Giới Sa-di-ni, Oai nghi, Luật nghi và Lời khuyến tu của Tổ Quy Sơn

VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
THÍCH NHẬT TỪ
Dịch và chú thích 
GIỚI SA-DI NI, OAI NGHILUẬT NGHI VÀ
LỜI KHUYẾN TU CỦA TỔ QUY SƠN
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC
Giới Sa-di-ni, Oai nghi, Luật nghi và Lời khuyến tu của Tổ Quy SơnGiới Sa-di-ni, Oai nghi, Luật nghi và Lời khuyến tu của Tổ Quy Sơn
Giới Sa-di-ni, Oai nghi, Luật nghi và Lời khuyến tu của Tổ Quy Sơnpdf_download_2
05-Giới Sa Di Ni Oai Nghi Luật Nghi – FINAL 21 06 2021

MỤC LỤC
Lời giới thiệu – HT. Thích Giác Toàn 
Lời nói đầu 
PHẦN I
Mười giới Sa-di-ni và oai nghi của người xuất gia 
Chương 1: Mười giới Sa-di-ni 
Điều 1: Không giết hại mạng sống 
Điều 2: Không trộm cắp 
Điều 3: Không dâm dục 
Điều 4: Không nói dối 
Điều 5: Không uống rượu [bia] 
Điều 6: Không đắm hương hoa, anh lạc 11
Điều 7: Không ngồi giường lớn, cao và rộng 
Điều 8: Không ca múa, âm nhạc 
Điều 9: Không cầm giữ vàng bạc, đồ quý 
Điều 10: Không ăn trái giờ 
Chương 2: Oai nghi của người xuất gia 
Điều 1: Tôn kính ba ngôi báu 
Điều 2: Kính Sa-môn lớn 
Điều 3: Thờ thầy 
Điều 4: Theo thầy ra ngoài 
Điều 5: Nhập chúng 
Điều 6: Ăn uống với mọi người 
Điều 7: Lễ lạy 
Điều 8: Học tập kinh điển 
Điều 9: Nghe pháp 
Điều 10: Vào chùa 
Điều 11: Đi vàothiền đường 
Điều 12: Làm việc thường ngày 
Điều 13: Vào nhà tắm 
Điều 14: Vào nhà vệ sinh 
Điều 15: Nằm ngủ 
Điều 16: Quanh lò lửa 
Điều 17: Sống ở trong phòng 
Điều 18: Dừng chân ở nhà thí chủ 
Điều 19: Khất thực 
Điều 20: Đi vào xóm làng 
Điều 21: Mua sắm đồ đạc 
Điều 22: Không được tự ý làm bất cứ gì 
Phụ lục: Nghi thứcthuyết giới 
PHẦN II: TỲ-NI NHẬT DỤNGQUY SƠN CẢNH SÁCH
Chương 3: Thực tậpluật nghihằng ngày 
1. Tực tập hạnh phúc buổi sáng 
2. Tực tập chuyển hóabất tịnh 
3. Lễ bái trên điện Phật 
4. Chánh niệm trong ăn uống 
5. Chánh niệm trong sinh hoạt 
6. Chánh niệmtrong đời sống 
Chương 4: Lời khuyến tu của Tổ Quy Sơn Linh Hựu 
1. Nhận thứcvô thường 
2. Làm người thong dong 
3. Vượt thói phàm tục 
4. Không hoang phícuộc đời 
5. Gương hạnh thoát tục 
6. Căn bản thiền tập 
7. Tâm nguyện người tu 
8. Giúp nhauthoát khỏisinh tử 
9. Bài minh tóm tắt 
PHẦN III: NGHI THỨC ĂN CƠM TRONG CHÍNH NIỆM (CÚNG QUÁ ĐƯỜNG)
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bản nguyên tác “Sa-di-ni luật nghi yếu lược” 
Phụ lục 2: Bản nguyên tác “Tỳ-ni nhật dụng thiết yếu” 
Phụ lục 3: Bản nguyên tác “Quy Sơn Đại Viên thiền sư cảnh sách” 

LỜI GIỚI THIỆU

Dịch phẩm “Giới Sa-di-ni, Oai nghi, Luật nghi và Lời khuyến tu của Tổ Quy Sơn” do Thượng tọa Nhật Từ dịch và chú thích là bản dịch mang tính học thuật, giúp cho các Sa-di-ni hiểu rõ hơn về những nguyên tắc đạo đức mà họ phải thọ trì, những oai nghi và điều luật mà mình cần phảithực hành. Đặc biệt là “Lời khuyến tu của Tổ Quy Sơn”được dịch bằng thể thơ song thất lục bát cùng phần giải thích rất cặn kẽ, rất cần thiết đối với hàng sơ cơ vừa mới bước chân vào đạo.

