Giới Thiệu Kinh Trung A Hàm

GIỚI THIỆU KINH TRUNG A HÀM
Điền Quang Liệt – Định Huệ dịch

Kinh
Trung A-hàm, 60 quyển, do Sa-môn người nước Kế Tân là Tăng-già-đề-bà
và Tăng-già-la-xoa dịch vào đời Đông Tấn, niên hiệu Long
An thứ 2 (398). Kinh này là một bộ trong bốn Kinh A-hàm của
Phật giáo Bắc truyền. Vì kinh này tập hợp các kinh không
dài không ngắn, ở dạng trung bình nên được đặt tên là
Trung A-hàm (XemDI-SA-TẮC NGŨ PHẦN LUẬT 30, LUẬN PHÂN
BIỆT
CÔNG ĐỨC, quyển thượng). Bản Hán dịch đầu
tiên của kinh này do ngài Đàm-ma-nan-đề thực hiện vào đời
Phù Tần, niên hiệu Kiến Nguyên thứ 20 (384), gồm 59 quyển
(hiện nay đã thất lạc, chỉ còn một ít bản lẻ).
Vì bản dịch này chưa phù hợp với nguyên ý, nên hơn 10 năm
sau, ngài Tăng-già-đề-bà dịch lại.
Nội
dung của bản dịch kinh này gồm 5 tụng, 18 phẩm, 222 kinh,
khoảng 514.825 chữ (Xem bài tựa của Đạo Từ trong XUẤT TAM
TẠNG KÝ TẬP
quyển 9). Chủ đề của các phẩm nhưsau
:
A.
Ngày đầu tiên tụng 5 phẩm rưỡi gồm có 64 kinh :

I.
Phẩm Thất Pháp
nói về 7 pháp và những vấn đềliên
quan
, gồm 10 kinh :

1.Kinh
Thiện
Pháp
nói về 7 pháp
lành như biết pháp, biết nghĩa …

2.Kinh
Trú Độ Thọ
dùng 7 giai đoạn
của cây Trú Độ trên cõi trời Tam Thập Tam như lá héo vàng,
mọc lá, ra hoa … để dụ cho Tỳ-kheo từ xuất gia đến chứng
4 quả.

3.Kinh
Thành
Dụ,
dùng 7 việc đầy
đủ và 4 thứ lương thực sung túc của Vương thành ở biên
giới
để dụ cho Thánh đệ tử đắc 7 pháp thiện, thành
tựu
4 thiền.

4.Kinh
Thủy
Dụ,
đem 7 loại người
từ thường nằm trong nước cho đến đã lên bờ để dụ
cho người thường làm điều tệ ác cho đến người thành
tựu
4 quả.

5.Kinh
Mộc

Tích Dụ,
nói thà ôm
đống gỗ đang cháy đỏ dù phải chịu đau khổ hay mất mạng
chứ không phá giới gần gũi người nữ …

6.Kinh
Thiện
Nhân
Vãng
nói về 7
bậc A-na-hàm làm “chỗ đến của 7 bậc thiện nhân
niết-bàn”.

7.Kinh
Thế
Gian
Phước
nói về 7
phước thế gian như bố thí phòng nhà … cho đến 7 phước
xuất thế gian như vui mừng hớn hở khi nghe đến Phật…

8.Kinh
Thất
Nhật
nói về 1 mặt
trời
xuất hiệnthế giancho đến 7 mặt trời cùng xuất
hiện
một lượt ở thế gian để nói các hành vô thường,
khuyên mọi người hãy buông bỏ.

9.Kinh
Thất
Xa,
lấy việc vua Ba-tư-nặc
từ nước Xá-vệ lần lượt thay 7 xe để mau chóng đến Bà-kê-đế,
ví dụ do 7 pháp tịnh như giới tịnh … tương tụcthành
tựu
đạt đến đến niết-bàn.

10.Kinh
Lậu Tận
nói về 7 thứ hữu
lậu
nhờ Kiến … mà đoạn.

II.
Phẩm Nghiệp Tương Ưng
gồm 10 kinh có liên quan đến 10
pháp thiện và 10 pháp bất thiện.

1.Kinh
Diêm
Dụ
nói người trí tu
thân
, giới, tâm huệ …, tuy có làm nghiệp bất thiện, nhưng
cũng chỉ chịu quả báo nhẹ trong đờihiện tại như đem
chút ít muối bỏ vào sông Hằng thì không cảm thấy được
vị mặn …

2.Kinh
Hòa
Phá,
vì ông Thích Hòa
Phá, đệ tử Ni-kiền, nói về 6 chỗ thiện trú như vô minh
hết thì không còn tái sanh, cho đến mắt thấy sắc mà không
mừng, không lo …

3.Kinh
Độ,
phá ba luận nghị của
ngoại đạo như túc mạng …, nhân đó nói về 6 xứ : mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý và pháp 6 giới : địa, thủy, hỏa,
phong, không, thức.

4.Kinh
La Vân,
răn dạy La-hầu-la
chớ vọng ngữ.

5.Kinh
nói về quả báo khác
nhau của việc cố ý và không cố ý làm 10 nghiệp thiện.

6.Kinh
Già-lam,
răn cấm 10 nghiệp
bất thiện
, khuyên tu 4 vô lượng, được 4 trú xứ an ổn.

7.Kinh
Già-di-ni
nói quả báo của
10 ác, 10 thiện như đá, như dầu, chìm nổi khác nhau.

8.Kinh
Tử
nói về các điều
nên làm và không nên làm.

9.Kinh
Ni-kiền
nói về 5 điều đáng
ghê tởm của Ni-kiền Tử và 5 điều được xưng tánNhư
Lai
đã đạt.

10.Kinh
Ba-la-lao,
nói Phật biết huyễn
thuật ấy, nhưng chính Phật không phải là nhà huyễn thuật
và nói 4 vô lượng cùng pháp viễn ly quyết định đoạn trừ
được nghi hoặc.

III.
Phẩm Xá-lê Tử Tương Ưng
gồm 11 kinh, chủ yếu do ngài
Xá-lê Tử nói, hoặc các việc có liên quan đến Ngài.

1.Kinh
Đẳng Tâm
nói về chư thiênĐẳng Tâm thuật lại với Phật việc ngài Xá-lê Tử nói
người có nội kết, bậc A-na-hàm không còn trở lạithế
gian
này; người có ngoại kết không phải là bậc A-na-hàm,
sẽ còn trở lạithế gian này.

2.Kinh
Thành Tựu Giới,
ngài Xá-lê
Tử nói người thành tựu giới, định, huệ sanh lên trời
Ý Sanh mà ra vào định Tưởng tri diệt.

3.Kinh
Trí,
ngài Xá-lê Tử nói với
Phật về các nghĩa đắc trí huệsanh tử đã hết, phạm
hạnh
đã lập, điều cần phải làm thì đã làm xong, không
còn thọ thân đời sau.

