Kinh Phạm Võng Giảng Lược

KINH PHẠM VÕNG GIẢNG LƯỢC
Thiền Sư Duy Lực
Từ ÂnThiền Đường, Santa Ana Hoa Kỳ
Thích Đồng Thường soạn lục 2005

Giới
Thanh
Văn
là giới tiệm thứ, tức là theo thứ lớp, từ giới từ giới mà thọ;
như người nam thọ 5 giới, rồi thọ 10 giới, sau nữa là thọ 250 giới. 

Giới Bồ Tát
là đốn lập giới, tức là trước kia chưa có thọ giới nào cũng được thọ giớiBồ
Tát
. Trong kinh Phạm Võng nói: “Chư thiên,
thái giám, ma, quỷ, thần,… đều được thọ giới, nếu nghe được tiếng của Pháp
sư”. 

Giới Thanh
Văn
: Sa
Di
, Sa Di Ni, Thức Xoa, Tỳ Kheo Ni, phải có hình tướngrõ ràng; nam là nam, nữ
là nữ, chứ không được nửa nam nửa nữ; nam không thành nam, nữ không thành nữ;
như Thái Giám bị cắt mất nam căn, hay súc sanh, ma quỷ, tuy biến thành người
cũng không được thọ. 

Giới Thanh
Văn là chỉ trì
, tức là không làm là trì. Giới Bồ Tát có cái không làm là trì,
cái không làm là phạm
. Giới ThanhVăn thân làm thì phạm, còn giới Bồ Tát
khởi niệm mới phạm, gọi là Tâm Địa giới. Giới Thanh Văn làm lợi mình,
giới Bồ Tát làm lợi người. 

Nếu không cho
người chưa thọ giớiBồ Tát nghe những giới điều này thì sai lầm. Vì tất cả quỷ,
thần, huỳnh môn, tôi tớ… đều được nghe và thọ, huống chi là loài người. Giới Thanh
Văn khi thọ giới rồi mới cho biết giới điều, còn giới Bồ Tát phải giải thíchcho biết trước, nếu đồng ý thì thọ giới; giới Thanh Văn phải thọ, khỏi cần
giải thích giới điều trước. 

Phạm 10
điều trọng gọi là phạm Ba la di;
Ba la di là cực ác, tức là tội cấp thứ
nhất, theo Thanh Văn là tội tử hình thì Tỳ Kheo đó phải mất Tỳ Kheo; Tỳ Kheo Ni
phạm Ba la di là mất Tỳ Kheo ni, tức kiếp này không còn, muốn thọ lại, phải đợi
kiếp sau. Theo pháp Tỳ Kheohoàn tục, rồi xuất gia lại được 7 lần; còn Tỳ Kheo
Ni
hoàn tục, rồi không được xuất gia lại. 

Nếu giết
người thì giới ThanhVăn phạmgiới Ba la di, còn giết súc sanh thì có thể phạm
giới
cấp 3 hay cấp 4. Tội giết người của giới Thanh Văn phải đủ 4 nhân
duyên

1/ Là đúng
người. 
2/ Nó không phải
người cho nó là người. 
3/ Có cố ý
giết. 
4/ Giết đã
chết. 

-Tội trộm
cắp
cũng có đủ 5 nhân duyên, mới thành tội Ba la di, 5 nhân duyên đó là: 

1/ Vật có
chủ. 
2/ Tưởng là có
chủ. 
3/ Giá trị của vật
phải 5 chỉ (thời kỳ Phật, nếu trộm vật có giá trị 5 chỉ vàng thì bị tử hình
theo luật nhà nước Ấn Độ, vật đó giá trị dưới 5 chỉ thì tội giảm bớt. Bây giờ
lại khác, tội trộm cắp không bị tử hình). 
4/ Có ý muốntrộm
cắp

5/ Lấy vật rời
khỏi chỗ. 

Đủ 5 nhân
duyên
này thành tội Ba la di, nếu không đủ 5 nhân duyên thì không thành
tội. 

Tội dâm
dục
cũng phải có đủ 4 nhân duyên thành tội Ba la di, 4 nhân duyên đó là: 

1/ Có tâm dâm
dục

2/ Có hoàn cảnh
đầy đủ. 
3/ Nhập đạo (nam
căn
nữ căn giao hợp). 
4/ Thọ vui
sướng

Nếu thiếu 1
trong 4 nhân duyên này thì không thành tội Ba la di

-Vọng ngữ gồm
: Đại vọng ngữ và tiểu vọng ngữ

* Đại vọng
ngữ
là chưa chứng mà nói đã chứng, chưa có minh mà nói đã minh, cũng có 6
nhân duyên mới thành tội Ba la di, 6 nhân duyên đó là: 

1/ Thật không
biết gì cả. 
2/ Nói chứng quả
rồi. 
3/ Cố ývọng
ngữ

4/ Cố ý gạt
người. 
5/ Mình cho nó là
người. 
6/ Người đó nghe
phải hiểu. 

*Tiểu vọng
ngữ
vọng ngữ thường, cấp thứ 4, như chuyện có nói không, chuyện không
nói có. 

-Tỳ Kheo phạm
tội
Ba la di thì không cho sám hối. Nếu có chỗ cho sám hối thì phải săn sócphụng sự 20 vị Tỳ Kheothanh tịnh trong nửa tháng. Trong 20 vị Tỳ Kheo này, đều
hoan hỷ thì cho đồng ý xuất tội; nếu 1 trong 20 vị Tỳ Kheo này không đồng ý thì
không được xuất tội. Xuất tội là xuất tội địa ngục, chứ tướng Tỳ Kheo phải mất,
địa ngục của tội Ba la di là 921 ức năm. 

-Tỳ Kheo Ni
phạm Ba la di cho sám hối, phải phụng sựsăn sóc 20 Tỳ Kheothanh tịnh và 20 Tỳ
Kheo Ni
thanh tịnh trong nửa tháng. Nếu 1 người trong 40 người này không đồng
ý
, thì không được sám hối xuất tội. Đây là giới luậtThanh Văn

10 GIỚI
TRỌNG 

Chánh
văn: 

Đức Phật
bảo các Phật tử rằng: Có 10 giới trọng, nếu người thọ giớiBồ Tát mà không tụng
điều giới này, thời người ấy không phải Bồ Tát, không phải là Phật tử, chính ta
cũng tụng như vậy. 

Tất cả Bồ
Tát
đã học, sẽ học và đương học! Đã lược giảng xong tướng trạng của giới Bồ Tát
cần nên học, hết lòngkính trọng phụng trì. 

Đức Phật
dạy: 

1- GIỚI
SÁT
SANH 

Nếu Phật
tử
, hoặc tự mình giết, bảo người giết, khen tặng sự giết, thấy giết mà tùy hỷ,
nhẫn đến dùng bùa chú để giết: Nhơn giết, duyên giết, cách thức giết, nghiệp giết. 