Trong nhiều chục năm qua, quý Tôn đức đại dịch giả nhưTrưởng lão Thích Hành Trụ, Trưởng lão Thích Trí Quang, Trưởng lão Thích Nhựt Chiếu đã dịch các bản văn này (thông thường gọi là “bốn cuốn Luật tiểu” dành cho các vị xuất gia trẻ mới bước vào nhà Phật) rất chuẩn mực, làm nền tảng cho các vị học và hành trì trong các sơn môn, tự viện.

Mỗi bản dịch có sắc thái và dấu ấn riêng. Chúng tôivô cùng trân quý công trình dịch thuật của các bậc tiền hiền, đồng thời cũng ghi nhận sự đóng góp của các bản dịch mới. Các bản dịch mới này, ngoài việc làm mới lại các khái niệm bằng cách giải thích theo văn phong hiện đại, còn chú thêm từ gốc để làm cơ sở tra cứu. Thông qua đó, cho thấy sự quan tâm của dịch giả về Luật tạngPhật giáo đối với các Tăng Ni trẻ, cần phải hiểu đúng từng khái niệm Luật học để định hướng và bước đi không sai lệch trên con đườngtu họclâu dài.

Tôi tán thántrân trọng dịch phẩm này. Chúc các Sa-di-ni và các Ni sinh trẻ siêng năng học tập, nghiên cứuứng dụnghành trìgiới luật trong việc tu học để tự thân mình luôn kiến tạomột đời sống Phạm hạnhgương mẫu và cao đẹp ngay từ buổi ban đầu

Trân trọng!

Pháp việnMinh Đăng Quang, TP. Hồ Chí Minh
Mùa Phật đản PL. 2565 – DL. 2021
Viện trưởng
Viện Nghiên cứuPhật họcViệt Nam
Hòa thượng Thích Giác Toàn

 


 

LỜI NÓI ĐẦU

Các Sa-di-ni thân mến,

Chọn “đi tu” làm Sa-di-ni (P. Sāmaeri, S. Śrāmaeri, 沙彌尼), sau đó, làm Thức-xoa (P. Sikkhamānā. S. Śikamānā式叉摩那),[1] Tỳ-kheo-ni (P. bhikkhuni, S. bhikṣuṇī, 比丘尼), các con đang đi theolý tưởng cao cảhạnh nguyệnđộ sinh của đức Phật, các bậc Bồ-tát, các Thánh tăngtrong lịch sử hơn 2.600 năm của đạo Phật. Đó là diễm phúc lớn của các con và gia đình các con ở đời này.

Sa-di-ni có nghĩa đen là “Sa-môn tử” (沙門子), tức người đang tập hạnh làm Sa-môn (P. Sāmaa, 沙門). Các Sa-di-ni tuổi thiếu nhi được gọi là “cô tiểu” ở miền Nam, hay “cô điệu” ở miền Trung hoặc “sư bác” ở miền Bắc. Sa-môn là từ chỉ cho các tu sĩvô thần tại Ấn Độ trong thời cổ đại, không chấp nhận đạo Bà-la-môn đa thần, không chấp nhận Thượng đế, không chấp nhận số phận, cách tu tín ngưỡngép xác của đạo Bà-la-môn. Đạo Phật do đức Phật Thích-ca sáng lập là một trong các trường phái Sa-môn, mở ra con đườngtỉnh thức, giác ngộgiải thoát cho nhân loại khỏi tất cả nỗi khổ và niềm đau.

