Giới Sa-di, Oai nghi, Luật nghi và Lời khuyến tu của Tổ Quy Sơn

VIỆN NGHIÊN CỨUPHẬT HỌCVIỆT NAM
THÍCH NHẬT TỪ
Dịch và chú thích 
GIỚI SA-DI, OAI NGHILUẬT NGHI
LỜI KHUYẾN TU 
CỦA TỔ QUY SƠN
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC

Giới Sa-di, Oai nghi, Luật nghi và Lời khuyến tu của Tổ Quy SơnGiới Sa-di, Oai nghi, Luật nghi và Lời khuyến tu của Tổ Quy SơnGiới Sa-di, Oai nghi, Luật nghi và Lời khuyến tu của Tổ Quy Sơnpdf_download_2

MỤC LỤC
Lời giới thiệu – HT. Thích Giác Toàn 
Lời nói đầu 
PHẦN I
Mười giới Sa-di và oai nghi của người xuất gia 
Chương 1: Mười giới Sa-di 
Điều 1: Không được giết hại 
Điều 2: Không được trộm cắp 
Điều 3: Không được dâm dục 
Điều 4: Không được nói dối 
Điều 5: Không được uống rượu và bia 
Điều 6: Không đeo hoa thơm, không bôi hương liệu
Điều 7: Không được ca múa, chơi các nhạc cụ, không đến xem nghe
Điều 8: Không được ngồi giường lớn cao rộng
Điều 9: Không ăn trái giờ 
Điều 10: Không được cầm giữ vàng bạc đồ quý
Chương 2: Oai nghi của người xuất gia
Điều 1: Kính đại Sa-môn
Điều 2: Thờ Thầy
Điều 3: Theo Thầy ra ngoài 
Điều 4: Nhập chúng 
Điều 5: Ăn uống với mọi người
Điều 6: Lễ lạy
Điều 7: Nghe pháp
Điều 8: Học tập kinh điển
Điều 9: Vào chùa 
Điều 10: Đi vàothiền đường 
Điều 11: Làm việc thường ngày 
Điều 12: Vào nhà tắm
Điều 13: Vào nhà vệ sinh
Điều 14: Nằm ngủ
Điều 15: Quanh lò lửa 
Điều 16: Sống ở trong phòng 
Điều 17: Đi đến chùa Ni
Điều 18: Đến nhà cư sĩ
Điều 19: Khất thực 
Điều 20: Đi vào làng xóm
Điều 21: Mua sắm đồ đạc
Điều 22: Không được tự ý làm bất cứ gì
Điều 23: Đi du phương 
Điều 24: Tên gọi, hình tướng của y và bát
PHẦN II: TỲ-NI NHẬT DỤNGQUY SƠN CẢNH SÁCH
Chương 3: Thực tậpluật nghihằng ngày
1. Tực tập hạnh phúc buổi sáng
2. Tực tập chuyển hóabất tịnh
3. Lễ bái trên điện Phật 
4. Chánh niệm trong ăn uống
5. Chánh niệm trong sinh hoạt
6. Chánh niệmtrong đời sống 
Chương 4: Lời khuyến tu của Tổ Quy Sơn Linh Hựu
1. Nhận thứcvô thường 
2. Làm người thong dong 
3. Vượt thói phàm tục.
4. Không hoang phícuộc đời
5. Gương hạnh thoát tục 
6. Căn bản thiền tập
7. Tâm nguyện người tu 
8. Giúp nhauthoát khỏisinh tử
9. Bài minh tóm tắt
PHẦN III: NGHI THỨC ĂN CƠM TRONG CHÍNH NIỆM (CÚNG QUÁ ĐƯỜNG)
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bản nguyên tác “Sa-di luật nghi yếu lược” 
Phụ lục 2: Bản nguyên tác “Tỳ-ni nhật dụng thiết yếu”.
Phụ lục 3: Bản nguyên tác “Quy Sơn Đại Viên thiền sư cảnh sách”

LỜI GIỚI THIỆU

Dịch phẩm “Giới Sa-di, Oai nghi, Luật nghi và Lời khuyến tu của Tổ Quy Sơn” là bản dịch mang tính học thuật, giúp cho các vị mới tập tu và Sa-di hiểu rõ hơn về những nguyên tắc đạo đức mà mình thọ trì, những oai nghi và điều luật mà mình cần phảithực hành. Đặc biệt là Lời khuyến tu của Tổ Quy Sơn được Thượng tọa Nhật Từ dịch bằng thể thơ song thất lục bát cùng phần giải thích rất cặn kẽ, rất cần thiết đối với người xuất gia mới bước chân vào đạo.

