Kinh Tăng Chi Bộ Anguttara Nỉkãya | Bộ Mới

VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
TAM TẠNG THÁNH ĐIỂN PHẬT GIÁO VIỆT NAM
KINH TĂNG CHI BỘ
ANGUTTARA NỈKÃYA
DỊCH GIẢ: HÒA THƯỢNG THÍCH MINH CHÂU
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC 2022

Kinh Tăng Chi BộKinh Tăng Chi Bộ

 LỜI CHỨNG MINH

Nam-mô Bản Sư Thích-ca Mâu-ni Phật

Trong Kỉnh Hoa Nghiêm có ghi: “Phật dĩ nhất nhất thân, xứ xứ chuyển pháp /沥〃”(佛以一一身,處處轉法輪),nghía là đức Phật luôn dùng tất cả hóa thân của mình, ở mọi nơi mọi chốn chuyển bánh xe pháp. Thật hoan hỷtinh thần chuyển bánh xe pháp của đức Phật đã và đang được chư Tôn đức Hội đồng Tri sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam triển khai một cách hiệu quảĐặc biệt, trên phương diện hoăng truyên kinh điên, chư Tôn đức đã có những định hướng đúng đắn cho Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tiến hành phiên dịch, san định, ấn tống Kinh, Luật, Luận, Sớ giải có nguồn gốc từ tạng Pali, Sanskrit, Hán cổ và các ngôn ngữ khác…

Khi nghiên cứu, hoằng truyền kinh điển, nhà Phật thường có câu: DĩThánh giáo vi minh cảnh chiêu kiên tự tâm, dĩ tự tâm vi trí đăng chiêu kinh u chr (以 聖教爲明鏡照見自心,以自心爲智燈照經幽旨),nghĩa là lấy Phật pháp làm tâm gương sáng soi vào tự tâm, lây tự tâm làm ngọn đèn trí soi tỏ chô thâm sâu của kinh điên. Những Phật sự được chư Tôn đức trong Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đã và đang thực hiện, thực sự là những việc làm trân quý. Việc ấy không chỉ làm sáng bản tâm của mỗi hành giả nghiên cứu mà còn chuyển hóa lời Phật dạy một cách dễ hiểu, dễ học, dễ hành, gần gũi với cuộc sống đời thường. Thông qua đó, môi hành giả có được cách tiêp cận, tu tậpthực hành lời Phật dạythành tựu nhiều kết quả hơn.

Từ việc nghiên cứu kinh điển, nhìn lại Phật giáo Việt Namchúng ta mới thấy, Phật giáo Việt Nam với chiều dài lịch sử trên dưới 2000 năm đồng hành cùng dân tộc, đã tạo nên những giá trị Phật giáo đặc biệt, đóng vai trò trụ cột trong việc gìn giữ nền văn hóa Việt thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc, làm cho dân tộc Việt Nam trở nên vĩ đại nhất trong lịch sử phong kiến nước nhà vào thời đại Lý – Trần, vẫn đang tiếp tục đồng hành cùng đất nước trong thời kỳ hội nhập với phương châm “Đạo pháp – Dân tOc.” Chính vì vậy? những Phật sự của chư Tôn đức trong Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đang thực hiện có ý nghĩa hét sức quan trọng trong việc “kế vãng khai lai, truyên trì đạo mạch”, không chỉ làm cho Phật pháp xương minh, trường ton ở the gian mà còn góp phan làm cho Phật giáo Việt Nam tiếp nối truyền thống tốt đẹp từ ngàn xua, phát triển lên một tầm cao mới. Hy vọng mỗi hành giả chúng ta nỗ lực hơn nữa để thành tựu giải thoát và hoàn thành sứ mệnh “Tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự.”

Nguyện câu Phật nhật tăng huy, Pháp luân thường chuyên, thê giới hòa bình, nhân dân an lạc.

Nam-mố Hoan Hỷ Tạng Bồ-tát, tác đại chứng minh.