4.Kinh
Tử Hống,
ngài Xá-lê
Tử nói nếu người có quán niệm thân trên thân thì không
khinh mạn một vị phạm hạnh; nếu người nào không có quán
niệm
thân trên thân thì người ấy mới khinh mạn một vị
phạm hạnh.

5.Kinh
Thủy Dụ
nói về 5 thứ không
tịnh hạnh, người có trí thấy mà sanh phiền giận, thì phải
nên trừ bỏ.

6.Kinh
Cù-ni-sư,
ngài Xá-lê Tử,
nhân Cù-ni-sư mà bảo các thầy Tỳ-kheo hãy học kính trọng
tùy thuận

7.Kinh
Phạm
Chí
Đà-nhiên,
ngài
Xá-lê Tử giáo hóaPhạm chí Đà-nhiên tu 4 Phạm thất (4
vô lượng tâm
) để sanh lên cõi Phạm thiên.

8.Kinh
Giáo

Hóa Bệnh
nói có 10 thứ
thượng tín … đắc pháp Tu-đà-hoàn. Điều này có thể trị
được bệnh.

9.Kinh
Đại
Câu-hy-la,
ngài Xá-lê
Tử hỏi tôn giả Đại Câu-hy-la, nhân vì biết bất thiện,
biết bất thiện căn … mà được chánh kiến nhập vào chánh
pháp
.

10.Kinh
Tượng Tích Dụ
nói pháp
4 đế bao gồm các pháp thiện, hơn hết trong tất cả pháp.

11.Kinh
Phân Biệt
Thánh Đế
nói
chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đều dạy về pháp
4 thánh đế.

IV.
Phẩm Vị Tằng Hữu Pháp
gồm 10 kinh :

1.Kinh
Vị
Tằng Hữu Pháp
nói về
pháp vị tằng hữu Phật Thích-ca phát nguyện tu phạm hạnh
hành Phật đạo ở trước đức Phật Ca-diếp thời quá
khứ
.

2.Kinh
Thị
Giả
,
nói về pháp vị
tằng hữu ngài A-nan lập 3 điều nguyện làm thị giả Phật.

3.Kinh
Bạt-câu-la
nói về hạnh
tri túcvị tằng hữu của ngài Bạt-câu-la.

4.Kinh
A-tu-la
dùng biển cả để
dụ cho 8 pháp vị tằng hữu trong chánh pháp luật của Phật.

5.Kinh
Địa
Động
nói về 3 nguyên
nhân
gây động đất và Như Laithành tựu công đứcđắc
pháp
vị tằng hữu.

6.Kinh
Chiêm-ba
cũng dùng biển cả
dụ cho pháp vị tằng hữu trong chánh pháp luật của Phật.

7.và
8.
Kinh Úc-già Trưởng Giả

nói về Úc-già trưởng giả có 8 pháp vị tằng hữu.

9.và
10. Kinh ThủTrưởng Giả
nói Thủ trưởng giả có 8 pháp
vị
tằng hữu.

V.
Phẩm Tập Tương Ưng
gồm 16 kinh :

1.Kinh

Nghĩa
nói trì giới khiến
cho người ta không hối hận, dần dầnđược giải thoát
tham, sân, si.

2.Kinh
Bất
nói pháp tự nó vốn
như vậy, không nên nghĩ ngợi.

3.đến
9.
Kinh Niệm, Kinh Tàm Quý, Kinh Giới, Kinh Cung Kính
nói
chánh niệm, chánh trí, tàm quý, trì giới, thực hànhcung
kính
thì có thể gìn giữ các căn, các giới, cho đếngiải
thoát
mà đắc niết-bàn.

10.Kinh
Bản Tế
nói người ác do gần gũi ác tri thứcdần dần
đi đến vô minh sanh ái; người lành do gần gũi thiện tri
thức
dần dần tiến đến 7 giác chi sanh trí huệgiải thoát.

11.
và 12. Kinh Thực
nói người ác làm thức ăn của ác tri
thức
, ý đồng với Kinh Bản Tế, và lấy biển cả làm thí
dụ
.

13.
Kinh Tận Trí
nói phụng sựthiện tri thức là cái nhân
để được nghe pháp lành, dần dần tiến đến giải thoát
đắc lậu tận.

14.
Kinh Niết-bàn
nói vô minh là nhân khổ cho đến nói giải
thoát
là nhân niết-bàn, cho nên nhờ quán 12 nhân duyên
đắc niết-bàn.

15.
và 16. Kinh Di-hê,
nói với các thầy Tỳ-kheo về 5 nhân
gần gũi bậc thiện tri thức và tu 4 pháp nhưbất tịnh quán
… để cho tâm giải thoátthuần thục.

VI.
Phẩm Vương Tương Ưng
gồm 14 kinh (phẩm Thượng gồm 7
kinh) :

1.Kinh
Thất Bảo
nói Chuyển luân
vương
ra đời thì có 7 báu xuất hiệnthế gian, còn đức
Như Lai
thì có của báu 7 giác chi.

2.Kinh
Tam Thập Nhị Tướng
nói
Chuyển luân vương có đủ 32 tướng đại nhân.

3.Kinh
Tứ
Châu
nói bản sanh Phật
làm vua Đảnh Sanh thống trị 4 châu mà vẫn không biết đủ.

4.Kinh
Ngưu Phẩn Dụ
nói về 3 thứ
nghiệp báobố thí của vua Đảnh Sanh, nhưng 5 uẩn vô thường

5.Kinh
Tần-bệ-ta-la Vương Nghinh Phật,

Phật vì vua Tần-bệ-ta-la nói các pháp 5 uẩn vô thường …,
nhà vua chứng quả, quy y.

6.Kinh
Bệ-bà-lăng-kỳ,
Phật Ca-diếp
vì vua Hiệp-bệ nói về hạnh của người thợ gốm Nan-đề-bà-la.

7.Kinh
Thiên Sứ
nói Diêm vương
trị tội kẻ tạo nghiệp ác với sự cật vấnquở trách
của 5 thiên sứ.

B.
Ngày thứ hai tụng 4 phẩm rưỡi, gồm có 52 kinh.

VI.
Phẩm Vương Tương Ưng
(phẩm Hạ gồm 7 kinh) :

8.Kinh
Ô Điểu Dụ
răn dạy các
thầy Tỳ-kheo đừng có dựa vàophi pháp mà sinh sống như
con rái cá …

9.Kinh
Thuyết Bản
nói về bản
sự
của ngài A-na-luật-đà do cúng dườngthức ăn cho vị
Bích-chi Phật mà 7 lần được sanh lên trời, và còn nói về
việc của vua Chuyển luân tên Loa ở đời vị lai và việc
của Phật Di-lặc.

10.Kinh
Đại Thiên Nại Lâm
nói về
việc con cháu của Chuyển luân vươngĐại Thiênđời đời
nối nhau xuất gia.