Phàm tất
cả loài hữu tình có mạng sống đều không được cố ý giết. Là Phật tử, lẽ ra luôn
luôn có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, lập thế cứu giúp tất cả chúng sanh, mà
trái lại tự phóng tâm nỡ lòng sát sanh, Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di
tội”. 

Giảng giải

Phật nói: Phật
tử
tự giết tức là tự tử, cũng như giết người. Tự mình giết, dạy người giết,
dùng các phương tiện giết, thấy người ta giết mình tán thán, dùng thần chú để
giết, tạo nhân để giết, tạo trợ duyên để giết, nghĩ ra cách giết, hay chỉ nổi
tâm tạo nghiệp giết người. Cho đến tất cả chúng sanhthân mạng đều không
được cố ý giết. 

Theo giới Bồ
Tát
hành đạoBồ Tátcứu độ tất cả chúng sanh. Hai chữ “Bồ Tát” là tiếng
phạn, dịch ra là giác hữu tình, tức là cứu độchúng sanh, cũng là tâm từ bi. Tôi
thường nói “tâm giác ngộbồ đề tâm, độ chúng sanhtừ bi tâm”. Từ bi tâm
bồ đề tâm là không phải hai thứ; bồ đề tâm lên 50 độ thì từ bi tâm cũng lên
50 độ, bồ đề tâm lên 100 độ thì từ bi tâm cũng lên 100 độ. 

Giải thích thì
thấy có hai thứ, nhưng kỳ thật không phải hai thứ. Nói đến thể dụng, bồ đề tâm
là thể, từ bi tâm là dụng. Có từ bi tâm mới gọi là Bồ Tátcứu độchúng
sanh

Nhưng hai chữ
Ttừ bi” khác xa với hai chữ “Bác ái”của ngoại đạo

“Bác ái” của
ngoại đạochấp ngã, trước hết phải có ta, như việc bố thí là của ta, rồi có
ta thương xót rộng khắp đại chúng, gọi là bác ái

“Từ” là
duyên từ
, tức là không có đối đãi, không có ta, không có người; không có ta làm
từ bi cho ngươi, không có ngươi lãnh thọtừ bi của ta. Nếu có của ta của ngươi thì
không phải từ bi

“Bi” là đồng
thể
bi, tức là thể của ngươi cũng là thể ta; cái khổ của ngươi tức cái khổ của
ta là cùng một thể. Cho nên, không có đối đãi mới là từ bi

Từ bi không có
sự chấp ngã, còn bác ái thì có chấp ngã, nên cách xa như trời với đất vậy. Chấp
ngã
không được giải thoátluân hồi sanh tử, còn phá chấp ngã thì được giải thoátluân hồi sanh tử

Mình đã thọ
giới
Bồ Tát thì phải hành đạoBồ Tát luôn có tâm từ bi, không có ngã để độ
chúng sanh. Từ là ban vui cho chúng sanh, bi là cứu cái khổ cho chúng
sanh

Tâm hiếu thuận
là luôn luôn không có ngã tướng, theo thế gian gian hiểu nghĩa ‘hiếu thuận’ lại
khác, không được rộng khắp; còn hiếu thuận của Bồ Tát thì nghĩa rộng vô cùng, không
hạn chế. Trong Phật pháp có nói: “Tứ ân là ân Phật, ân cha mẹ, ân sư trưởng,
ân chúng sanh”. Trong giới Bồ Tát nói “mình phải hiếu thuậnbáo đáp 4 ân
này”. 

Kỳ thật, chỉ
báo ânchúng sanhbáo ân luôn cả 3 ân kia, luôn luôn hiếu thuận cho tất cả
chúng sanh, chứ không phải báo ânhiện tạicha mẹ của mình. Người thế gian chỉ
báo âncha mẹ riêng của mình hay sư trưởng của mình. 

Cho nên, mình
phải nghĩ cách cứu độchúng sanh, không những không cứu giúp chúng sanh, mà lại
giết hại chúng sanh thì Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội”. 

2- GIỚI TRỘM
CƯỚP 

Chánh
văn: 

Nếu Phật
tử
tự mình trộm cướp, bảo người trộm cướp, phương tiện trộm cướp, nhẫn đến dùng
bùa chú trộm cướp, nhân trộm cướp, duyên trộm cướp, cách thức trộm cướp, nghiệp
trộm cướp. Tất cả tài vật có chủ, dầu là của quỷ thần hay của giặc cướp, nhẫn
đến một cây kim, một ngọn cỏ đều không đặng trộm cướp. Là Phật tử lẽ ra luôn luôn
lòng từ bi, lòng hiếu thuận, thường giúp cho mọi người được phước, được vui,
trái lại trộm tài vật của người. Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di
tội”. 

Giảng giải: 

Điều thứ 2 là
trộm cướp, tại sao Phật tử tự trộm cướp? Tự mình nghĩ đem món đồ của mình cho
người khác, nhưng sau nghĩ lại không cho, nên phạm tội trộm cướp. Vì giới Bồ
Tát
là giới Tâm địa, giới Thanh Văn thì không phạm; giới Bồ Tátkhởi tâm
phạm, đây gọi là tự trộm cướp. 

Hay tự mình lấy
đồ của người, cũng gọi là tự trộm cướp; làm phương tiện cho người trộm cướp,
niệm thần chú khiến cho người trộm cướp; làm trợ duyên để cho người trộm cướp,
nghĩ ra cách rồi chỉ cho người trộm cướp. Tất cả khi có nổi tâm tức là có
nghiệp. 

Ở đây nói “cho
đến của quỷ thần, của có chủ một cây kim một cọng cỏ, không được cố ý ăn cướp”.
Điều giới Bồ Tátthường có chữ “cố ý”, cố ý mới thành tội. Nếu khôngcố ýăn
cướp
thì không thành tội, như đồ trong nhà của mình đã dùng quen, lấy dùng cũng
không thành tội, hay đồ của bạn thân dùng qua dùng lại cũng không phạm, chứ
không phải mỗi cái mà phạm. Nếu đồ của cha mẹ mình cất kín không cho mình biết,
cố ý lấy thì phạm tội trộm cướp. 

Mình hành đạoBồ Táthiếu thuậntứ ân, trong đó từ chúng sanh đến chư Phật; hành đạo không
nên có ngã, chỉ giúp cho chúng sanh được phước an vui thoát khổ. Trái lại,
không làm như vậy mà trộm cướp tài vật của người khác, làm cho người buồn rầuđau khổ; Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội”. 

 

3- GIỚI
DÂM 

Chánh
văn: 

Nếu Phật
tử
tự mình dâm dục, bảo người dâm dục, với tất cả phụ nữ, các loài cái, loài
mái, cho đếnthiên nữ, quỷ nữ, thần nữ cùng phi đạo mà hành dâm dục. Là Phật tử
đối với tất cả không được cố dâm dục. Lẽ ra phải có lòng hiếu thuậncứu độ tất
cả chúng sanh, đem pháp thanh tịnh dạy người, mà trái lại không có tâm từ bi,
làm mọi người sanh việc dâm dục, không lựa súc sanh, cho đến hành dâm với mẹ,
con, chị, em trong lục thân; Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di
tội”. 

