Khái Quát Lịch Sử Truyền Bá Kinh Điển Và Những Đặc Điểm Của Kinh Tạng Nikaya

KHÁI QUÁT LỊCH SỬTRUYỀN BÁKINH ĐIỂN
VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA KINH TẠNG NIKAYA

Thích Viên Giác

Kinh tạng Nikàya, Pàli và A-hàm Hán tạng là những bộ kinh thuộc Phật giáotruyền thống, còn gọi là Kinh tạngNguyên thủy. Đó là những bộ kinh chứa đựng những gì Đức Phật đã dạy suốt trong 45 năm truyền giáo, gồm những giáo lý căn bản như Tứ diệu đế, Duyên khởi, Vô ngã… Các nhà nghiên cứuPhật học, các Sử gia đều coi Kinh tạngNguyên thủytài liệuđáng tin cậy nhất và gần gũi nhất để xác định những gì mà Đức Phậttuyên thuyết.

Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn 3 tháng, một đại hội được triệu tập để tụng đọc lại những lời Đức Phật dạy nhằm giữ gìn kho tàng Pháp bảo. Đây là lần kiết tậpkinh điển đầu tiên.

Sau khi Phật nhập diệt 100 năm, một đại hội khác được triệu tập để minh định lại những gì là đúng với lời Phật dạy và những gì đi lệch hướng; chủ yếu là một vài vấn đề tranh cãi về giới luật, có 10 điều mới phát sinh : Diêm tịnh, chỉ tịnh, tụ lạc gian tịnh, trụ xứ tịnh, tùy ý tịnh, cửu trụ tịnh, sinh hòa hiệp tịnh, bất ích lũ ni sư đàn tịnh, thủy tịnh, kim tiền tịnh. Những vị cho 10 điều trên là phi pháp đã tách riêng thành Thượng tọa bộ, những vị chủ trương thực hiện 10 điều cải cách thì tách riêng thành Đại chúng bộ – Sự phân chia đầu tiên của giáo đoànPhật giáo. Những kinh điển của cả hai bộ phái vẫn là kinh điểnNguyên thủy và vẫn duy trì bằng phương thức đọc tụng thuộc lòng chứ không viết thành văn. Đây là lần kiết tậpkinh điển thứ hai.

Lần kiết tậpkinh điển thứ ba vào khoảng năm 200 đến 234 năm sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn. Hai bộ phái chính là Thượng tọaĐại chúng sản sinh ra nhiều bộ phái, gồm khoảng 20 bộ phái. Giáo lý được giải thíchtùy theo khuynh hướng của bộ phái. Trong đó, Đại Thiên (Mahadeva), một học giảPhật tử khá nổi tiếng đã đưa ra 5 điều giới hạn của quả vị A-la-hán : Dư sở dụ, vô tri, do dự, tha linh nhập và đạo nhân thanh cố khởi. Điều đó làm mọi người hoang mang. Từ ảnh hưởng chủ trương của Đại Thiên và mặt khác – ảnh hưởng của giáo nghĩa Bà-la-môn lẫn lộn vào giáo lýPhật giáo, vua A-dục quyết địnhủng hộtriệu tậpđại hộiPhật giáo dưới sự chủ tọa của ngài Moggalipputta Tissa, thầy của vua A-dục. Kỳ này gọi là lần kiết tập thứ ba, chấn chỉnh lại sự pha tạp trong giáo lý. Thượng tọa bộ lúc bấy giờ được gọi là Phân biệt thuyết bộ (Vibhajyavada), được vua A-dục đỡ đầu và ủng hộ mạnh mẽ. Phân biệt thuyết bộ là cha đẻ của Đồng diệp bộ, chính Đồng diệp bộ (Tamrasatiyah) đã kiết tập 5 bộ Nikàya rất đầy đủ. Năm bộ Nikàya này được hoàng tử Mahinda sau khi xuất gia đem khẩu truyềnTích Lan.

Một hệ phái khác khá mạnh cũng phát xuất từ Thượng tọa bộ là phái Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada) không được vua A-dục ủng hộ vì họ chủ trương luận lý hơn là kinh luật. Họ chuyển dần lên Đông bắc Ấn, đặt căn cứ địa tại Ca-thấp-di-la (Kasmira), dần dần họ truyền báchánh pháp toàn cõi biên cương phía Bắc và sang các nước lân cận. Đến đời vua Ca-nị-sắc-ca (Kaniskha), nhà vua hết lòngủng hộ và tổ chức đại hộikiết tậpkinh điển. Đây được coi như lần kiết tậpkinh điển thứ tư, vào khoảng đầu thế kỷ thứ II sau TL. Truyền thốngPhật giáoBắc tông được truyền bá từ phái này qua 4 bộ A-hàm, Luật tạng và một số luận thư. Kỳ kiết tập này mới được chép thành văn.