11.Kinh
Đại Thiện Kiến
nói về
việc ngày xưa vua Đại Thiện Kiến tu 4 vô lượng (từ,
bi, hỷ, xả
), 6 lần xả thân

12.Kinh
Tam Thập Dụ,
Phật vì ngài
Xá-lê Tử mà dùng sự trang sức của nhà vua và đại thần
để dụ cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni dùng giới đức để làm đồ
trang sức.

13.Kinh
Chuyển Luân Vương
nói Chuyển
luân vương
Kiên Niệm thành tựu 7 báu đắc 4 đức như ý,
cho đến Tỳ-kheo phải như Chuyển luân vương Loa lấy 4 niệm
xứ
làm cảnh giới

14.Kinh
Bệ-tứ
nói ngài Cưu-ma-la
Ca-diếp phá kiếnchấp khôngđời sau của vua Bệ-tứ.

VII.
Phẩm Trường Thọ Vương
gồm 15 kinh :

1.Kinh
Trường
Thọ Vương
Bản Khởi

nói về việc vua Trường Thọthái tửTrường Sanh tu hạnh
từ mẫn không cho giết người …

2.Kinh
Thiên
nói tu 8 hạnh được
quang minh sanh lên trời.

3.Kinh
Bát
Niệm
,
ngài A-na-luật-đà
nói đắc 8 suy niệm của bậc đại nhân.

4.
đến 7. Kinh Tịnh Bất Động Đạo, Kinh Úc-già-chi-la, Kinh
Ta-kê-đế Tam Tộc Tánh Tử, Kinh Phạm ThiênThỉnh Phật,
Phật
vì A-na-luật-đà … nói pháp ly dục

8.
Kinh
Hữu Thắng Thiên,
A-na-luật-đà nói về nghĩa của đại
tâm
vô lượng tâmcho đếnnhân quả của Quang Thiên, Tịnh
Quang, Biến Tịnh Quang Thiên.

9.
đến 15. Kinh Ca-hy-na, Kinh Niệm Thân, Kinh Chi-li-di-lê, Kinh Trưởng
Lão
Thượng Tôn Thùy Miên, Kinh Vô Thích, Kinh Chân Nhân, Kinh
Thuyết Xứ,
ngài A-na-luật-đà nói về pháp Ca-hy-na …

VIII.
Phẩm Uế
gồm
10 kinh :

1.Kinh
Uế
Phẩm,
ngài Xá-lê Tử
nói người đời có pháp ô uế và pháp không có ô uế.

2.Kinh
Cầu
Pháp
nói về 3 pháp đáng
chê
và 3 pháp đáng khen, lại nói Trung đạo đoạn dục tham
… làm cho tâm được an trúcho đến niết-bàn.

3.Kinh
Tỳ-kheo
Thỉnh,
ngài Mục-kiền-liên
nói về sự đắc thất khác nhau của người nói lời ngang
ngược và người nói lời hiền lành.

4.
và 5. Kinh Tri Pháp, Kinh Châu-na Vấn Kiến,
ngài Châu-na nói
các thí dụ về người biết pháp và người không biết pháp.

6.
Kinh Thanh BạchLiên Hoa Dụ
nói về pháp do thân miệng diệt
trừ
cho đến pháp do huệ kiếndiệt trừ.

7.
Kinh Thủy TịnhPhạm Chí
nói 21 thứ ô uế nơi tâm.

8.
đến 10. Kinh Hắc Tỳ-kheo, Kinh Trụ Pháp, Kinh Vô,
nói về
các pháp thiện, bất thiệncho đến pháp tịnh thạnh suy …

IX.
Phẩm Nhân
gồm 10 kinh :

1.Kinh
Đại
Nhân
nói rộng về pháp
duyên khởi
sâu xacho đến pháp 8 giải thoát.

2.Kinh
Niệm
Xứ
nói về 4 niệm
xứ
.

3.
và 4. Kinh Khổ Ấm
phân biệt các pháp dục nhiễmtội
lỗi
của nó.

5.
Kinh Tăng Thượng Tâm
nói thường quán niệm 5 tướng thì
được tăng thượng tâm.

6.Kinh
Niệm
nói về niệm dục, khuể, hại và niệm vô dục,
khuể, hại.

7.Kinh
Tử Hống
nói vô minh là gốc của các thọ, vô minh
hết thì tất cả thọ diệt.

8.Kinh
Ưu-đàm-bà-la
nói khổ hạnh
không thể gọi là pháp chánhgiải thoát.

9.Kinh
Nguyện
nói rộng về các
việc mà Tỳ-kheo nên mong cầu.

10.Kinh
Tưởng
nói chấp 4 đại (địa,
thủy, hỏa, phong
) thì không biết 4 đại, không chấp 4
đại thì biết 4 đại.

X.
Phẩm
Lâm
gồm 10 kinh :

1.
và 2. Kinh Lâm :
Kinh thứ nhất lấy việc Tỳ-kheo trụ ở
rừng có thể hay không thể đắc chánh niệm, định tâm, giải
thoát
, lậu tận, niết-bàn phối hợp với việc mưu cầu áo
chăn, thức uống ăn khó dễ thành 4 cặp so sánh, để chọn
lấy chỗ thuận tiện cho việc có thể đắc chánh niệmcho
đến
niết-bàn, xin được áo chăn, thức uống ăn dễ dàng
làm chỗ ở suốt đời để tu tập. Kinh thứ hai cũng dùng
4 cặp so sánh giống như kinh thứ nhất là nơi nào tìm cầu
dễ dàng các vật dụngcần thiết trợ giúp phương tiện
cho Sa-môn đạt đượccứu cánhgiải thoát thì Tỳ-kheo phải
trụ ở đó suốt đời để tu tập.

3.
và 4. Kinh Tự Quán Tâm
nói người đắc Chỉ Quán nên cầu
lậu tận.

5.
Kinh Đạt Phạm Hạnh
nói biết nguyên nhân của lậu thì
mới có thể dứt hết các khổ.

6.
Kinh A-nô-ba
nói Đề-bà-đạt-đa vì buông lung cho nên bị
đọa địa ngục.

7.
Kinh Chư Pháp Bổn
nói các pháp lấy dục làm gốc.

8.
và 9. Kinh Ưu-đà-la,
Kinh Mật Hoàn Dụ nói 3 thọ
là cội gốc của ung nhọt, 6 xúc xứ là tất cả lậu.

10.
Kinh Cù-đàm-di,
Phật chấp thuận cho bà Đại Ái Đạoxuất gia, nhân đó chế Bát kỉnh pháp.

C.
Ngày thứ ba tụng một phẩm rưỡi gồm có 35 kinh.

XI.
Phẩm Đại
gồm 25 kinh :

1.Kinh
Nhu
Nhuyến
nói Phật vì già,
bệnh, chết mà xuất gia.