Giảng giải: 

“Nếu Phật tử tự
dâm”, tự dâm này, nam và nữ tự có. Người nam có thủ dâm, người nữ có thủ dâm
nhưng ít hơn, hay lấy dụng cụ để làm dâm cho xuất tinh. Dạy người dâm, người nam
đến với người nữ, hay người nữ đến với người nam, làm trợ duyên cho người dâm
dục
, nghĩ phương cách cho người thực hành, hay là nổi tâm dâm dục thì thành cái
nghiệp dâm dục

Không phải đối
với người thôi, mà đối với súc sanhquỷ thần cũng vậy, cùng với phi đạo (phi
đạo
là không phải nam căn, chẳng phải nữ căn), hành độmg nơi nào ở trên thân
đều là phạm dâm. 

Theo hạnh Bồ
Tát
, tâm hiếu thuậncứu độchúng sanh thì phải bố thí sự thanh tịnh cho người.
Việc dâm dục là việc bất tịnh. Những điều sám hối có câu: “phá phạm hạnh người
khác”, chữ phạm là thanh tịnh. Giới luật nói “phá phạm hạnh” là phá giới lần
thứ nhất, như Tỳ kheo cùng với người nữ dâm dục lần thứ nhất, tức là phá phạm hạnh.
Nếu phạm giới dâm lần thứ nhì, lần thứ ba,…thì không phải là phá phạm hạnh, vì
trước khi lần thứ hai lần thứ ba thì không còn thanh tịnh

Phật tửthọ
giới
luôn giữ thanh tịnh cho người, mà trở lại phá phạm hạnh của người, làm cho
người không được thanh tịnh, bất cứ là người, hay là súc sanh, mẹ, chị, em ở trong
lục thân, nếu phạm dâm dục thì tội càng nặng thêm. Khi bắt đầu thọ giới, lúc
hỏi giá nạn, nếu có phạm giới dâm trong lục thân thì không cho người ấy thọ
giới
. Cho nên, phạm giới dâm là không có từ bi, Phật tử ấy phạm giớiBa la di
của Bồ Tát

4- GIỚI
VỌNG 

Chánh
văn: 

Nếu Phật
tử
, mình nói vọng ngữ, bảo người vọng ngữ, phương tiệnvọng ngữ, cách thức vọng
ngữ
, nghiệp vọng ngữ. Nhẫn đến không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, hoặc thân
vọng ngữ, tâm vọng ngữ. Là Phật tử, lẽ ra luôn luôn phải chánh ngữ, chánh kiến,
và cũng làm cho tất cả chúng sanhchánh ngữ, chánh kiến, mà trái lại làm cho
mọi ngườità ngữ, tà kiến, tà nghiệp, Phật tử này phạm “Bồ tát Ba la di
tội”. 

Giảng giải

Vọng ngữgồm có
4 thứ: Vọng ngôn, ỷ ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt

-Vọng ngôn: Là
có nói không, không nói có, nói dối gạt người. 

-Ỷ ngữ: Là nói
những lời nóiliên quandâm dục của nam nữ, hay nói những lời hoa
nguyệt. 

-Ác khẩu: Chửi
mắng người hay nói lời độc ác

-Lưỡng thiệt:
Nói lưỡi 2 chiều, đem chuyện người này nói với người kia, đem chuyện người kia
nói với người này. 

Tự mình vọng
ngữ
hay dạy người vọng ngữ. Giới Thanh văn có tiểu vọng ngữ và đại vọng ngữ,
trong này bao gồm hết. Đại vọng ngữ và tiểu vọng ngữ đều ở trong 10 điều trọng.
Vì hạnh Bồ Tát phải lợi tha, muốn lợi tha thì tự mình phải gương mẫu cho người,
nếu mình vọng ngữ làm sao độ người không vọng ngữ được! 

Cho nên, đại
vọng ngữ và tiểu vọng ngữ đều không được. Tự vọng ngữ hay dạy người vọng ngữ,
dạy người có phương tiệnvọng ngữ, tạo cái nhân để cho người vọng ngữ, làm cái
duyên giúp cho người vọng ngữ, hay là nghĩ cách gì để cho người vọng ngữ để gạt
người, có nổi tâm vọng ngữ thành cái nghiệp vọng ngữ

Theo hạnh Bồ
Tát
phải chánh ngữ, nói năng phải đàng hoàng, đúng đắn, có chánh kiến. Chánh
kiến
đối với tà kiến, trong Phật pháp phải có chánh kiến. Đại thừa phải phá ngã
chấp
, giới Bồ Tát là tập cho mình phá ngã chấp mới được giải thoát. Có lòng từ
bi độ chúng sanh thì không có ngã, không được nghĩ là ta độ chúng sanh và có
chúng sanh của ta được độ. Nếu thấy có chúng sanh để độ thì có ngã chấp, nên
không được, như thế là chánh kiến; nếu còn có ngã chấp không gọi là chánh
kiến

Mình có chánh
ngữ
chánh kiến làm cho chúng sanhchánh ngữchánh kiến. Vì chánh ngữchánh
kiến
được giải thoát cái khổ sanh tử luân hồi, đạt đếntự dotự tạivĩnh viễn.
Trái lại, mình không làm như thế mà dạy cho chúng sanhtà ngữ, tà kiến, vọng
ngữ
đủ thứ, làm tà nghiệp. Bồ Tát là muốn chúng sanh thoát khổ, lại tự mình làm
khổ và chúng sanh thêm khổ, thì phạm tộiBa la di của Bồ Tát

5- GIỚI BÁN
RƯỢU 

Chánh
văn: 

Nếu Phật
tử
, tự mình bán rượu, bảo người bán rượu: Nhân bán rượu, duyên bán rượu, cánh
thức bán rượu nghiệp bán rượu, tất cả rượu không được bán, rượu là nhơn duyên sanh
tội lỗi. Là Phật tử, lẽ ra phải làm cho tất cả chúng sanhtrí huệsáng suốt,
trái lại đem sự mê say điên đảo cho tất cả chúng sanh, Phật tử này phạm “Bồ
Tát Ba la di tội”. 

Giảng giải: 

Ngũ giới của
giới Thanh văn, uống rượu thì phạm, còn bán rượu không phạm, vì không cho uống
rượu. Giới Bồ Tát uống rượu là tội nhẹ, vì giới Bồ Tátlợi tha, uống rượu
chỉ hại tự mình chứ không hại đến người. Đáng lẽ, mình phải làm gương mẫu không
uống rượu, mà dạy người ống rượu vậy làm sao được! Và bán rượu là hại người bị tội
nặng. 