Riêng 5 bộ Nikàya được Mahinda mang qua Tích Lan vẫn giữ phong cách truyền khẩucho đến khi một đại hộikiết tập được tổ chức tại Tích Lan ở làng Aluvihata. Đây là lần đầu tiên 3 tạng Pàli được chép bằng chữ trên lá buông vào năm 83 trước TL. Lần này gọi là lần kiết tậpkinh điển thứ tư (Kinh tạng Nikàya).

CÁC BỘ A-HÀM VÀ NIKÀYA

1. A-hàm (Agama) dịch là Pháp quy hay Vô tỷ pháp, gồm có 4 bộ :
a/. Trường A-hàm (Dirghagama) 22 quyển, do ngài Phật-đà-da-xá (Buddhayasas) và Trúc Phật Niệm dịch (412 TL, y cứPháp tạng bộ).
b/. Trung A-hàm (Madhyamagama) 60 quyển, do ngài Tăng-già-đề-bà (Sanghadeva) dịch vào khoảng năm 397 TL. Bộ này là nền tảng của Hữu bộ.
c/. Tạp A-hàm (Samyukta-agama) 50 quyển, do ngài Cầu-na-bạt-đà-la (Gunabhadra) dịch năm 435 TL (y cứ của Hữu bộ).
d/. Tăng Nhất A-hàm (Ekottara-agama) 50 quyển.
2. Nikàya bộ gồm 5 quyển :
a/. Trường bộ kinh (Dìgha – Nikàya)
b/. Trung bộ kinh (Majhima – Nikàya).
c/. Tương ưng bộ kinh (Samyutta – Nikàya).
d/. Tăng chi bộ kinh (Angttara – Nikàya).
e/. Tiểu bộ kinh (Khuddaka – Nikàya).

TRƯỜNG A-HÀM tương đương với TRƯỜNG BỘ – chép những bài pháp dài.

TRUNG A-HÀM và TRUNG BỘ chép những bài pháp bậc trung. TƯƠNG ƯNG BỘ tương đương với TẠP A-HÀM – chép những lời kinh có nội dung tượng tự nhau.

TĂNG NHẤT và TĂNG CHI – chép những bài sắp xếp theo con số. Riêng TIỂU BỘ KINH thì Pàli tạng mới có – ghi chép những câu kệ vắn tắt.

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA GIÁO LÝ NGUYÊN THỦY

1. Cả hai truyền thống A-hàm và Nikàya đều thuộc truyền thốngNguyên thủy, mặc dù con đườngtruyền bá có khác nhưng nội dung thì không khác nhau mấy. Tư tưởng của hai truyền thống đều giữ được phong cách và hương vị của thời Nguyên thủyPhật giáo.

2. Cả hai được giữ gìn bằng phương thức khẩu truyền suốt một thời gian khá dài khoảng 400 năm sau Phật nhập diệt.

3. Thể loại văn tường thuật, ký sự, dùng điệp từ và trùng cú nên rất dễ chán khi đọc. Tuy nhiên kinh phản ánh tư tưởng, học thuật, sinh hoạt, tập quán, tôn giáo của xã hội đương thời.

4. Diễn đạttư tưởngPhật học một cách thiết thực gần gũi với tâm lýcon người, những ví dụ dễ hiểulý luận giản đơn nhưng rất chặt chẽ. Nhất là những định nghĩa căn bản của thuật ngữPhật học rất rõ ràng.

5. Kinh chứa đựng rất nhiều những lời dạy phản ánh quan điểm của Phật về các vấn đềtu tập, phương cách sống, lối ứng xử, về các vấn đềlý luận, xã hội… rất dễ trích dẫn và dễ nhớ.