2.Kinh
Long
Tượng
nói Phật là bậc
long tượng.

3.Kinh
Thuyết
Xứ
nói về 3 thuyết
xứ quá khứ, hiện tại, vị lai.

4.Kinh

Thường
nói quán 5 ấm
vô thường thì được chứng quả.

5.Kinh
Thỉnh
Thỉnh
nói Phật thọ
thân đời này là thân sau rốt.

6.Kinh
Chiêm-ba,
quở tráchtội phạm
giới.

7.Kinh
Sa-môn
Nhị Thập Ức
lấy
đàn cầm dụ cho tinh tấnchứng quả.

8.Kinh
Bát
Nạn
nói 8 nạn, 8 phi
thời
của người học đạo.

9.Kinh
Bần
Cùng
lấy không có của
cải
thiện pháp dụ cho nghèo nàn.

10.Kinh
Hành
Dục
nói về 10 loại
người hành dục.

11.Kinh
Phước Điền
nói về hai
hạng người phước điềnhữu họcvô học.

12.Kinh
Ưu-bà-tắc
nói Ưu-bà-tắc
giữ 5 giới, niệm Tam bảo thì có thể chứng quả.

13.Kinh
Oán Gia
nói giận hờn là
oán gia làm mất đi vẻ đẹp của người.

14.và
15.
Kinh Giáo Đàm-di, Kinh Hàng Ma,
do
tin
4 việc đức Như Lai nói cho nên xuất gia.

16.
Kinh Lại-tra-hòa-la
nói trong 3 nghiệp thì ý nghiệp là quan
trọng hơn hết.

17.
Kinh Ưu-ba-ly
nói việc ngài Ưu-ba-ly bỏ Ni-kiền Tử, theo
Phật.

18.
Kinh Thích Vấn
nói 8 chánh đạo phòng hộ 6 căn.

19.
Kinh Thiện Sanh,
Phật dạy Thiện Sanh pháp lễ bái 6 phương.

20.
Kinh Thương NhânCầu Tài
nói người chấp căn, trần, ấm,
giới là Ngã thì bị kiến chấp ấy làm hại.

21.
Kinh Thế Gian,
những điều Phật nói từ lúc thành đạo
đến nhập niết-bàn đều là sự thật.

22.
Kinh Phước
nói về phước báo của Phật do đã tu hạnh
từ mẫn 7 năm trong thời quá khứ.

23.
Kinh Tức Chỉ Đạo
nói Tỳ-kheo mới tu học phải thường
quán niệmbất tịnh để trừ tham dục.

24.
Kinh Chí Biên
nói muốn hết khổ thì phải tu pháp Sa-môn.

25.
Kinh Dụ
nói vô lượng pháp lành đều lấy không buông
lung
làm gốc, dụ như đất …

XII.
Phẩm Phạm Chí
gồm 20 kinh (phẩm Thượng có 10 kinh) :

1.Kinh

Thế
nói về 7 pháp không
suy và 6 pháp ủy lạo của Tỳ-kheo.

2.Kinh
Thương-ca-la,
Phật vì Ma-nạp
Thương-ca-la mà nói 3 pháp như ý túc thị hiện, chiêm niệm
thị hiệngiáo huấn thị hiện khiến cho ông ấy quy y.

3.Kinh
Toán
Số Mục-kiền-liên,
Phật
Phạm chí Toán Số Mục-kiền-liên mà nói về trình tự
tiến tuPhật pháp.

4.Kinh
Cù-mặc
Mục-kiền-liên,
ngài
A-nan vì Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên mà nói không có
một thầy Tỳ-kheo nào bằng với đức Thế Tôn.

5.Kinh
Tượng
Tích Dụ,
Phật vì
Phạm chí Sanh Văn mà nói từ xuất gia, gìn giữ các căn đến
chứng quảvô lậu mới là dấu chân của con voi cực lớn.

6.Kinh
Văn
Đức,
Phật vì Phạm
chí
Sanh Văn mà nói về công đứcsai biệt của bác văn tụng
tập, từ xuất gia đến chứng tịch diệt niết-bàn.

7.và
8.
Kinh Hà Khổ, Kinh Hà Dục,
đức Phậttrả lời câu hỏi của Phạm chí Sanh Văn về việc
khổ vui của người tại gia.

9.
và 10. Kinh Uất-sấu-ca-la, Kinh A-nhiếp-hòa
nói về sự
bình đẳng của 4 giai cấp.

D.
Ngày thứ tư tụng 3 phẩm gồm có 36 kinh.

XII.
Phẩm Phạm Chí
(phẩm Hạ có 10 kinh) :

11.Kinh
Anh Võ,
Phạm chíAnh Võ
phân biệt việc tại gia, xuất gia, còn nói về 5 món ngăn
che và pháp từ tâm khởi.

12.Kinh
Man-nhàn-đề,
vì kẻ dị
đạo tên Man-nhàn-đề mà nói về pháp ly dục.

13.Kinh
Bà-la-bà-đường,
đức Phật
vì 2 vị Phạm chí Bà-tư-tra và Bà-la-bà nói về lai lịch
nghiệp báo của 4 giai cấpbình đẳng.

14.Kinh
Tu-đạt-đa,
Phật vì cư sĩ
Tu-đạt-đa mà nói về sự sai biệt của tâm bố thí.

15.Kinh
Phạm Ba-la-diên
nói ngày nay
Phạm chí đã vượt pháp Phạm chí.

16.Kinh
Hoàng
Lô Viên
nói không đắm,
không sợ 5 dục, chứng 4 thiền, 3 minh mới không nhập thai.

17.Kinh
Đầu-na,
Phật vì Phạm chí
Đầu-na mà nói về 5 pháp Phạm chí.

18.Kinh
A-già-la-ha-na,
Phật đáp câu
hỏi của Phạm chí A-già-la-ha-na về kinh điểndựa vàocon
người
để tồn tại, lần lượtcho đếndựa vào niết-bàn.

19.Kinh
A-lan-na,
Phật vì Phạm chí
A-lan-na xuất gia mà nói pháp vô thườnglợi íchvô lượng.

20.Kinh
Phạm-ma
nói Phạm chí Phạm-ma
và Ma-nạp Ưu-đa-la thấy Phật tướng hảophát tâmxuất
gia
.

XIII.
Phẩm Căn BảnPhân Biệt
gồm 10 kinh :

1.và
2.
Kinh Phân BiệtLục Giới, Kinh Phân BiệtLục Xứ
phân biệt các pháp 6 giới tụ, 6 xúc xứ, 18 ý hành…

3.Kinh
Phân Biệt
Quán Pháp,
phân biệtquán pháp, tâm tán loạn
hay không tán loạn.