Trong nhiều chục năm qua, chư Tôn đức đại dịch giả nhưHòa thượng Thích Hành Trụ, Hòa thượng Thích Trí Quang, Hòa thượng Thích Nhựt Chiếu đã dịch các bản văn này (thông thường gọi là “bốn cuốn Luật tiểu” dành cho người xuất gia mới bước vào nhà Phật) rất chuẩn mực, làm nền tảng cho các vị học và hành trì trong các sơn môn, tự viện.

Mỗi bản dịch có bản sắc và dấu ấn riêng. Tôi vô cùng trân quý công trình dịch thuật của các bậc tiền hiền, đồng thời cũng ghi nhận sự đóng góp của các bản dịch mới. Các bản dịch mới này, ngoài việc làm mới lại các khái niệm bằng cách giải thích theo văn phong hiện đại còn chú thêm từ gốc để làm cơ sở tra cứu. Thông qua đó, cho thấy sự quan tâm của dịch giả về vấn đềLuật tạng đối với các Tăng Ni trẻ vừa mới xuất gia vào đạo, cần phải hiểu đúng từng khái niệm để định hướng và bước đi không sai lệch trên con đườngtu họclâu dài.

Tôi tán thántrân trọng dịch phẩm này. Chúc các Tăng sinh siêng năng học tập, nghiên cứuứng dụnghành trìgiới luật trong việc tu học để tự thân mình luôn kiến tạomột đời sống Phạm hạnhgương mẫu và cao đẹp ngay từ buổi ban đầu.

Trân trọng!

Pháp việnMinh Đăng Quang, TP. Hồ Chí Minh
Mùa Phật đản PL. 2565 – DL. 2021
Viện trưởng
Viện Nghiên cứuPhật họcViệt Nam

Hòa thượng Thích Giác Toàn


 

LỜI NÓI ĐẦU

Các Sa-di thân mến,

Chọn “đi tu” làm Sa-di, sau đó, làm Tỳ-kheo, các con đang đi theolý tưởng cao cảhạnh nguyệnđộ sinh của đức Phật, các bậc Bồ-tát, các thánh Tăngtrong lịch sử hơn 2.600 năm của đạo Phật. Đó là diễm phúc lớn của các con và gia đình các con ở đời này.

Sa-di (P. Sāmaera, 沙彌) có nghĩa đen là “Sa-môn tử” (P. Samauddesa, 沙門子), tức người đang tập hạnh làm Sa-môn (P. Sāmaa, 沙門). Các Sa-di tuổi thiếu nhi được gọi là “chú tiểu” ở miền Nam, hay “điệu” ở miền Trung hoặc “sư bác” ở miền Bắc.  Sa-môn là từ chỉ cho các tu sĩvô thần tại Ấn Độ trong thời cổ đại, không chấp nhận đạo Bà-la-môn đa thần, không chấp nhận Thượng đế, không chấp nhận số phận, không chấp nhận cách tu tín ngưỡngép xác của đạo Bà-la-môn. Đạo Phật do đức Phật Thích-ca sáng lập là một trong các trường phái Sa-môn, mở ra con đườngtỉnh thức, giác ngộgiải thoát cho nhân loại khỏi tất cả nỗi khổ và niềm đau.