Tự mình bán hay
dạy người bán, làm cái nhân giúp cho người bán, hoặc làm trợ duyên giúp cho
người bán; như không có chỗ, mình giúp cho người có chỗ để bán; không có vốn lại
giúp vốn, đó là trợ duyên; hay là nghĩ cách bán làm sao cho đắc, nỗi tâm bán
rượu để kiếm tiền cho nhiều cũng là tạo nghiệp bán rượu. 

Tất cả rượu
mình không được bán. Đáng lẽ, rượu không có tội, vì uống rượu làm say; nên phạm
vào những tội: “sát, đạo, dâm, vọng”. Vì vậy, rượu làm cái nhân để người phạm
tội
nặng. Theo hạnh Bồ Tát là muốn cho chúng sanh được trí huệsáng suốt, còn
bán rượu cho người uống làm say mê thêm thì phạm giới cực ác của Bồ Tát

 

6- GIỚI RAO
LỖI CỦA TỨ CHÚNG 

Chánh
văn: 

Nếu Phật
tử
, tự miệng rao nói tội lỗi của Bồ Tát xuất giaBồ Tát tại gia, Tỳ Kheo, Tỳ
Kheo Ni
, hoặc bảo rao nói những tội lỗi ấy: Nhân rao nói tội lỗi, duyên rao nói
tội lỗi, cách thức rao nói tội lỗi, nghiệp rao nói tội lỗi. Là Phật tử, khi
nghe những lời ác, ngoại đạo cùng người Nhị thừa nói những điều phi pháp, trái
luật
trong Phật pháp, thời phải luôn luôn có lòng từ bi giáo hóa những kẻ ác ấy
cho họ sanh tín tâm lành đối với Đại thừa, mà trái lạiPhật tử tự mình rao nói
tội lỗi trong Phật pháp. Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội”. 

 Giảng giải

Nếu Phật tửthọ
giới
Bồ Tát nói tội lỗi của tứ chúng: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu
Bà Di
; hoặc là dạy người khác nói, hay làm cái nhân cho người nói, làm trợ duyên
cho người nói, nghĩ cách sắp đặt cho người nói, nếu có nổi tâm muốn nói thành
cái nghiệp. Nói lỗi này là cố ý muốn phỉ báng

Trong giới
luật
, ngày bố tát người nữ có thể chứng tỏTỳ Kheo hay Tỳ Kheo Niphạm giới gì,
việc ấy không phải phỉ báng, mà muốn bảo vệ luật. Bây giờ, nói giới và luật không
phân biệt; đáng lẽ giới là giới, luật là luật. Giới là giúp ích cho cá nhân,
còn luật là giúp ích cho đoàn thể. Thí dụ giới là bảo hiểm cho cá nhân, còn
luật là bảo hiểm cho đoàn thể; mà luật là bảo hiểm cái giới, nếu không có luật
thì giới ấy không thi hành được. Hiện nay chỉ có giới, chứ không có luật; nên
người Trụ trìphạm tộiBa la di không có ai can thiệp

Theo giới luật
thì phải có Tăng đoàn, nửa tháng để Bố tát. Bố tát không phải chỉ tụng giới, mà
làm việc, thọ giới,… cũng ở trong Bố tát. Trước khi Bố tát phải kiểm thảo, Chủ
sự
nói với đại chúng “ai có lỗi phải ra trước đại chúngphát lồ sám hối”. Nếu
tự mình không nói ra, mà người khác biết phải nói ra trong chúng cử tội. Nếu biết
không cử tội cũng phạm giới, tức là phú tàng (ngăn che). 

Tỳ Kheo Ni ngăn
che tội Ba la di của bạn mình thì Tỳ Kheo Ni ấy cũng phạm Ba la di

Nếu có người nữ
được mọi ngườitin tưởng, đến báo với Tăng đoàn rằng: Tôi đã thấy một Tỳ Kheophạm tội gì đó… có thể phạm Ba la di, có thể phạm tội cấp 2, cấp 3,… người nữ
ấy không có lỗi với tứ chúng mà lại có công. Bởi vì giúp cho luật bảo vệ giới
được tốt. 

Nếu nói lỗi của
tứ chúng, mục đích để phỉ báng mới phạm tội. Còn mình đã biết người kia phạm
tội
, rồi nhắc nhở người kia không nên phạm nữa, thì mình không phạm tội nói lỗi
của tứ chúng. Vì đó là thiện ý chứ không phải ác ý, không phải nói lỗi là phạm
giới

Đệ tử của Phật
nghe kẻ ngoại đạoNhị thừaphỉ bángĐại thừa còn không được, huống chi mình
hành đạoBồ Tát lại hủy báng nói lỗi của tứ chúng; vậy làm sao giáo hóa chúng
sanh? Vì trách nhiệm của Bồ Tátgiáo hóachúng sanh, làm cho chúng sanhgiác
ngộ
được tự dotự tại. Nếu nói tội lỗi của tứ chúng thì phạm tộiba la di của
Bồ Tát.

 

7- GIỚI KHEN
MÌNH CHÊ NGƯỜI 

Chánh
văn: 

Nếu Phật
tử
tự khen mình chê người, cũng bảo người khác khen ngợi mình chê người: Nhân
chê người, duyên chê người, cách thức chê người, nghiệp chê người. Là Phật tử,
lẽ phải thay thế những sự khinh chê khổ nhục cho tất cả chúng sanh, mình nhận
lấy việc xấu, nhường cho người việc tốt. Nếu Phật tử tự phô dương tài đức của
mình mà dìm che điều hay tốt của người, làm cho người bị khinh chê; Phật tử này
phạm “Bồ Tát Ba la di tội”. 

Giảng giải

Giới Bồ Tát
lợi tha, chính mình phải phá ngã chấp; nếu tự khen mình chê người là tăng thêm
ngã chấp. Lợi tha là muốn chúng sanhgiải thoát, nếu tự mình có ngã chấp thì
không được giải thoát, làm sao độ chúng sanh được giải thoát? 

Làm hạnh Bồ Tát
thì mình phải hy sinh để độ chúng sanh, tức là thay cho chúng sanh chịu những
điều cực khổ, việc tốt nhường cho người, việc xấu mình chịu. Nhưng trái lại, nếu
làm nhân, làm duyên, hay làm phương cách… như trên đã nói, khen mình chê người,
lại tăng thêm ngã chấp, nghịch với hạnh Bồ Tát thì thành tội Ba la di

8- GIỚI BỎN
SẺN THÊM MẮNG ĐUỔI 

Chánh
văn: 

Nếu Phật
tử
, tự mình bỏn sẻn, bảo người bỏn sẻn: Nhân bỏn sẻn, duyên bỏn sẻn, cách thức
bỏn sẻn, nghiệp bỏn sẻn. Phật tử khi thấy những người bần cùng đến cầu xin,
phải cấp cho theo chỗ cần dùng của họ; mà Phật tử lại đem lòng giận ghét, cho
đến
không cho một mảy, có người cầu học giáo pháp, cũng chẳng nói một kệ một
câu, lại còn xua đuổiquở mắng. Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di
tội”. 