4.
và 5. Kinh Ôn Tuyền Lâm Thiên và Kinh Thích Trung Thiền Thất
Tôn
nói Phật không nghĩ quá khứvị lai thường nói kệ
Bạt-địa-la-đế, ngài Ca-chiên-diên dùng căn trần để giảng
rộng.

6.
Kinh A-nan Thuyết,
ngài A-nan nói kệ Bạt-địa-la-đế và
ý nghĩa của kệ này, được Phật ấn khả.

7.
Kinh Ý Hành
nói 8 định, 8 thiên xứ đều lấy diệt định
làm hơn hết.

8.
Kinh Câu-lâu-sấu Vô Tránh,
phân biệt pháp tranh cãi và
không tranh cãi.

9.
Kinh Anh Võ
phân biệt pháp nghiệp báosai biệt.

10.
Kinh Phân Biệt Đại Nghiệp
phân biệt sự sai biệt của
lúc thọ 3 thứ nghiệp báo.

XIV.
Phẩm Tâm
gồm 10 kinh :

1.Kinh
Tâm
nói tâm dẫn thế gian
đi, tâm đắm nhiễm, tâm khởi tự tại

2.Kinh
Phù-di
nói về phạm hạnhtà chánhđắc quả hay không.

3.
và 4. Kinh Thọ Pháp
nói về hiện tại khổ về sau vui,
hiện tại vui về sau khổ, hiện tại khổ về sau khổ, hiện
tại
vui về sau vui.

5.
Kinh Hành Thiền,
phân biệt 4 loại hành thiền thạnh suy

6.
Kinh Thuyết
nói về nghĩa thoái trụ trong 8 định và lậu
tận
.

7.
Kinh Lạp Sư,
tu 4 thiền có thể thoát ma cảnh.

8.
Kinh Ngũ Chi Vật Chủ
nói Đệ nhất nghĩa sa-môn đủ 8
chánh đạo phải biết thiện giới, bất thiện giới …

9.
Kinh Cù-đàm-di
nói về bố thí và thọ nhận thanh tịnh
và không thanh tịnh.

10.
Kinh Đa Giới
nói biết giới,
xứ duyên khởitrí huệ, lại nói 18 giới và 62 giới.

XV.
Phẩm Song
gồm 10 kinh (phẩm Thượng có 6 kinh) :

1.
và 2. Kinh Mã Ấp
nói pháp Sa-môn cần phải 3 nghiệp thanh
tịnh thành
tựu thiền địnhcho đếnlậu tận.

3.Kinh
Ngưu
Giác Sa-la Lâm, thượng,
người
thích như ý đạo là Đại Mục-kiền-liên, người thích hạnh
Đầu-đà là Đại Ca-diếp, người luận nghị là Ca-chiên-diên,
người thành tựuthiên nhãn là A-na-luật-đà, người tu thiền
là Ly-việt-đa, người đa văn là A-nan theo sự hiểu biết
của mình mà đáp lại lời hỏi của ngài Xá-lê Tử về sở
đắc tu hành.

4.Kinh
Ngưu
Giác Sa-la Lâm, hạ,
ngài
A-na-luật .… nói tu 4 thiền, 4 vô lượngpháp thượng
nhân.

5.Kinh
Cầu
Giải
nói do thấy sắc
nghe tiếng mà hiểu được, biết được pháp Như Lai.

6.Kinh
Thuyết
Trí,
hỏi đáp với
Tỳ-kheo phạm hạnh đã lập về tri kiến 5 ấm, 4 thực, 4
thuyết….

E.
Ngày thứ năm tụng 3 phẩm rưỡi, gồm 35 kinh :

XV.
Phẩm Song
(phẩm Hạ có 4 kinh) :

7.Kinh
A-di-na
nói về tri kiến của
chúng đúng pháp và chúng phi pháp.

8.Kinh
Thánh Đạo
nói 8 thánh đạo
và 10 chi chánh giải thoát, chánh trí …. theo sự tu đoạn
đúng sai mà thành 40 pháp thiệnbất thiện.

9.Kinh
Tiểu
Không
nói hànhchân
thật
Không thì không điên đảo, không khởi tưởng về người,
về thôn xóm, về vô sự cho đến không trụ vào định
tưởng
.

10.Kinh
Đại Không
,
người muốn
hành Không phải tu phápnội không, ngoại không, nội ngoại
không
, pháp bất động.

XVI.
Phẩm Hậu Đại
gồm 10 kinh :

1.Kinh
Ca-lâu-ô-đà-di
ngợi khen
người bỏ việc ăn quá ngọ.

2.Kinh
Mâu-lê-phá-quần-na
nói người
xuất gia phải tu tập vô dục, từ, bi, hỷ, xả …

3.Kinh
Bạt-đà-hòa-lợi
khen ngơi
pháp nhất tọa thực.

4.Kinh
A-thấp-bối
quở trách việc
ăn quá ngọ.

5.đến
7.
Kinh Châu-na, Kinh Ưu-ba-ly, Kinh Điều Ngự Địa

nói về tu hànhbất phóng dật, 6 tịnh bản, 7 diệt pháp,
7 diệt tịnh, như pháp, bất như pháp

8.Kinh
Si
Huệ Địa
nói về các
tướng quả báo khổ vui của ngu sitrí huệ.

9.Kinh
A-lê-tra
nói pháp dục làm
chướng đạo.

10.Kinh
Trà-đế
nói về 12 duyên
khởi
.

XVII.
Phẩm Bô-lợi-đa
gồm 10 kinh :

1.Kinh
Trì
Trai
nói nên trì bát quan
trai và tu 5 niệm : niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm
Thí
, niệm Thiên.

2.Kinh
Bô-lợi-đa,
Phật vì cư sĩ
Bô-lợi-đa mà nói về 8 chi là lìa sát sanh …, cắt đứt
các việc thế tục.

3.Kinh
La-ma
nói cầu pháp niết-bàn
an ổn không bệnh là thánh cầu, cầu pháp bệnh là chẳng
phải Thánh cầu.

4.Kinh
Ngũ Hạ Phần Kiết
nói nương
vào đạo để đoạn trừ 5 phần kiết sử bậc hạ.

5.Kinh
Tâm Uế
dẹp mối nghi về
ô uế trong 5 thứ tâm, cởi mở sự trói buộc trong 5 thứ
tâm, đấy là pháp thanh tịnh của Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni.

6.Kinh
Tiễn Mao,
Phật vì kẻ dị
học
tên Tiễn Mao mà nói Phật dùng 5 pháp là vô thượng giới…
khiến cho đệ tửcung kính, không rời.

7.Kinh
Tiễn Mao,
Phật vì kẻ dị
học
tên Tiễn Mao mà nói về thiên nhãntúc mạng thông.

8.Kinh
Bệ-ma-na-tu
nói người không
dua dối theo sự giáo hóa của Phật ắt đắc chánh pháp.