Sa-di là thuật ngữ chỉ cho các vị xuất gia theo truyền thốngPhật giáo, đang trong giai đoạn tập sự để sau đó trở thành Tỳ-kheo (P.bhikkhu, S.bhiku比丘), tức chính thức làm Thầy. Có duyên lành được đi tu từ tuổi ấu niên, hay giác ngộchân lý, đi tu ở tuổi thanh niên hoặc tuổi trưởng thành, các Sa-di chọn lựa con đườnglý tưởng sống cao quý và có giá trị chuyển mê, khai ngộ cho con người. Để trở thành người xuất giagiá trị lớn cho mình và cho cuộc đời, các Sa-di cần cam kết ba điều quan trọng sau đây:

i) Nỗ lực cắt bỏ đời sốngái dục, trọn đời sống độc thân nhưng không cô đơn, giữ giới hạnh trang nghiêmthanh tịnh;

ii) Nỗ lực học Phật và thực hànhPhật pháp, vượt qua các thử thách và chướng duyên, không dễ duôi trong các khoái lạc giác quan, không đắm nhiễm thói đời, không chạy theodanh lợithấp kém, không tham gia chính trị, không phản bội lý tưởngPhật pháp, quyết chíđạt đượcgiác ngộgiải thoát;

iii) Làm lớn mạnh các đức tính từ bi, trí tuệ và không sợ hãi, sống bằng thái độ, hành động vị tha cao cả để hoàn thànhchí nguyệnxuất trần, nối gót con đườngđộ sanh của đức Phật và các bậc tổ sư.

Quyển sách “Giới Sa-di, oai nghi, luật nghi và lời khuyến tu của tổ Quy Sơn” này do tôi phiên dịch, biên tập, xuất bản, như tên gọi, gồm có 4 nội dung chính: (i) Giải thíchvắn tắt 10 điều đạo đức của Sa-di, (ii) 24 oai nghi làm nên cốt cách của người xuất gia, (iii) 43 bài thiền kệchính niệmtỉnh thức trong đi, đứng, ngồi, nằm và sinh hoạt thường ngày, (iv) Lời khuyến tu của tổ Quy Sơn, (v) Nghi thức cúng quá đường. Chương 3 và 4 của sách này, tôi dịch và xuất bản trong quyển “Cẩm nang thực tậpchánh niệm và khuyến tu” năm 2012.

So sánh 10 điều đạo đức thì giới bổn Sa-di và Sa-di-ni giống nhau. Chỉ khác nhau về cách diễn đạt, nội dung minh họa. Mười đạo đức Sa-di gồm: (i) Không được giết hại, (ii) Không được trộm cắp, (iii) Không được dâm dục, (iv) Không được nói dối, (v) Không được uống rượu, (vi) Không đeo hoa thơm, không bôi hương liệu, (vii) Không được ca múa, chơi các nhạc cụ, không đến xem nghe, (viii) Không được ngồi giường lớn cao rộng, (ix) Không ăn trái giờ, (x) Không được cầm giữ vàng bạc đồ quý.

Về số lượng, Sa-di có 24 oai nghi, trong khi Sa-di-ni chỉ có 22 oai nghi. Giới bổn Sa-di và giới bổn Sa-di-ni giống nhau 21 điều. Chỉ riêng có trong giới bổn Sa-di-ni gồm: Kính trọngTam bảo (điều 1). Chỉ riêng có trong giới bổn Sa-di gồm: Đến chùa Ni (điều 17), đi du phương (điều 23) và tên gọi, hình tướng của y và bát (điều 24). Học thuộc và thực tập các oai nghi, tế hạnh này giúp các Sa-di vượt qua nghiệp đời, thói phàm, có đạo phong của Sa-môn, nhẹ nhàng, an lạc, thanh thoát, thảnh thơi.

Về “Tỳ-ni nhật dụng”, có 43 bài thiền kệ, giúp các Sa-di trải nghiệm sự chính niệm, tỉnh thức trong đi, đứng, nằm, ngồi và các sinh hoạthằng ngày. Tôi phân chia các bài kệ này thành sáu nhóm chủ đề: (i) Thực tậphạnh phúc buổi sáng, gồm các bài 1-7, (ii) Thực tậpchuyển hóabất tịnh, gồm các bài 8-13, (iii) Lễ bái trên điện Phật, gồm các bài 14-20, (iv) Chánh niệm trong ăn uống, gồm các bài 21-26, (v) Chánh niệm trong sinh hoạt, gồm các bài 27-35, (vi) Chánh niệmtrong đời sống, gồm các bài 36-43.