VesakLiên Hợp Quốc, PL.2563 – DL.2019
Trưởng lão Hòa thượng THÍCH PHỔ TUỆ
(Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam

LỜI GIỚI THIỆU

Thay mặt Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tôi tán dương Hội đồng Quản trị Viện Nghiên cứu Phật học Việt Namđặc biệt là Ban Biên tập Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam đã hoan hỷ đảm trách nhiệm vụ phiên dịchbiên tập và ấn hành bộ Thánh điển thiêng liêng này.
Phiên dịch Kinh, Luật, Luận từ các ngôn ngữ Phật học (Pāli, Sanskrit, Hán cổ) ra tiếng Việt là trách nhiệm cao quý của Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (VNCPHVN) do Trưởng lão Hòa thượng Thích Minh Châu thành lập năm 1989, nhằm đáp ứng nhu cầu nghiên cứuhọc hỏi và thực tập Phật pháp của hàng triệu Tăng NiPhật tử Việt Nam trong và ngoài nước.

1. Về thuật ngữ

Tôi tán đồng cách Hội đồng Quản trị VNCPHVN thay đổi cụm từ “Đại tạng kinh Việt Nam”, vốn chịu ảnh hưởng từ cách đặt tựa tác phẩm của Phật giáo Trung Quốc, thành “Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam”, nhằm thể hiện bản sắc văn học Phật giáo Việt Namđồng thời thích ứng với cách đặt tên phổ biến của cộng đồng Phật giáo thế giới hiện nay.

Khái niệm “Đại tạng kinh” chỉ đề cập đến “Kinh tạng” (P. Sutta Piṭaka, H. 經蔵) tức kho tàng Chân lý, trong khi khái niệm “Tam tạng Thánh điển Phật giáo” có nội hàm rộng hơn, bao quát hơn; đó là ngoài kho tàng Chân lý còn có kho tàng Đạo đức (P. Vinaya Piṭaka, H. 律蔵, Luật tạng), kho tàng Triết học tâm (P. Abhidhamma Piṭaka, H. 論蔵, Luận tạng), Văn học Chú giải (P. Aṭṭhakathā), Văn học Phụ chú giải (P. Ṭīkā), Văn học Tục tạng và các tác phẩm Phật học Việt Nam.

Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam bao gồm các tuyển tập Tam tạng Phật giáo Thượng Tọa bộ (ảnh hưởng các nước Ấn ĐộTích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia), Tam tạng Phật giáo Bộ pháiTam tạng Phật giáo Đại thừa (ảnh hưởng Việt NamTrung QuốcNhật BảnĐại HànTây Tạng), Văn học Sớ giải, Văn học Tông phái Phật giáo và Văn học Phật giáo Việt Nam, v.v…

2. Về Văn học sử Phật giáo

“Thánh điển Phật giáo” là khái niệm chỉ cho tuyển tập những lời dạy của đức Phật trong 45 năm (theo Phật giáo Nam truyền) hay 49 năm (theo Phật giáo Bắc truyền) truyền bá Chân lý (P. Dhamma, S. Dharma, H. 法, Pháp), Đạo đức (P=S. Vinaya, H. 戒律, Giới luật), và Các pháp siêu việt (P. Abhidhamma, S. Abhidharma, H. 無比法, Vô tỷ pháp).

Thánh điển Phật giáo được truyền thừa qua hình thức khẩu truyền, được cho là bằng ngôn ngữ Pāli từ thời đức Phật (khoảng thế kỷ VI-V TTL) và lưu truyền qua ba lần kết tập kinh điển tại Ấn Độ. Đến đại hội kết tập kinh điển lần thứ tư tại Tích Lan (khoảng thế kỷ I TTL), Thánh điển được viết trên lá bối và lưu truyền đến ngày nay. Hai tác phẩm Đảo sử (Dīpavaṃsa) và Đại sử (Mahāvaṃsa) đều ghi nhận rằng trong triều đại Valagamba (29-17 TTL) tại Anuradhapura, Tích Lan, các cao Tăng thuộc làu Tam tạng Pāli bắt đầu viết kinh Phật trên lá bối để giữ gìn và truyền bá lời Phật dạy một cách hiệu quả hơn.