Giảng giải

Trong này gồm
2 thứ: Bỏn sẻn Tài hay bỏn sẻn Pháp đều là phạm tội

Bồ Tát phải phá
ngã chấp, rồi giáo hóachúng sanh được phá ngã chấp. Bồ TátLục ĐộTứ
Nhiếp Pháp
, trong này đều có điều thứ nhất là Bố thí: Bố thí tài và bố thí
pháp

Thấy người nghèo
đến xin, mà mình bỏn sẻn không cho, lại sanh tâm sân ghét, đuổi người ta đi thì
phạm điều này, hay người ta đến cầu pháp cũng như vậy. Bố thí pháp thì công đức
lớn hơn bố thí tài pháp rất nhiều, bỏn sẻn pháp nên tội cũng lớn. 

Nếu hành đạoBồ
Tát
, người ta xin thứ gì đều cho theo tinh thầnvô ngã. Nhưng bây giờ mình thọ
giới
Bồ Tát là đang học hạnhBồ Tát, có sức tới đâu thì làm tới đó; như người
ta xin tiền thì tùy theo sức mình mà cho, đừng để người xin về tay không; hay
mình không có cái gì để cho thì phải phát tâmtùy hỷ, nên không có phạm giới.
Nếu mình không cho mà lại mắng đuổi người ta, thì phạm điều giới Ba la di
này. 

9- GIỚI GIẬN
HỜN KHÔNG NGUÔI 

Chánh
văn: 

 Nếu
Phật tử, tự mình giận, bảo người giận: Nhân giận, duyên giận, cách thức giận, nghiệp
giận. Người Phật tử lẽ ra làm cho tất cả chúng sanh được những căn lành không
gây gỗ; thường cólòng từ bi, lòng hiếu thuận. Mà trái lại, đối với trong tất
cả chúng sanh, cho đến trong loài phi chúng sanh, đem lời ác mạ nhục, còn thêm
dùng tay, chân, dao, gậy để đánh đập mà vẫn chưa hả dạ, cho đến nạn nhân kia lấy
lời xin lỗi, cầu sám hốitạ tội, nhưng vẫn không hết giận; Phật tử này phạm “Bồ
Tát Ba la di tội”. 

Giảng giải

Nói đến Phật
pháp
, luôn luôn phải phá ngã chấp; nhất là giới Bồ Tát chuyên phá ngã chấp, nếu
mình nổi sân thì đã có ngã chấp. Tất cả chúng sanh đều phá ngã chấp, thì không có
việc tranh luận để đưa đến sân hận đấu tranh. Nếu có nổi tâm sân hận, phải biết
lỗi của mình để sám hối. Đã có lỗi sân, mà mình không chịu nghe người ta khuyên,
để sám hối thì phạm tội này. 

Tâm từ bi và
tâm hiếu thuận đều phá ngã chấp, tức là phụng sự cho tất cả chúng sanh; mình đã
không phụng sự cho tất cả chúng sanh, lại nổi tâm hờn giậnchúng sanh, còn có
thêm ác khẩu chửi mắng, đánh đập,… người ta cầu xin lỗi, lại mình không cho xin
lỗi
, mình cứ giận hờn không nguôi thì phạm giớiBa la di này. 

 10- GIỚI
HỦY BÁNG TAM BẢO 

Chánh
văn: 

Nếu Phật
tử
, tự mình hủy báng Tam bảo, xúi người hủy báng Tam bảo: Nhân hủy báng, duyên
hủy báng, cách thức hủy báng, nghiệp hủy báng. Phật tử nghe một lời hủy báng
Tam bảo của ngoại đạo và kẻ ác, còn đau lòng như ba trăm cây nhọn đâm vào tim
mình, huống là tự mình hủy báng! Không có đức tin và lòng hiếu thuận đối với
Tam bảo, lại còn giúp sức cho kẻ ác, kẻ tà kiến hủy báng nữa; Phật tử này phạm “Bồ
Tát Ba la di tội”. 

Giảng giải: 

Tam bảo gồm hai
thứ: Thường trụ Tam bảoTự tánhTam bảo

-Người quy Tam
bảo
gọi là quy ythường trụ Tam bảo, theo sự giáo hóa của Thường trụ Tam bảo,
rồi thực hành theo để ngộ Tự tánh Tam bảo, cũng gọi là ngộ Tự tánh chính mình,
giải thoát tất cả khổ, được tự dotự tạivĩnh viễn

-Tại sao gọi là
Thường trụ Tam bảo? Tam bảogồm có: Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo

Phật tiếng Ấn
Độ
Phật Đà, dịch ra là giác giả (giác ngộ), trong đó gồm có: Tự giác, Giác
tha
, Giác hạnhviên mãn; tức là mình giải thoáttự dotự tại, cũng giải thoát
cho người được tự dotự tại, nên gọi là Giác hạnhviên mãn, nhưng bao gồm
quá khứ, hiện tại, vị lai. Bây giờ, mình quy y phải có hình tượng Phật để tượng
trưng
cho Phật bảo

Mình muốn giác ngộ
thì phải có phương pháp, pháp của Phật dạy gồm có 84.000 pháp môn, tùy theocăn
trình độthích ứng của mọi chúng sanh, quy nạp có 4 pháp môn: “Tham thiền,
Niệm Phật, Trì chú, Quán tưởng”, đó là phương pháptu hành gọi là Pháp bảo.
Nhưng lấy gì để tượng trưng? Lấy Kinh của Phật để tượng trưng cho Pháp
bảo

Tăng tiếng Ấn
Độ
Tăng Già dịch là hòa hợp chúng, tức là nhiều người thanh tịnhhòa hợp lại
thành Tăng; theo quy định là 4 người trở lên mới thành Tăng, còn 3 người trở
xuống không gọi là Tăng. 

Hoàng Nhất luật sư
nói: “Gần đây, mọi ngườichỉ quy y nhị bảo và giao thiệp với một Đại đức”. Bởi
vì, họ quy y rồi chỉ nhìn nhận một thầy của mình, chứ không nhìn nhận cả chúng
Tăng
là thầy của mình. Tất cả Tăng chúng thay thế choTăng bảo, nhưng thầy của
mình quy yđại diện cho Tăng bảo để chứng minh; người này đã quy y Tam bảo
đệ tử của Tam bảo, chứ không phải đệ tử riêng của một vị thầy. 