Bài khuyến tu của tổ Quy Sơn Linh Hựu giúp người xuất giagiữ gìnlý tưởngxuất gia, thôi thúctinh tấnhành trì, trở thành người tu hữu ích và giá trị. Tôi phân làm các chủ đề: (i) Nhận thứcvô thường, (ii) Làm người thong dong, (iii) Vượt thói phàm tục, (iv) Không hoang phícuộc đời, (v) Gương hạnh thoát tục, (vi) Căn bản thiền tập, (vii) Tâm nguyện người tu, (viii) Giúp nhauthoát khỏisinh tử, (ix) Tóm tắt bằng bài Minh.

***

Thái tử Cồ-đàm Tất-đạt-đa (P.Siddhattha Gotama, S. Siddhārtha Gautama) giác ngộviên mãntrở thànhđức Phật ở tuổi 35. Suốt 45 năm sau đó, đức Phật tuyên giảng chân lý (P.dhamma, S. dharma, 法, pháp) khắp miền bắc Ấn Độ và hình thành hệ thốnggiới luật (P=S. vinaya, 戒律), dành cho người xuất giabao gồm giới Sa-di và giới Tỳ-kheo (đối với Tăng sĩ nam) và giới Sa-di-ni, giới Thức-xoa và giới Tỳ-kheo-ni (đối với nữ tu). Giới luậtxuất gia trong tạng Luật (vinayapiaka) quy định về cách sinh hoạt tu học và phận sự (vinayo kiccagambhīro) của các thành viên Tăng đoàn. Về giới luật, các vị Sa-di chưa phải là thành viên chính thức của Tăng đoàn (Sagha) nên không được tham dự đọc giới bổn Tỳ-kheo (P. Pātimokkha, S. Prātimoka, 戒本) trong ngày Bố-tát (P. Uposatha, S. Upavasatha, 布薩), không được tham dự và không được biểu quyết (karma, 羯磨, yết-ma) các công việc của Tăng đoàn.

Giới luật cùng với giáo pháp được đức Phật sánh ví ngang hàng với đức Phật sau khi Ngài qua đời: “Giáo pháp và giới luật là thầy của các đệ tử, sau khi Ta qua đời” (mayā dhammo ca vinayo ca desito paññatto so vo mam). Do đó, các chú Sa-di hãy học thuộc giới, giữ giới; học thuộc các kinh quan trọng và ứng dụng kinh trong cuộc sống để thánh thiện hóa bản thânhiện tạicứu độcon người về sau.

Trong Đại phẩm (Mahā-vagga) thuộc Luật tạng (律藏) của Thượng tọa bộ (Theravāda, 上座部), đức Phậtquy định Luật Sa-di (Sāmaeravinaya) bao gồm: (i) Những điều cần học (Sikkhāpada), (ii) Hình phạt đối với Sa-di (Daṇḍa-kamma) vi phạm “những điều cần học” và (iii) Tội trục xuất (Nāsanaga) được áp dụng đối với các Sa-di phạm tội 1/10 tội sau đây: Giết người, trộm cắp, hành dâm, nói láo, uống rượu, phỉ báng Phật, phỉ bánggiáo pháp, phỉ báng Tăng, tà kiến và hãm hiếp Tỳ-kheo-ni.

Sau khi đức Phật qua đời, nhằm giúp các vị Sa-di trưởng thành về giới đứctrở thành người xuất gia hữu ích, các tổ sư của tông Luật đã bổ sung các quy định của Tỳ-kheo trong Giới bổn Tỳ-kheo (P. Pātimokkha, S. Prātimoka, 戒本) vào Luật Sa-di.

Các điều nên học đối với Sa-di trong Thượng tọa bộ bao gồm: (i) Giữ trong sạch mười điều đạo đức Sa-di (sikkhāpada), (ii) 75 điều nên tuân thủ (Sekhiyadhamma, sekhiya-vatta, 應学法, ưng học pháp),[1] (iii) 14 điều thực hành (kiccavatta).