9.Kinh
Pháp
Lạc Tỳ-kheo-ni,
Tỳ-kheo-ni
Pháp Lạc đáp lời hỏi pháp của Ưu-bà-di Tỳ-xá-khư.

10.Kinh
Đại Câu-hy-la,
ngài Câu-hy-la
đáp lời hỏi pháp của ngài Xá-lợi-phất.

XVIII.
Phẩm Lệ
gồm 11 kinh :

1.Kinh
Nhất
Thiết Trí
,
Phật vì
vua Ba-tư-nặc mà nói về 4 giai cấpthành tựu 5 đoạn chi,
đời sausai biệt.

2.Kinh
Pháp
Trang Nghiêm
,
vua Ba-tư-nặc
ngợi khen các pháp Phật thanh tịnh.

3.Kinh
Bệ-ha-đề,
Phật nói pháp
thiện
, các đệ tử hướng thiện, Phật hành thiện không
bị Sa-môn Phạm chíthông minhtrí huệ và người đời ghen
ghét
.

4.Kinh
Đệ
Nhất Đắc,
nói đệ
tử
không muốn pháp đổi khác, chỉ nên truyền bárộng rãi
8 chánh đạo.

5.Kinh
Ái
Sanh
nói lúc sanh ái thì
sanh ra buồn khổ.

6.Kinh
Bát
Thành,
ngài A-nan vì
Bát Thành mà nói 12 thiền.

7.Kinh
A-na-luật-đà
nói Tỳ-kheo
đắc 4 thiền và lậu tận chết được an lành.

8.Kinh
A-na-luật-đà,
ngài A-na-luật-đà
nói Tỳ-kheo tri kiếnchất trực, tu niệm xứ, 4 vô lượng
chết không bị phiền nhiệt.

9.và
10.
Kinh Kiến, Kinh Tiễn Dụ,
Phật
luôn luôn nói hữu thường, vô thường, nhưng không phải bao
giờ cũng nói thế gian hữu thường.

11.
Kinh Lệ
nói muốn đoạn trừ vô minhcho đến già chết,
thấu rõ vô minhcho đến già chết thì phải tu 37 bồ-đề
phần
, 10 nhất thiết xứ, 10 pháp vô học.

Các
kinh A-hàm được các bộ phái trong Thanh văn thừa truyền đều
có sai khác. Kinh Trung A-hàm bản dịch đời Phù Tần được
truyền từ bộ phái nào, từ trước đến nay chưa có ý kiếnnhất trí. Nhưng bản dịch đầu tiên của kinh này cùng với
Kinh Tăng Nhất A-hàm cùng một người dịch là Đàm-ma-nan-đề,
còn bản dịch hiện nay do Tăng-già-la-xoa đọc bản Phạn,
Tăng-già-đề-bà chuyển dịch Phạn Hán, hai vị này đều
là người ở nước Kế Tân, căn cứ địa của Hữu Bộ.
Ngoài ra, Tăng-già-đề-bà còn có dịch Luận A-tỳ-đàm Bát
Kiền-độ (tức Luận Phát Trí), ngài Tăng-già-la-xoa
dịch tiếp thành ra bộ mà sau này ngài La-thập dịch lại
mang tên Luật Thập Tụng, đều là những tác phẩmtrọng
yếu
của Hữu Bộ. Kết cấu của kinh này và bản dịch Tây
Tạng
Trung A-hàm Hữu Bộ mà ngài Chỉ Thiên dẫn dụng trong
Câu-xá Luận Sớ Yếu Dụng Luận cực kỳ tương tự. Xét
từ các phương diện kể trên, kinh này có thể là truyền
bản của Hữu Bộ.

Toàn
bộ
bản Phạn của kinh này dường như đã tán thất, những
năm trước đây ở vùng Tân Cương phát hiện được bản
Phạn 3 kinh lẻ tương đương với Kinh Thỉnh Thỉnh (kinh 121),
Kinh Ưu-ba-ly (kinh 133), Kinh Anh Võ (kinh 170) của bộ Kinh Trung
A-hàm này.

Trước
và sau khi kinh này được dịch trọn bộ, thì bản dịch riêng
lẻ rất nhiều, hiện còn 73 kinh. Trong đại bộ kinh của Tây
Tạng
thì kinh lẻ tương đương với kinh này chỉ có 5 kinh.
Đối chiếubản kinh này với Kinh Trung Bộ tiếng Pàli của
Nam truyền, trong 222 kinh chỉ có 96 kinh tương đồng. Bởi kinh
này thu tập các kinh dài ngắn không hoàn toàn trung bình, vì
thế tại bản Pàli Nam truyền cũng có hơn 90 kinh được thu
tập vào các bộ khác. Các kinh trong kinh này thấy trong Trường
Bộ
có 9 kinh, trong Tăng Chi Bộ có 76 kinh, trong Tương Ưng Bộ
RGIN: 6pt 0cm 0pt 58.4pt; TEXT-INDENT: -17.85pt; LINE-HEIGHT: 19pt; mso-line-height-rule:
exactly; tab-stops: 40.5pt list 58.5pt; mso-list: l1 level1 lfo28″>2.Kinh
Thương-ca-la,
Phật vì Ma-nạp Thương-ca-la mà nói 3 pháp
như
ý túc thị hiện, chiêm niệm thị hiệngiáo huấn
thị hiện
khiến cho ông ấy quy y.

3.Kinh
Toán
Số Mục-kiền-liên,
Phật
Phạm chí Toán Số Mục-kiền-liên mà nói về trình tự
tiến tuPhật pháp.

4.Kinh
Cù-mặc
Mục-kiền-liên,
ngài
A-nan vì Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên mà nói không có
một thầy Tỳ-kheo nào bằng với đức Thế Tôn.

5.Kinh
Tượng
Tích Dụ,
Phật vì
Phạm chí Sanh Văn mà nói từ xuất gia, gìn giữ các căn đến
chứng quảvô lậu mới là dấu chân của con voi cực lớn.

6.Kinh
Văn
Đức,
Phật vì Phạm
chí
Sanh Văn mà nói về công đứcsai biệt của bác văn tụng
tập, từ xuất gia đến chứng tịch diệt niết-bàn.

7.và
8.
Kinh Hà Khổ, Kinh Hà Dục,
đức Phậttrả lời câu hỏi của Phạm chí Sanh Văn về việc
khổ vui của người tại gia.

9.
và 10. Kinh Uất-sấu-ca-la, Kinh A-nhiếp-hòa
nói về sự
bình đẳng của 4 giai cấp.

D.
Ngày thứ tư tụng 3 phẩm gồm có 36 kinh.

XII.
Phẩm Phạm Chí
(phẩm Hạ có 10 kinh) :

11.Kinh
Anh Võ,
Phạm chíAnh Võ
phân biệt việc tại gia, xuất gia, còn nói về 5 món ngăn
che và pháp từ tâm khởi.