Tăng ở trong Tam
bảo
cần nhất, nếu có Phật bảo, có Pháp bảo, mà không có Tăng bảo thì Phật pháptiêu diệt. Như Phật Thích Canhập Niết Bàn, nếu không có Tăng từ mỗi đời tiếp
nối
thì Phật pháptiêu diệt từ lâu; có Tăng bảo mới có Phật bảoPháp bảo,
nhưng bây giờ người ta không chú trọng Tăng bảo, ấy là sai lầm

Trách nhiệm của
Tăng, như Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, có trách nhiệmgiáo hóachúng sanh. Cho nên,
giới luậtquy định: Tỳ kheo chưa đủ 10 tuổi hạ không được rời thầy, Tỳ Kheo
Ni
chưa đủ 12 tuổi hạ không được rời thầy. Thầy Bổn sư có trách nhiệm dạy người
đó, nếu không biết dạy người đó thì phải bị tội. Bởi vì, xuất gia rồi không
biết gì để dạy chúng sanh, nên có thể phá hoạiTam bảo. Vậy làm sao đứng trong
hàng ngũ Tăng bảo? Cho nên, quy địnhTỳ Kheo phải biết giới Tỳ Kheo, giới Tỳ
Kheo Ni
và có Chánh ngữChánh kiến về Phật pháp

Cái tệ bây giờ, có
người xuất gia được nửa năm, một năm, rồi lạc quyên tiền xây chùa, tự mình làm
Trụ trì; cũng có người chưa xuất gia, làm chùa xong, rồi mời thầy cạo đầu mình,
làm lễ xuất giaTrụ trì luôn. Việc ấy trái ngược giới luật, phá hoạiTam
bảo

Cho nên, nghĩa hủy
báng Tam bảo rất rộng. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Hư tiêu Tín thí, lạm nhận cung
kính
là tội địa ngục”. Nếu mình không chân thậttu hành, nhận sự cúng dường của
Tín thí là hư tiêu Tín thí. Người ta cung kính mình, không phải vì mình cạo
đầu, mặc áo cà sa; người ta cung kínhTam bảo là muốn sự giáo hóa của Tam bảo,
cho mình và chúng sanhđược giải thoát

Phật pháp làm lợi
ích
cho chúng sanh được tu chánh pháp, đạt đếntự dotự tạivĩnh viễngiải
thoát
, ấy là mục đích của Tam bảo. Nếu mình không chân thậttu hành, tự độ mình
chưa được, làm sao độ chúng sanh! Tức là hư tiêu Tín thí. Còn mình lạm dụnghình tướng Tăng để nhận sự cúng dường của người, đều phải bị đọa địa ngục, chưa
nói đến việc phá giới

Cho nên, giới hủy
báng Tam bảo, không phải chỉ miệng nói hủy báng mà cái nghĩa nó rất rộng. Ở đây
nói, nếu Bồ Tát nghe kẻ ngoại đạo và người ác dùng lời ác hủy báng Tam bảo, như
300 mũi giáo đâm chỉa vào tim mình. Trái lại, tự mình hủy báng Tam bảo thì mắc
tội Ba la di của Bồ Tát

Hiện nay, nhiều
Phật tử không hiểu Phật pháp là do Tu sĩ không có trách nhiệm, vì lạm thu đệ tửxuất gia, đã tự mình không biết giới luật, không có Chánh kiếnPhật pháp, lấy gì
để dạy đệ tử? Cũng như ban đầu sữa nguyên chất, rồi sau pha thêm nước, sau nữa
hoàn toàn là nước không có sữa. Bây giờ, muốn khôi phục Phật giáo như xưa thì
phải xây xựng Tăng bảo, mà hiện nay không có Tăng đoàn, tự mình làm chùa nhỏ để
Trụ trì, có phạm Ba la di tội cũng không có ai can thiệp được. Nhưng người ta
vẫn cung kínhcúng dường, vậy Phật pháp làm sao khỏi bị tiêu diệt! 

Nếu thường trụ Tam
bảo
bị hủy hoại thì không thể hy vọngngộ nhập được Tự tánhTam bảo. Nếu khôngngộ nhập được Tự tánhTam bảo thì không được giải thoát. Được người tôn xưng là
Tăng bảo, người xuất giachúng ta hãy tự kiểm điểm chính mình, có xứng đáng là
Tăng bảo hay chưa? 

Nếu có nhân duyên
tổ chức thành Tăng đoàn, rồi Tăng đoàn tổ chức thành luật của Tăng đoàn mới bảo
vệ
được giới. Luật là bảo vệ giới, giới là bảo vệ mình; ở trong luật gồm có
giới, mà giới không thể gồm có luật. 

Hỏi: 
 
Trước khi
thọ giớiBồ Tát thì phải nghe giảng giới Bồ Tát. Tại sao khi tụng giới lại
không cho người chưa thọ giớiBồ Tát nghe? 

Đáp

Phải cho nghe hết.
Tụng giới Tỳ KheoTỳ Kheo Ni không cho nghe đối với người chưa thọ giới này.
Còn giới Bồ Tát thì tất cả mọi người đều được nghe. Kinh Phạm Võng nói: “Tất cả
ma, quỷ, huỳnh môn, súc sanh,… nghe được lời Pháp sư mà lãnh thọ”, huống chi là
người! Nếu thọ được thì phải được nghe. 

Hỏi: 
 
Ở trong Tăng
vấn hòa có hỏi: “Trong đây có ai chưa thọ giớiBồ Tát và không thanh tịnh ra
chưa? Trả lời: Trong đây chưa ai thọ giớiBồ Tát, hoặc đã ra rồi”. Như vậy,
chứng tỏ người chưa thọ giớiBồ Tát không được nghe giới Bồ Tát? 

Đáp

Đó là việc sai
lầm
, lúc bạch tứ Yết ma tức là tác pháp để làm việc. Lúc Yết ma có thể người
không có quan hệ thì không cho nghe. Vì Yết ma có thể trị tội Tăng sĩ, tức là theo
tội để phán tội Tăng sĩ; không cho những người có quan hệ, như cư sĩ để biết
tội của Tăng sĩ do Tăng đoàn xử. Cho nên, mới hỏi những người không có quan hệ
ra trước, chứ không phải tụng giới không cho nghe. 

Bây giờ, cũng có
nhiều cư sĩthọ giớiBồ Tát xuất gia, thọ được thì nghe được, làm sao không
được nghe? Giới Bồ Tát là đốn lập giới, tức là trước kia chưa thọ giới gì cũng
được thọ. 

Giới Tỳ Kheo, Tỳ
Kheo Ni
, nếu có trường hợp nào, cư sĩ cũng có thể nghe biết; chứ không phải
nhất định là không cho cư sĩ nghe biết. Vì sợ cư sĩ biết chư Tăngphạm giới
luật, nổi tâm khinh mạn Tam bảo nên cấm không cho nghe. 

Còn giới Bồ Tát
thì người xuất gia hay tại gia đều được nghe, làm sao không cho nghe? Thành ra
mâu thuẫn, không cho nghe là pháp Yết ma, chứ tụng giới sao không cho
nghe! 