Sa-di-ni là thuật ngữ chỉ cho các vị xuất gia theo truyền thốngPhật giáo, đang trong giai đoạn tập sự để sau đó trở thành Tỳ-kheo-ni, tức chính thức làm Sư cô. Có duyên lành được đi tu từ tuổi ấu niên, hay giác ngộchân lý, đi tu ở tuổi thanh niên hoặc tuổi trưởng thành, các Sa-di-ni chọn lựa con đườnglý tưởng sống cao quý và có giá trị chuyển mê, khai ngộ cho con người. Để trở thành người xuất giagiá trị lớn cho mình và cho cuộc đời, các Sa-di-ni cần cam kết ba điều quan trọng sau đây:

i) Nỗ lực cắt bỏ đời sốngái dục, trọn đời sống độc thân nhưng không cô đơn, giữ giới hạnh trang nghiêmthanh tịnh;

ii) Nỗ lực học Phật và thực hànhPhật pháp, vượt qua các thử thách và chướng duyên, không dể duôi trong các khoái lạc giác quan, không đắm nhiễm thói đời, không chạy theodanh lợithấp kém, không tham gia chính trị, không phản bội lý tưởngPhật pháp, quyết chíđạt đượcgiác ngộgiải thoát;

iii) Làm lớn mạnh các đức tính từ bi, trí tuệ và không sợ hãi, sống bằng thái độ, hành động vị tha cao cả để hoàn thànhchí nguyệnxuất trần, nối gót con đườngđộ sanh của đức Phật và các bậc tổ sư.

Quyển sách “Giới Sa-di-ni, oai nghi, luật nghilời khuyên của tổ Quy Sơn” này do tôi phiên dịch, biên tập, xuất bản, như tên gọi, gồm có 4 nội dung chính: (i) Giải thíchvắn tắt 10 điều đạo đức của Sa-di-ni, (ii) 22 oai nghi làm nên cốt cách của người xuất gia, (iii) 43 bài thiền kệchánh niệm và tỉnh thức trong đi, đứng, ngồi, nằm và sinh hoạt thường ngày, (iv) Lời khuyến tu của tổ Quy Sơn. Chương 3 và 4 của sách này, tôi dịch và xuất bản trong quyển “Cẩm nang thực tậpchánh niệm và khuyến tu” năm 2012.

So sánh 10 điều đạo đức thì giới bổn Sa-di và Sa-di-ni giống nhau. Chỉ khác nhau về cách diễn đạt, nội dung minh họa. Mười đạo đức Sa-di-ni gồm: (i) Không được giết hại, (ii) Không được trộm cắp, (iii) Không được dâm dục, (iv) Không được nói dối, (v) Không được uống rượu, (vi) Không đeo hoa thơm, không bôi hương liệu, (vii) Không được ca múa, chơi các nhạc cụ, không đến xem nghe, (viii) Không được ngồi giường lớn cao rộng, (ix) Không ăn trái giờ, (x) Không được cầm giữ vàng bạc đồ quý.

Về số lượng, Sa-di có 24 oai nghi, trong khi Sa-di-ni chỉ có 22 oai nghi. Giới bổn Sa-di và giới bổn Sa-di-ni giống nhau 21 điều. Chỉ riêng có trong giới bổn Sa-di-ni gồm: Kính trọngTam bảo (điều 1). Chỉ riêng có trong giới bổn Sa-di gồm: Đến chùa Ni (điều 17), đi du phương (điều 23) và tên gọi, hình tướng của y và bát (điều 24). Học thuộc và thực tập các oai nghi, tế hạnh này giúp các Sa-di-ni vượt qua nghiệp đời, thói phàm, có đạo phong của Sa-môn, nhẹ nhàng, an lạc, thanh thoát, thảnh thơi.

Về “Tỳ-ni nhật dụng”, có 43 bài thiền kệ, giúp các Sa-di-ni trải nghiệm sự chính niệm, tỉnh thức trong đi, đứng, nằm, ngồi và các sinh hoạthằng ngày. Tôi phân chia các bài kệ này thành sáu nhóm chủ đề: (i) Thực tậphạnh phúc buổi sáng, gồm các bài 1-7, (ii) Thực tậpchuyển hóabất tịnh, gồm các bài 8-13, (iii) Lễ bái trên điện Phật, gồm các bài 14-20, (iv) Chánh niệm trong ăn uống, gồm các bài 21-26, (v) Chánh niệm trong sinh hoạt, gồm các bài 27-35, (vi) Chánh niệmtrong đời sống, gồm các bài 36-43.

Bài khuyến tu của tổ Quy Sơn Linh Hựu giúp người xuất giagiữ gìnlý tưởngxuất gia, thôi thúctinh tấnhành trì, trở thành người tu hữu ích và giá trị. Tôi phân làm các chủ đề: (i) Nhận thứcvô thường, (ii) Làm người thong dong, (iii) Vượt thói phàm tục, (iv) Không hoang phícuộc đời, (v) Gương hạnh thoát tục, (vi) Căn bản thiền tập, (vii) Tâm nguyện người tu, (viii) Giúp nhauthoát khỏisinh tử, (ix) Tóm tắt bằng bài Minh.