12.Kinh
Man-nhàn-đề,
vì kẻ dị
đạo tên Man-nhàn-đề mà nói về pháp ly dục.

13.Kinh
Bà-la-bà-đường,
đức Phật
vì 2 vị Phạm chí Bà-tư-tra và Bà-la-bà nói về lai lịch
nghiệp báo của 4 giai cấpbình đẳng.

14.Kinh
Tu-đạt-đa,
Phật vì cư sĩ
Tu-đạt-đa mà nói về sự sai biệt của tâm bố thí.

15.Kinh
Phạm Ba-la-diên
nói ngày nay
Phạm chí đã vượt pháp Phạm chí.

16.Kinh
Hoàng
Lô Viên
nói không đắm,
không sợ 5 dục, chứng 4 thiền, 3 minh mới không nhập thai.

17.Kinh
Đầu-na,
Phật vì Phạm chí
Đầu-na mà nói về 5 pháp Phạm chí.

18.Kinh
A-già-la-ha-na,
Phật đáp câu
hỏi của Phạm chí A-già-la-ha-na về kinh điểndựa vàocon
người
để tồn tại, lần lượtcho đếndựa vào niết-bàn.

19.Kinh
A-lan-na,
Phật vì Phạm chí
A-lan-na xuất gia mà nói pháp vô thườnglợi íchvô lượng.

20.Kinh
Phạm-ma
nói Phạm chí Phạm-ma
và Ma-nạp Ưu-đa-la thấy Phật tướng hảophát tâmxuất
gia
.

XIII.
Phẩm Căn BảnPhân Biệt
gồm 10 kinh :

1.và
2.
Kinh Phân BiệtLục Giới, Kinh Phân BiệtLục Xứ
phân biệt các pháp 6 giới tụ, 6 xúc xứ, 18 ý hành…

3.Kinh
Phân Biệt
Quán Pháp,
phân biệtquán pháp, tâm tán loạn
hay không tán loạn.

4.
và 5. Kinh Ôn Tuyền Lâm Thiên và Kinh Thích Trung Thiền Thất
Tôn
nói Phật không nghĩ quá khứvị lai thường nói kệ
Bạt-địa-la-đế, ngài Ca-chiên-diên dùng căn trần để giảng
rộng.

6.
Kinh A-nan Thuyết,
ngài A-nan nói kệ Bạt-địa-la-đế và
ý nghĩa của kệ này, được Phật ấn khả.

7.
Kinh Ý Hành
nói 8 định, 8 thiên xứ đều lấy diệt định
làm hơn hết.

8.
Kinh Câu-lâu-sấu Vô Tránh,
phân biệt pháp tranh cãi và
không tranh cãi.

9.
Kinh Anh Võ
phân biệt pháp nghiệp báosai biệt.

10.
Kinh Phân Biệt Đại Nghiệp
phân biệt sự sai biệt của
lúc thọ 3 thứ nghiệp báo.

XIV.
Phẩm Tâm
gồm 10 kinh :

1.Kinh
Tâm
nói tâm dẫn thế gian
đi, tâm đắm nhiễm, tâm khởi tự tại

2.Kinh
Phù-di
nói về phạm hạnhtà chánhđắc quả hay không.

3.
và 4. Kinh Thọ Pháp
nói về hiện tại khổ về sau vui,
hiện tại vui về sau khổ, hiện tại khổ về sau khổ, hiện
tại
vui về sau vui.

5.
Kinh Hành Thiền,
phân biệt 4 loại hành thiền thạnh suy

6.
Kinh Thuyết
nói về nghĩa thoái trụ trong 8 định và lậu
tận
.

7.
Kinh Lạp Sư,
tu 4 thiền có thể thoát ma cảnh.

8.
Kinh Ngũ Chi Vật Chủ
nói Đệ nhất nghĩa sa-môn đủ 8
chánh đạo phải biết thiện giới, bất thiện giới …

9.
Kinh Cù-đàm-di
nói về bố thí và thọ nhận thanh tịnh
và không thanh tịnh.

10.
Kinh Đa Giới
nói biết giới, xứ duyên khởitrí huệ,
lại nói 18 giới và 62 giới.

XV.
Phẩm Song
gồm 10 kinh (phẩm Thượng có 6 kinh) :

1.
và 2. Kinh Mã Ấp
nói pháp Sa-môn cần phải 3 nghiệp thanh
tịnh thành
tựu thiền địnhcho đếnlậu tận.

3.Kinh
Ngưu
Giác Sa-la Lâm, thượng,
người
thích như ý đạo là Đại Mục-kiền-liên, người thích hạnh
Đầu-đà là Đại Ca-diếp, người luận nghị là Ca-chiên-diên,
người thành tựuthiên nhãn là A-na-luật-đà, người tu thiền
là Ly-việt-đa, người đa văn là A-nan theo sự hiểu biết
của mình mà đáp lại lời hỏi của ngài Xá-lê Tử về sở
đắc tu hành.

4.Kinh
Ngưu
Giác Sa-la Lâm, hạ,
ngài
A-na-luật .… nói tu 4 thiền, 4 vô lượngpháp thượng
nhân.

5.Kinh
Cầu
Giải
nói do thấy sắc
nghe tiếng mà hiểu được, biết được pháp Như Lai.

6.Kinh
Thuyết
Trí,
hỏi đáp với
Tỳ-kheo phạm hạnh đã lập về tri kiến 5 ấm, 4 thực, 4
thuyết….

E.
Ngày thứ năm tụng 3 phẩm rưỡi, gồm 35 kinh :

XV.
Phẩm Song
(phẩm Hạ có 4 kinh) :

7.Kinh
A-di-na
nói về tri kiến của
chúng đúng pháp và chúng phi pháp.

8.Kinh
Thánh Đạo
nói 8 thánh đạo
và 10 chi chánh giải thoát, chánh trí …. theo sự tu đoạn
đúng sai mà thành 40 pháp thiệnbất thiện.

9.Kinh
Tiểu
Không
nói hànhchân
thật
Không thì không điên đảo, không khởi tưởng về người,
về thôn xóm, về vô sự cho đến không trụ vào định
tưởng
.

10.Kinh
Đại Không
,
người muốn
hành Không phải tu phápnội không, ngoại không, nội ngoại
không
, pháp bất động.

XVI.
Phẩm Hậu Đại
gồm 10 kinh :

1.Kinh
Ca-lâu-ô-đà-di
ngợi khen
người bỏ việc ăn quá ngọ.

2.Kinh
Mâu-lê-phá-quần-na
nói người
xuất gia phải tu tập vô dục, từ, bi, hỷ, xả …

3.Kinh
Bạt-đà-hòa-lợi
khen ngơi
pháp nhất tọa thực.

4.Kinh
A-thấp-bối
quở trách việc
ăn quá ngọ.