Người chưa thọ
giới
Bồ Tát đều được nghe giảng giới Bồ Tát. Giới Bồ Tát là phá ngã chấp, muốn
giúp đỡ chúng sanh. Người nào có tâm là có tư cáchthọ giớiBồ Tát, chứ không
phải như giới Thanh Văn phải đúng người mới được thọ; không phải người, ma quỷ,
súc sanh thì không được thọ. Còn giới Bồ Tát, ma quỷ, súc sanh đều được thọ, mà
trước kia chưa thọ giới gì; trước kia chưa quy y Tam bảo thì quy y Tam bảo thì
thọ liền, vì thọ giới nào cũng có Tam quy hết. Cho nên, gọi là đốn lập giới,
không phải tiệm thứ của giới Thanh Văn. 

Tam tạng là Kinh,
Luật, Luận; người thông suốt Kinh gọi là Kinh sư, người thông suốt Luật gọi là
Luật sư, người thông suốt Luận gọi là Luận sư. Bây giờ, Tăng bảo thiếu Luật sư,
ít có người phát tâmhọc luật. Theo Tăng đoàn, người nào thọ giới rồi thì phải
sống trong Tăng đoàn. Khi Phật giáo sang Trung Quốcsáng lập phái Luật tông.
Muốn làm luật sư thì phải học giới luật. 

Sau này, ít có
người phát tâmhọc luật, mà người hoằng luật thì người ta ít kính trọng vì họ
không thích. Các vị thuyết pháp, người nghe lại đông; còn giảng giới luật thì
ít có người đến nghe. Nhưng nếu không có luật thì không có pháp, Phật pháp bị
tiêu diệt; vì khi Phật nhập Niết Bàn, trước đó có dặn dò đệ tử phải lấy giới
luật
là thầy; mà bây giờ không chú trọng đến luật, nên Phật phápdần dần tiêu
mất. 

Hiện nay, chỉ có
phần giới, không có phần luật. Theo Tăng đoàn có việc gì phải qua pháp Yết ma,
pháp Yết ma là ở bên phần luật. Nếu Tỳ Kheo không biết giới luậtTỳ Kheo, Tỳ
Kheo Ni
không biết giới luật của Tỳ Kheo Ni; vậy làm sao giữ giới? Vì người
thầy lạm nhận đệ tửxuất gia không dạy đệ tử, nên thầy đó phải bị tội; cũng là
phá hoạiPhật pháp, hủy báng Tam bảo. Đó là phá hoại cái gốc, còn dùng miệng để
hủy báng là hủy báng bên ngoài. 

48 ĐIỀU GIỚI
KHINH 

Chánh
văn: 

Đức Phật bảo
các vị Bồ Tát rằng: Đã giảng 10 giới trọng rồi, nay tôi sẽ nói 48 giới
khinh: 

1- GIỚI
KHÔNG
KÍNH THẦY BẠN 

Nếu Phật
tử
, lúc sắp lãnh ngôi Quốc Vương, ngôi Chuyển Luân Vương hay sắp lãnh chức quan,
trước nên thọ giớiBồ Tát. Như thế tất cả quỷ thầncứu hộ thân vua và thân các quan,
chư Phật đều hoan hỷ

Đã đắc
giới
rồi, Phật tử nên có lòng hiếu thuậncung kính. Nếu thấy có bực Thượng
tọa
, Hòa thượng, A xà lê, những bậc Đại đứcđồng học, đồng kiến, đồng hạnh đến
nhà, phải đứng dậytiếp rước lạy chào, hỏi thăm. Mỗi sự đều đúng như pháp
cúng dường, hoặc tự bán thân quốc thành con cái, cùng bảy báu trăm vật để cung
cấp
các bực ấy. Nếu Phật tử sanh lòng kêu mạn, sân hậnngu si, không chịu tiếp
rước
lạy chào, cho đến không chịu y phápcúng dường, Phật tử này phạm “khinh
cấu tội”. 

Giảng giải

Chuyển Luân
Vương
có 4 cấp: 
-Kim Luân Vương
cai trị hết 4 Đại bộ châu (1 tiểu thế giới có 4 đại bộ châu). 
-Ngân Luân vương
cai trị 3 Bộ châu. 
-Đồng Luân Vương
cai trị 2 Bộ châu. 
-Thiên Luân vương
cái trị 1 Bộ châu. 
Chuyển Luân Vương
phi hành (biết bay), mắt của mình không thấy được. 
Quốc Vương là vua
của loài người trong một nước. Chuyển Luân vương là mình chỉ nghe thấy chứ
không thấy. 

Hai chữ “Bồ
Tát” là tiếng Ấn Độ, nói cho đủ là “Bồ đề tát đỏa”, dịch ra là Gác hữu tình,
tức là Giác ngộchúng sanh. Giác này gồm tự giác, giác ngộchúng sanhgiác tha.
Hành đạoBồ Tát là làm cái nhân để thành Phật. Nếu làm cho chúng sanh được giác
ngộ
cũng là tăng phước đức của mình, giúp cho người được giác ngộ

Cho nên, tất cả
chúng sanh muốn thành Phật, đều phải hành đạoBồ Tát. Chuyển Luân Vương, Quốc
Vương
, bá quan, kiếp trước đã gieo trồng thiện căn, nên được làm vua làm quan, học
có sẵn phước đức, muốn thành Phật thì dễ hơn. 

Tại sao muốn
thành Phật? Vì thành Phật thì vĩnh viễn hết tất cả khổ, nếu khôngthành Phật
thì cái khổ không thể dứt được. Vì vậy, ở đây nói “khi được ngôi vua hay ngôi quan,
trước hết phải thọ giới Bồ Tát”. Bởi vì, người nào cũng muốn được tự dotự tạigiải thoát cho mình và giải thoát cho người; hai cái tương nhân với nhau, mình
tự giác rồi lại giác tha. Giác tha cũng giúp cho mình được giác ngộ; tự giác
tự lợi, giác thalợi tha. Kỳ thật, lợi tha cũng là tự lợi, tự lợi cũng là
lợi tha

Giới Bồ Tát là tập
cho mình phá ngã chấp, phá được ngã chấp thì hết cái khổ sanh tử luân hồi. Hành
đạo
Bồ Táttự lợi cũng là lợi tha, 48 điều khinh phần nhiều nói về lợi tha.
Nếu mình thọ giớiBồ Tát thì quỷ thần, hộ phápủng hộ, chư Phật cũng hoan hỷ.
Đã được giới rồi thì phải có tâm hiếu thuận

Tâm hiếu thuận
tâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận
của thế gian. Hiếu thuậnthế gian chỉ hiếu thuậncha mẹsư trưởng, còn Phật
pháp
hiếu thuậntứ ân (ân Phật, ân cha mẹ, ân sư trưởngân chúng
sanh
). 