***

Thái tử Cồ-đàm Tất-đạt-đa (P.Siddhattha Gotama, S. Siddhārtha Gautama) giác ngộviên mãntrở thànhđức Phật ở tuổi 35. Suốt 45 năm sau đó, đức Phật tuyên giảng chân lý (P.dhamma, S. dharma, 法, pháp) khắp miền bắc Ấn Độ và hình thành hệ thốnggiới luật (P=S. vinaya, 戒律), dành cho người xuất giabao gồm giới Sa-di và giới Tỳ-kheo (đối với Tăng sĩ nam) và giới Sa-di-ni, giới Thức-xoa và giới Tỳ-kheo-ni (đối với nữ tu).

Giới luậtxuất gia trong tạng Luật (vinayapiaka) quy định về cách sinh hoạt tu học và phận sự (vinayo kiccagambhīro) của các thành viên Tăng đoàn. Về giới luật, các vị Sa-di-ni và Thức-xoa chưa phải là thành viên chính thức của Tăng đoàn (Sagha) nên không được tham dự đọc giới bổn Tỳ-kheo (P. Pātimokkha, SPrātimoka, 戒本) trong ngày Bố-tát (P. Uposatha, S. Upavasatha, 布薩), không được tham dự và không được biểu quyết (karma, 羯磨, yết-ma) các công việc của Ni đoàn.

Giới luật cùng với giáo pháp được đức Phật sánh ví ngang hàng với đức Phật sau khi Ngài qua đời: “Giáo pháp và giới luật là thầy của các đệ tử, sau khi Ta qua đời” (mayā dhammo ca vinayo ca desito paññatto so vo mam). Do đó, các Sa-di-ni hãy học thuộc giới, giữ giới; học thuộc các kinh quan trọng và ứng dụng kinh trong cuộc sống để thánh thiện hóa bản thânhiện tạicứu độcon người về sau.

Trong Đại phẩm(Mahā-vagga) thuộc Luật tạng (律藏) của Thượng tọa bộ (Theravāda, 上座部), đức Phậtquy định Luật Sa-di-ni (Sāmaeravinaya) bao gồm: (i) Những điều cần học (Sikkhāpada), (ii) Hình phạt đối với Sa-di-ni (Daṇḍa-kamma) vi phạm “những điều cần học” và (iii) Tội trục xuất (Nāsanaga) được áp dụng đối với các Sa-di-ni phạm các tội sau đây: Giết người, trộm cắp, hành dâm, nói dối, uống rượu, phỉ báng Phật, phỉ bánggiáo pháp, phỉ báng Tăng, tà kiến.

Sau khi đức Phật qua đời, nhằm giúp các vị Sa-di-ni trưởng thành về giới đứctrở thành người xuất gia hữu ích, các tổ sư của tông Luật đã bổ sung các quy định của Tỳ-kheo-ni trong Giới bổn Tỳ-kheo-ni (P. Pātimokkha, SPrātimoka, 戒本) vào Luật Sa-di-ni.

Các điều nên học đối với Sa-di-ni trong Thượng tọa bộ bao gồm: (i) Giữ trong sạch mười điều đạo đức Sa-di (sikkhāpada), (ii) 75 điều nên tuân thủ (Sekhiyadhamma, sekhiya-vatta, 應学法, ưng học pháp),[2] (iii) 14 điều thực hành (kiccavatta).

Mười bốn điều thực hành của Sa-di-ni bao gồm: (i) Đối với khách Tăng (āgantu-kavatta), (ii) Đối với người tu ở trụ xứ (āvāsikavatta), (iii) Đối với người tu di chuyển chỗ ở (gamikavatta), (iv) Chúc phúc lễ trai tăng (anumodanāvatta), (v) Đến trai đường (bhattagga-vatta), (vi) Đi khất thực (piṇḍacāri-kavatta), (vii) Ẩn cư trong rừng (āraññikavatta), (viii) Ở trong phòng (senāsanavatta), (ix) Ở nhà bếp (jantaghara-vatta), (x) Ở nhà vệ sinh (vaccakuṭivatta), (xi) Đối với bổn sư (upajjhā-yavatta), (xii) Đối với đệ tửxuất gia (saddhivihārikavatta), (xiii) Đối với thầy giáo thọ (ācariyavatta), (xiv) Thầy giáo thọ đối với môn sinh (antevāsikavatta).