5.đến
7.
Kinh Châu-na, Kinh Ưu-ba-ly, Kinh Điều Ngự Địa

nói về tu hànhbất phóng dật, 6 tịnh bản, 7 diệt pháp,
7 diệt tịnh, như pháp, bất như pháp

8.Kinh
Si
Huệ Địa
nói về các
tướng quả báo khổ vui của ngu sitrí huệ.

9.Kinh
A-lê-tra
nói pháp dục làm
chướng đạo.

10.Kinh
Trà-đế
nói về 12 duyên
khởi
.

XVII.
Phẩm Bô-lợi-đa
gồm 10 kinh :

1.Kinh
Trì
Trai
nói nên trì bát quan
trai và tu 5 niệm : niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm
Thí
, niệm Thiên.

2.Kinh
Bô-lợi-đa,
Phật vì cư sĩ
Bô-lợi-đa mà nói về 8 chi là lìa sát sanh …, cắt đứt
các việc thế tục.

3.Kinh
La-ma
nói cầu pháp niết-bàn
an ổn không bệnh là thánh cầu, cầu pháp bệnh là chẳng
phải Thánh cầu.

4.Kinh
Ngũ Hạ Phần Kiết
nói nương
vào đạo để đoạn trừ 5 phần kiết sử bậc hạ.

5.Kinh
Tâm Uế
dẹp mối nghi về
ô uế trong 5 thứ tâm, cởi mở sự trói buộc trong 5 thứ
tâm, đấy là pháp thanh tịnh của Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni.

6.Kinh
Tiễn Mao,
Phật vì kẻ dị
học
tên Tiễn Mao mà nói Phật dùng 5 pháp là vô thượng giới…
khiến cho đệ tửcung kính, không rời.

7.Kinh
Tiễn Mao,
Phật vì kẻ dị
học
tên Tiễn Mao mà nói về thiên nhãntúc mạng thông.

8.Kinh
Bệ-ma-na-tu
nói người không
dua dối theo sự giáo hóa của Phật ắt đắc chánh pháp.

9.Kinh
Pháp
Lạc Tỳ-kheo-ni,
Tỳ-kheo-ni
Pháp Lạc đáp lời hỏi pháp của Ưu-bà-di Tỳ-xá-khư.

10.Kinh
Đại Câu-hy-la,
ngài Câu-hy-la
đáp lời hỏi pháp của ngài Xá-lợi-phất.

XVIII.
Phẩm Lệ
gồm 11 kinh :

1.Kinh
Nhất
Thiết Trí
,
Phật vì
vua Ba-tư-nặc mà nói về 4 giai cấpthành tựu 5 đoạn chi,
đời sausai biệt.

2.Kinh
Pháp
Trang Nghiêm
,
vua Ba-tư-nặc
ngợi khen các pháp Phật thanh tịnh.

3.Kinh
Bệ-ha-đề,
Phật nói pháp
thiện
, các đệ tử hướng thiện, Phật hành thiện không
bị Sa-môn Phạm chíthông minhtrí huệ và người đời ghen
ghét
.

4.Kinh
Đệ
Nhất Đắc,
nói đệ
tử
không muốn pháp đổi khác, chỉ nên truyền bárộng rãi
8 chánh đạo.

5.Kinh
Ái
Sanh
nói lúc sanh ái thì
sanh ra buồn khổ.

6.Kinh
Bát
Thành,
ngài A-nan vì
Bát Thành mà nói 12 thiền.

7.Kinh
A-na-luật-đà
nói Tỳ-kheo
đắc 4 thiền và lậu tận chết được an lành.

8.Kinh
A-na-luật-đà,
ngài A-na-luật-đà
nói Tỳ-kheo tri kiếnchất trực, tu niệm xứ, 4 vô lượng
chết không bị phiền nhiệt.

9.và
10.
Kinh Kiến, Kinh Tiễn Dụ,
Phật
luôn luôn nói hữu thường, vô thường, nhưng không phải bao
giờ cũng nói thế gian hữu thường.

11.
Kinh Lệ
nói muốn đoạn trừ vô minhcho đến già chết,
thấu rõ vô minhcho đến già chết thì phải tu 37 bồ-đề
phần
, 10 nhất thiết xứ, 10 pháp vô học.

Các
kinh A-hàm được các bộ phái trong Thanh văn thừa truyền đều
có sai khác. Kinh Trung A-hàm bản dịch đời Phù Tần được
truyền từ bộ phái nào, từ trước đến nay chưa có ý kiếnnhất trí. Nhưng bản dịch đầu tiên của kinh này cùng với
Kinh Tăng Nhất A-hàm cùng một người dịch là Đàm-ma-nan-đề,
còn bản dịch hiện nay do Tăng-già-la-xoa đọc bản Phạn,
Tăng-già-đề-bà chuyển dịch Phạn Hán, hai vị này đều
là người ở nước Kế Tân, căn cứ địa của Hữu Bộ.
Ngoài ra, Tăng-già-đề-bà còn có dịch Luận A-tỳ-đàm Bát
Kiền-độ (tức Luận Phát Trí), ngài Tăng-già-la-xoa
dịch tiếp thành ra bộ mà sau này ngài La-thập dịch lại
mang tên Luật Thập Tụng, đều là những tác phẩmtrọng
yếu
của Hữu Bộ. Kết cấu của kinh này và bản dịch Tây
Tạng
Trung A-hàm Hữu Bộ mà ngài Chỉ Thiên dẫn dụng trong
Câu-xá Luận Sớ Yếu Dụng Luận cực kỳ tương tự. Xét
từ các phương diện kể trên, kinh này có thể là truyền
bản của Hữu Bộ.

Toàn
bộ
bản Phạn của kinh này dường như đã tán thất, những
năm trước đây ở vùng Tân Cương phát hiện được bản
Phạn 3 kinh lẻ tương đương với Kinh Thỉnh Thỉnh (kinh 121),
Kinh Ưu-ba-ly (kinh 133), Kinh Anh Võ (kinh 170) của bộ Kinh Trung
A-hàm này.

Trước
và sau khi kinh này được dịch trọn bộ, thì bản dịch riêng
lẻ rất nhiều, hiện còn 73 kinh. Trong đại bộ kinh của Tây
Tạng
thì kinh lẻ tương đương với kinh này chỉ có 5 kinh.
Đối chiếubản kinh này với Kinh Trung Bộ tiếng Pàli của
Nam truyền, trong 222 kinh chỉ có 96 kinh tương đồng. Bởi kinh
này thu tập các kinh dài ngắn không hoàn toàn trung bình, vì
thế tại bản Pàli Nam truyền cũng có hơn 90 kinh được thu
tập vào các bộ khác. Các kinh trong kinh này thấy trong Trường
Bộ
có 9 kinh, trong Tăng Chi Bộ có 76 kinh, trong Tương Ưng Bộ
có 76 kinh.

(Trích dịch từ
TRUNG QUỐC PHẬT GIÁO tập 3)