6. Tư tưởngNguyên thủy chứa đựng tư tưởng gốc hay tư tưởng nền của tư tưởngĐại thừa.

VẤN ĐỀĐẠI THỪATIỂU THỪA

Trước đây ta thường cho rằng giáo lý Nguyên thủygiáo lýTiểu thừa không đưa đến quả vịtối hậuthành Phật, chỉ có giáo lýĐại thừa mới là giáo lýchân chính của Phật. Ngược lại, các nhà sưNguyên thủy thì cho rằng giáo lý Nguyên thủy mới chính truyền là của Phật, còn giáo lýĐại thừangoại đạo. Sự bất đồng quan điểm ấy đã làm băng giá mối quan hệ của hai truyền thống cả ngàn năm. Ngày nay với những phương tiệntiến bộ, mọi mặt trong xã hội đều thay đổi, những quan niệmTiểu thừaĐại thừa không còn thích hợp. Qua nghiên cứu cho rằng :

1. Thời kỳPhật giáo Nguyên thủycho đếnthời kỳBộ phái (sau Đức Phật 400 năm) chưa có danh từ Đại thừa hay Tiểu thừa. Danh từ Đại thừaTiểu thừaxuất hiệnđồng thời với kinh điển Đại thừa khoảng thế kỷ thứ I trước hoặc sau TL.

2. Danh từ Tiểu thừa không nên hiểàu là Thượng tọa bộ, mà là chỉ cho giai đoạn bộ phái, sự tranh chấp về đường lối hành đạo mà lúc bấy giờ các Bộ phái quá chú trọng về lý luậnhình thức.

3. Ngày nay không có hệ Tiểu thừa nào có mặt trên thế giới. Năm 1950, Hội Phật TửThân HữuThế Giới (World Fellowship Buddhists) họp tại Colombo (Tích Lan) đã nhất trí quyết nghị loại bỏ danh từ Tiểu thừa khi nói đến Nam tông Phật giáo.

4. Giáo lý được phân làm hai truyền thống : Truyền thốngNguyên thủytruyền thống Phát triển. Về mặt địa lý, truyền thừa thì gọi là Phật giáoBắc tôngPhật giáoNam tông. Sử dụngtừ ngữNguyên thủy và Phát triển nói lên tính xuyên suốt của cây đại thọ, giáo lýđạo Phật, mà phần gốc, rễ là Nguyên thủy; phần thân ngọn cành lá là Phát triển. Không một cây nào có thể gọi là cây khi không có gốc hay ngọn. Sự nhất quán trong hệ thốnggiáo lý phải được thiết lập và không ra ngoài hai hệ thốngNguyên thủy và Phát triển – cả hai bổ sung cho nhau. Những tư tưởngPhật giáo Phát triển đều phải mang tính kế thừagiáo lý Nguyên thủy, nếu không thì giáo lý Phát triển sẽ mất đi giá trị của nó.

5. Mặc dù truyền thốngNguyên thủy và Phát triển có những khác biệt, tuy nhiên, những khác biệt ấy không cơ bản. Trái lại, những điểm tương đồng lại rất cơ bản như sau :

a/. Cả hai đều nhìn nhận Đức PhậtThích-ca Mâu-ni là bậc Đạo sư.
b/. Cả hai đều chấp nhậnhành trìgiáo lýTứ thánh đế, Bát chánh đạo, Duyên khởi; đều chấp nhậnpháp ấn Khổ, Không, Vô ngã; đều chấp nhập con đường tu tập : Giới, định, tuệ.
c/. Cả hai đều từ chối về một đấng tối caosáng tạo và ngự trị thế giới.

Tóm lại, Kinh tạngNguyên thủykinh tạng ghi chép lại những lời Phật và Thánh chúng một cách đầy đủ nhất. Kinh tạng này mang tính thiết thực gần gũi với tâm lýcon người và sự sinh hoạt của xã hội. Đây là cơ sở giáo lýchúng ta lấy làm nền tảng cho mọi nghiên cứu, thực tập và nhất là hiểu một cách đúng đắntư tưởngđạo Phật phát triển.

Tuy nhiên, trải qua hơn 400 năm khẩu truyền và hơn 2000 năm truyền bá, kinh giáo không tránh khỏi sự thiếu sót hoặc thêm thắt của người thọ trì, nghĩa là vẫn không mang tính Nguyên thủythuần túy. Nghiên cứukinh điển Phát triển mà không nắm vững hệ thốngNguyên thủy thì độ chuẩn xác không cao. Nếu coi Kinh tạngNguyên thủythấp kém thì rất là sai lầm và nguy hiểm. Cây đại thọgiáo pháp phải là một cây hoàn hảo từ gốc rễ cho đếnngọn ngành.

Thích Viên Giác