Mười bốn điều thực hành của Sa-di bao gồm: (i) Đối với khách Tăng (āgantu-kavatta), (ii) Đối với người tu ở trụ xứ (āvāsikavatta), (iii) Đối với người tu di chuyển chỗ ở (gamikavatta), (iv) Chúc phúc lễ trai tăng (anumodanāvatta), (v) Đến trai đường (bhattagga-vatta), (vi) Đi khất thực (piṇḍacāri-kavatta), (vii) Ẩn cư trong rừng (āraññikavatta), (viii) Ở trong phòng (senāsanavatta), (ix) Ở nhà bếp (jantaghara-vatta), (x) Ở nhà vệ sinh (vaccakuivatta), (xi) Đối với bổn sư (upajjhā-yavatta), (xii) Đối với đệ tửxuất gia (saddhivihārikavatta), (xiii) Đối với thầy giáo thọ (ācariyavatta), (xiv) Thầy giáo thọ đối với môn sinh (antevāsikavatta).

Vào thế kỷ XVII, cao tăngĐộc Thể (读体, 1601-1679)[2] của Trung Quốc, dựa vào Luật tạng của các trường phái Luật Phật giáo trong Đại tạng kinh chữ Hán, nhất là các quy định về Sa-di, vốn tương đương với 14 điều thực hành (kiccavatta)[3] của Sa-di thành trong Đại phẩm (Mahā-vagga) của Luật tạngThượng tọa bộ để biên tập thành “Luật nghi” (律仪) gồm 24 oai nghi, vốn là phần 2 trong quyển “Sa-di-ni luật nghi yếu lược (沙弥尼律仪要略)” dành cho Sa-di theo Luật Tứ phần (四分律), tức Luật Pháp Tạng (Dharmagupta-vinaya, 法藏部戒律). Mặc dù số lượng các oai nghi, cách đặt tựa đề, vị trí các quy định giữa Luật Sa-di trong Thượng tọa bộvà Pháp Tạng bộ có khác nhau nhưng trên tổng thể, nội dung phù hợp nhau, đề cao văn hóa ứng xử của người xuất gia trở nên lịch sự, trang nghiêm, thanh thoát, chứ không đơn thuần là những điều không được làm.

Thầy chúc các chú Sa-di tinh tấnhọc giới, giữ giới, học kinh điển, áp dụng trong cuộc sống để trong trung bình 5-10 năm xuất gia, trở thành người chuyển hóathành công nghiệp phàm và thói quen phàm, trở thànhchân sư, giải thoát giữa đời thường, góp phần xây dựngxã hộian lạc và hòa bình.

Chùa Giác Ngộ,
Ngày rằm tháng 2 năm 2021

THÍCH NHẬT TỪ


[1]Xem Giới bổn Tỳ-kheo của Luật Tứ phần của Thích Nhật Từ dịch (NXB. Hồng Đức, Hà Nội, 2021): Xem mục “Đối chiếu Giới Tỳ-kheo của Thượng tọa bộ với năm trường phái Luật Phật giáo,” đặc biệt là mục“Điều nên học” để hiểu rõchi tiết của 75 điều nên học này.

[2] Cao tăngĐộc Thể (读体, 1601-1679), thế danh là Hứa Thiệu Như (许绍如), tự là Kiến Nguyệt (见月), là người ở Sở Hùng (楚雄), tỉnh Vân Nam (云南), Trung Quốc. Là cao tăng của phái Thiên Hoa (千华派) thuộc Luật tông (律宗), ngài Độc Thể để lại các tác phẩmnổi tiếnggồm có: (i) Tỳ-ni chỉ trì hội tập (毗尼止持会集), (ii) Tỳ-ni tác trì độc thích (毗尼作持续释), (iii) Sa-di-ni luật nghi yếu lược (沙弥尼律仪要略), (iv) Truyền giới chánh phạm (传戒正范), (v) Đại thừa huyền chương (大乘玄义).

[3] Xem chi tiết của 14 pháp hành này từ sách của Giác Giới, Luật nghi Sa-di. Thành hội Phật giáo TP.HCM, 1997. Ấn bản vi tính có thể truy cập tại đây: https://www.budsas.org/uni/u-luat-sadi/sadi-nt-00.htm

Thư Viện Hoa Sen kính cảm tạ Thượng tọa Thích Nhật Từ đã gửi tặng 5 quyển sách ebook pdf về giới Luật Phật giáo do chính Thượng tọa dịch và chú thích. Xin trân trọng kính giới thiệu đến quý tăng ni và Phật tử. (Trên đây là một trong 5 quyển)

.