thường được diễn tả những tia hào quang, chiếu sáng xung
quanh đầu hay toàn thân,
chính là nghĩa đó.
Theo
kinh sách, ánh sáng mang ý nghĩa là trí tuệ cao tột và sự sáng suốtthanh tịnh
của những bậc giác ngộsiêu phàm, các vị chứng chánh đẳng chánh giác mới có
được. Chư Phật, Chư Bồ Tát và Chư Tổ đắc đạo được người đời tin tưởng, là bậc
thầy chỉ đường, cứu giúp con ngườivượt qua rừng u minh tăm tối. Con người nhờ
được chỉ dẫn, cố gắng tìm cho ra viên
ngọc Minh Châutượng trưng cho trí tuệsáng ngời của tự tâm.
Viên
ngọc Minh Châutiêu biểu cho Phật tánhsáng suốtbất sanhbất diệt của con
người mà ai cũng có. Trí tuệ cũng do từ bản tâmtự lựccon ngườithanh tịnh mà
được. Muôn pháp đều ở tại tâm, tùy tâm biến hiện.
Viên
ngọc Minh Châu là ý nghĩa sự tỉnh thứcgiác ngộ của Phật tánh có công năng
chiếu rọi vào sâu tận tâm địa của con người, vượt lên trên tất cả sự thấy biết
của phàm phu. Nhưng con người vì sống trong sáu cõi luân hồi nhiều đời nhiều
kiếp mê mờ nên không thấy được cái quí giá của tự thân, cứ lo mãi tìm Phật, cầu
Bồ Tát bên ngoài.
Người
có được ý chí mạnh mẽ, phát huy tinh thầntự giác, sống không chọn ăn ngon mặc
sang, không hơn thua tranh chấp, biết sợ nhân quả, hiểu rõvô thường, thân này
trăm năm rồi cũng tan rã. Nếu tất cả những đòi hỏi của con người biết tùy theo
khả năng và chỉ là phương tiệncần thiết, biết đủ cho cuộc sống, thì đạt được
sự tự do và giải thoát khỏi sự trói buộc ngục tù của lòng tham sân si.
“Phật
Bảo” là một trong ba ngôi báu của Tự TánhTam Bảosáng suốt nhất, là kho chứa
đựng châu báu rạng ngời và cao cả nhất. Tinh
thần của đạo Phậtkhông chấp nhận sự dựa dẫm, ỷ lại vào các hiện tượnglinh
thiêng huyền bí hay cầu nguyện vì lòng tham lam và ích kỷ. Người tu theo
Phật phải có ý chícương quyết phá tan mọi cám dỗ của danh lợi, không bị sáu
trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) trói buộc, tìm cho được tự tánh “Phật
Bảo” sáng suốt của tự tâm. Tâm mê là
chúng sanh, tâm giác là Phật. Tâm mê ở địa ngục, tâm giác ở niết bàn.
Trong
Kinh Kim Cang, Lục Tổ Huệ Năng ngộ được Tự TâmTự TánhTam Bảo sẵn có nơi tự
thân mỗi người:
sắc sanh tâm Bất
ưng trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm, Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.
Nghĩa
là: Con ngườikhông chấp giữ bất cứ việc gì cho riêng mình, đừng thấy sắc sanh
phân biệt thương ghét, đừng vì cao lương mỹ vị mất cảnh giác, đừng vì lợi dưỡngsung sướng sanh tâm tham đắm. Không có chỗ dính mắc thì không có địa ngục khổ
đau phiền não, tâm được nhẹ nhàng an lànhgiải thoát. Tâm “vô sở trụ” là tâm bồ
đề, là ngọc Minh Châusáng ngờitrí tuệ. Đó chính là Tự Tánh “Phật Bảo” sáng suốt, dù sống ở cảnh giới nào cũng được an
vui tự tại.
Tóm
lại, Bồ Tát Địa Tạng một tay nắm vững tích trượng(Từ Bi), một tay nắm chắc viên ngọc (Trí Tuệ), không phải là vị thần linh, và không có khả năng phácửa
địa ngục cứu chúng sanh theo nghĩa đen, bởi
vì như vậy trái vớiluật nhân quả và hiểu như vậy
kinh Bát Nhã gọi là vọng tưởngđiên đảo.
BồTát Địa Tạng biểu trưng Chánh Tín đủ
hai yếu tố: Từ Bi và Trí Tuệ. Người
tu theo lời Phật dạy cần có chánh tín. Không có chánh tín, con người sẽ dựa vàothần quyền, dựa vàotha lực, nghĩ rằng tiền của, tài sản có thể mua chuộc được
thần linh, và cầu nguyệnBồ Tát Địa Tạng cứu vớt sau khi chết. Cho nên người mê tín
không quan tâm đến chánh pháp, suốt đời chỉ lo hơn thua tranh đấu, tạo nghiệp,
chứ không sớm biết tu tâm dưỡng tánh, dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Từ đó, con
người sẽ rơi vào trầm luânđau khổ của sanh tử không thoát ra được.
Người
sáng suốt biết quan tâm đến chánh pháp, sớm thức tỉnh, rốt ráo thanh lọc thân
tâm, vun bồi công đức, dụng côngtu tập càng nhiều thì minh tâmkiến tánh càng
sớm đạt thành. Thấy được Phật Pháp Tăngtự tâm tức là hằng sống trong “Tự
Tánh Tam Bảo”.
TỰ TÁNHPHẬT BẢO:
Viên ngọc Minh Châu quí hiếm, là trí tuệviên mãn, là Phật tánhsáng suốt, có công năng phá trừ vô minh và đạt chánh đẳng chánh giác.
TỰ TÁNHPHÁP BẢO:
Tích trượngChánh Pháp nặng ngàn cân, là sức mạnhtừ bi chân chánh
vô úy của các pháp, có công năng tự giải thoát khỏi địa ngụcđau khổ của thân
tâm.
TỰ TÁNHTĂNG BẢO:
Tướng xuất gia và Tâm thanh tịnh. Tuy sống tại thế gian, nhưng Tâm
xuất gia, hành Bồ Tát đạo, tự độ độ tha, chính là các vị chân tu thật học, một
lòng không thối chuyển.
cứu khổ. Khi giác ngộ: Chúng con khổ – nguyện
xin tự độ. []
MINHGIÁO CHỦ BỔN TÔN ĐỊA TẠNG
VƯƠNG BỒ TÁT. TKN Thích Nữ
Chân Liễu thichnuchanlieu@gmail.com