Hiếu thuậncha mẹ
là chỉ một ân trong tứ ân, hiếu thuậnchúng sanh gồm tứ ân; vì cha mẹ,
trưởng
và Phật đều ở trong chúng sanh. Tâm hiếu thuận là mình phát tâm độ chúng
sanh
được giác ngộ, nên đối với cha mẹsư trưởng đều phải cung kính

Vậy, gặp Hòa
thượng
, Thượng tọa, A xà lê (Thượng sư), bạn thân, người đồng kiến, đồng hạnh
(như tham thiềnvới nhau gọi là đồng tham, tức là đồng hạnh), mình gặp phải đứng
dậy
nghinh tiếp; các vị lớn hơn, như: Hòa Thượng, Thượng tọa gặp thì phải lễ
bái
hỏi thăm. Trong thời của Phật, có người gặp vị Thượng tọalễ bái, chấp tayhỏi thăm “Thượng tọa có ít bệnh, ít phiền não, an lạc không”? Ở bên người Hoa
chỉ có xá chào, chứ không có hỏi. Đáng lẽ ra phải vấn tín (hỏi thăm). 

Trong này nói:
“Bán thân, bán con trai, bán con gái,…” là có ý tận sức cúng dường, tùy theo
sức mình cúng dườngTam bảo, vì mình đã quy y Tam bảo, cần sự giáo hóa của Tam
bảo
, theo đó mà thực hànhđạt đếntự dotự tạivĩnh viễn, giải thoát tất cả
khổ. Cái ân đó rất lớn, nên mình tận sức mà cúng dường. Nếu khôngbiểu thịcung
kính
, mà sanh tâm ngã mạn, hoặc còn nổi sân lên, không theo pháp cúng dường thì
phạm tội khinh này. 

2- GIỚI UỐNG
RƯỢU 

Chánh văn: 

Nếu Phật tử
cố uống rượu, mà rượu là thứ làm cho người uống hay sanh ra vô lượngtội lỗi.
Nếu tự tay trao chén rượu cho người uống, sẽ mang ác báo: Năm trăm đời không tay,
uống là tự uống. Cũng chẳng đặng bảo người và tất cả chúng sanh uống rượu, uống
là tự mình uống! Tất cả thứ rượu, Phật tử không được uống. Nếu mình cố uống cũng
bảo người uống, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”. 

Giảng giải

Cư sĩ thọ 5 giới,
trong đó có một giới uống rượu, không có giới bán rượu, tức là uống rượu thì
phạm và bán rượu thì không phạm. 

Giới Bồ Tát lại
khác, bán rượu tội nặng, uống rượu tội nhẹ, vì uống rượu chỉ hại mình, còn bán
rượu thì hại người. Giới Bồ Tátlợi tha, mà nghịch lại hại người khác, cho
nên tội nặng. Ở trong 10 điều trọng không được bán rượu, còn ở đây uống là tội
khinh. 

Phật tửthọ giớiBồ Tát không được uống rượu. Rượu không có tội lỗi, nhưng uống rượu say rồi có
thể phá giới trước làm ra tội lỗi, nên trong Phật giáo cấm uống rượu. Nếu đưa
chén rược cho người uống, phải mắc quả báo 500 đời không tay, huống chi mình
uống, cũng không được dạy người uống, không đượcc dạy tất cả chúng sanh uống, tức
là tất cả rượu không được uống. 

Theo giới uống
rượu thành tội, cũng có 4 nhân duyên

1- Rượu đó uống
say. 
2- Mình cho nó là
rượu. 
3- Cố ý uống
rượu. 
4- Uống rượu vào
cổ họng. 

Có khi người ta
dùng rượu để làm trong đồ ăn, nhưng ăn đồ thì không phạm hay là cơm rượu để ăn
uống
không say thì không phạm. Nếu mình lấy các thứ để uống, lại uống nhầm
rượu, không cho nó là rượu cũng không phạm. Uống rượu thiếu 1 trong 4 nhân
duyên
thì không phạm. 

Nếu tự mình uống
rượu hoặc đưa rượu cho người uống thì phạm giới khinh này. 

3- GIỚI ĂN
THỊT
 

Chánh
văn: 

 
Nếu Phật tử
cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về
người ăn thịt thời mất lòngtừ bi, dứt giống Phật tánh; tất cả chúng sanh thấy
đều tránh xa người này. Người ăn thịt mắc vô lượngtội lỗi. Vì thế, nên tất cả
Phật tử không được ăn thịt mọi loài chúng sanh. Nếu cố ăn thịt, Phật tử này phạm
“khinh cấu tội”. 

Giảng giải

Giới Bồ Tát
muốn lợi ích cho chúng sanh. Nếu mình phát tâmhành đạoBồ Tát, mà còn ăn thịtchúng sanh, làm sao độ chúng sanh được? Theo nhân quả thì giết một mạng phải đền
một mạng, ăn một cục thịt phải trả một cục thịt, mới là đúng nhân quả

Nếu mình cố ýăn
thịt
chúng sanh thì không có lòng từ bi. Vì lòng từ bi là muốn độ chúng sanh.
Như vậy, thọ giớiBồ Tát phải ăn chay trường, còn thọ ngũ giới không có quy
định
ăn chay trường. Cho nên, thọ giớiBồ Tát không được ăn thịt

Nếu mình ăn thịt
gà thì sau này đầu thai thành gà, gà đầu thai thành người, rồi nó ăn lại. Ấy là
việc nhân quả; còn tội phá giới thì lại khác, tội phá giới có thể sám hốidiệt
tội
, nhưng tội nhân quả không được sám hốidiệt tội, vì nhân nào quả nấy. 

4- GIỚI
ĂN NGŨ TÂN 

Chánh
văn: 

Nếu Phật tử, chẳng
được ăn loại ngũ tân là hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ. Loại ngũ tân này, gia vào
trong các thứ thực phẩm đều không được ăn. Nêu cố ăn, Phật tử này phạm “khinh
cấu tội”. 

Giảng giải

Kinh Lăng Nghiêm
nói: “Không được ăn ngũ tân”. Người Hoa có để ý cử ăn ngũ tân, người Việt ít để
ý
cử ăn ngũ tân; như củ kiệu mà người Việt vẫn ăn. Ngũ tângồm có: “Tỏi, nén,
hành, hẹ, hưng cừ”. Hưng cừchỉ Ấn Độ mới có, ở đây có 4 thứ kia. 

Tại sao cấm ăn ngũ
tân? Vì ăn sống thì sân hận, ăn chín thì kích thíchdâm dục. Cho nên, người tu
hành
phải cấm, và tánh chất khi ăn thấy hôi. Nếu mình ăn ngũ tân, hộ pháp thần
thấy hôi nên không ủng hộ, ma quỷ thì liếm môi mình. Vì vậy, Phật cấm người tu
hành
không được ăn ngũ tân, người ăn ngũ tân rất chướng ngại việc tu
hành

Tỳ kheo
Thích Vân Phongsửa lỗi chính tả 

Update
04-03-2007 06:23:15