Vào thế kỷ XVI, Đại sưChâu Hoằng (蓮池袾宏, 1535-1615),[3] của Trung Quốc, dựa vào Luật tạng của các trường phái Luật Phật giáo trong Đại tạng kinh chữ Hán, nhất là các quy định về Sa-di-ni, vốn tương đương với 14 điều thực hành (kiccavatta)[4] của Sa-di-ni trong Đại phẩm(Mahā-vagga) của Luật tạngThượng tọa bộ để biên tập thành “Luật nghi” (律仪) gồm 22 oai nghi, vốn là phần 2 trong quyển “Sa-di-ni luật nghi yếu lược (沙弥尼律仪要略)” dành cho Sa-di theo Luật Tứ phần (四分律), tức Luật Pháp tạng (Dharmagupta-vinaya, 法藏部戒律).

Mặc dù số lượng các oai nghi, cách đặt tựa đề, vị trí các quy định giữa Luật Sa-di-ni trong Thượng tọa bộPháp tạng bộ có khác nhau nhưng trên tổng thể, nội dung phù hợp nhau, đề cao văn hóa ứng xử của người xuất gia trở nên lịch sự, trang nghiêm, thanh thoát, chứ không đơn thuần là những điều không được làm.

Thầy chúc các Sa-di-ni tinh tấnhọc giới, giữ giới, học kinh điển, áp dụng trong cuộc sống để trong trung bình 5-10 năm xuất gia, trở thành người chuyển hóathành công nghiệp phàm và thói quen phàm, trở thànhchân sư, giải thoát giữa đời thường, góp phần xây dựngxã hộian lạc và hòa bình.

Chùa Giác Ngộ,
Ngày rằm tháng 2 năm 2021
THÍCH NHẬT TỪ


[1] Thức-xoa-ma-na (式叉摩那), Hán dịch là học giới nữ (學戒女), chánh học nữ (正學女), học pháp nữ (學法女).

[2] Xem Giới bổn Tỳ-kheo của Luật Tứ phần của Thích Nhật Từ dịch (NXB. Hồng Đức, Hà Nội, 2021): Xem mục “Đối chiếu Giới Tỳ-kheo của Thượng tọa bộ với năm trường phái Luật Phật giáo,” đặc biệt là mục“Điều nên học” để hiểu rõchi tiết của 75 điều nên học này.

[3] Ngài Châu Hoằng (袾宏) tự là Phật Huệ (佛慧), pháp hiệuLiên Trì (蓮池), thường được gọi là Đại sưLiên Trì (蓮池大師). Vì ngài hành đạo tại chùa Vân Thê (雲棲寺) nên ngài còn được biết đến là Vân Thê – Liên Trì (雲棲蓮池) hay Vân Thê – Châu Hoằng (雲棲株宏). Về tông phái, ngài Châu Hoằngtổ sư đời thứ 8 của tông Tịnh độ, Phật giáo Trung Quốc. Năm 31 tuổi, sau khi làm lễ an táng cho thân mẫu, ngài quyết chíxuất gia với Hòa thượng Thiên Lý (天理和尚). Trong quá trình học đạo, ngài từng học Phật pháp với hai trưởng lão Biến Dung (遍融) và Tiếu Nham (笑巖). Các tác phẩmnổi tiếng của ngài gồm có: (i) Tự tri lục (自知錄), (ii) Truy môn hành lục (錙門崇), (iii) Trúc song tùy bút (竹窗随笔), (iv) Di-đà sớ sao (彌陀疏鈔), (v) Thiền tông ngữ lục (禪宗語錄), (vi) Thiền quan sách tấn (禪關策進). Ngài là người biên tập của Sa-di luật nghi yếu lược (沙彌律儀要略), tóm tắt về [giới] Sa-di và oai nghi [của Sa-di].

[4] Xem chi tiết của 14 pháp hành này từ sách của Giác Giới, Luật nghi Sa-di. Thành hội Phật giáo TP.HCM, 1997. Ấn bản vi tính có thể truy cập tại đây: https://www.budsas.org/uni/u-luat-sadi/sadi-nt-00.htm