Theo các nhà Đại thừa, cũng vào thế kỷ I (TTL) trở đi, kinh điển Đại thừa bằng tiếng Sanskrit lần lượt ra đời. Ngoài các bản kinh Đại thừa quan trọng tồn tại với ấn bản Sanskrit, phần lớn văn học Phật giáo Đại thừa được lưu giữ qua các bản dịch Hán cổ, được các vua chúa, đại tín chủ lưu bố qua các bản chép tay, khắc trên đá, khắc trên gỗ, và về sau biên tập thành các Đại tạng kinh mang tầm vóc quốc gia ở Trung Hoa; còn tiếng Tây Tạng cổ, được biên tập thành Kinh điển Phật giáo Tây Tạng (Tibetan Buddhist Canon) gồm hai tạng Kangyur (Kinh – Luật tạng gồm 100 bộ) và Tengyur (Luận tạng gồm 213 bộ).

3. Về phương diện lịch sử

Hơn 10 thế kỷ (từ thế kỷ I-X) bị Trung Quốc đô hộ, người Việt Nam đã sử dụng Đại tạng kinh Trung Hoa bằng Hán cổ và cho đến những thế kỷ sau. Giai đoạn 80 năm Pháp thuộc (1867-1945), người Việt lại buộc phải sử dụng tiếng Việt La-tinh hóa nên chữ Hán Nôm mất dần vị trí ngôn ngữ chính thống. Đứng trước nhu cầu thích nghi với quốc ngữ mới, các cao Tăng Việt Nam quyết định phiên dịch kinh điển từ Hán cổ ra tiếng Việt La-tinh để phổ biến lời Phật dạy rộng rãi hơn, vì đại đa số người Việt trong thời Pháp thuộc không đọc được chữ Hán Nôm.

Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam được hình thành qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1 bắt đầu từ 1950 đến 1975, với đỉnh cao là sự ra đời của Hội đồng Phiên dịch Kinh điển của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) vào năm 1973 và ngưng hoạt động vào năm 1975. Các bậc Tôn túc đóng góp nổi bật trong việc phiên dịch kinh điển từ Hán cổ sang tiếng Việt trong giai đoạn này có Hòa thượng Thích Trí Tịnh (Ma-ha Bát-nhã, Hoa NghiêmĐại Bảo Tích, Niết-bàn, Pháp Hoa); Hòa thượng Thích Trí Nghiêm (Đại Bát-nhã); và chư vị Hòa thượng Thích Thanh Từ, Hòa thượng Thích Bửu Huệ, Hòa thượng Thích Thiền Tâm (Trung A-hàm, Tăng nhất A-hàm), Hòa thượng Thích Thiện Siêu, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, Thượng tọa Thích Trí Thành (Trường A-hàm, Tạp A-hàm), v.v…

Giai đoạn 2 bắt đầu từ 1975 đến 2017, với sự ra đời của các bản dịch từ Pāli sang tiếng Việt. Đóng góp nổi trội của Hòa thượng Thích Minh Châu là phiên dịch hầu hết Kinh tạng Pāli. Hòa thượng Hộ Tông, Hòa thượng Bửu Chơn, Hòa thượng Giới Nghiêm phiên dịch Luật tạng Pāli và Hòa thượng Tịnh Sự dịch Luận tạng Pāli. Gần đâyThượng tọa Chánh Thân đã dịch mới một số kinh trong Tiểu bộ và Luật tạng Pāli.

Sau ba thập niên phiên dịch độc lập, đến năm 1991, Hội đồng Chỉ đạo Phiên dịch và Ấn hành Đại tạng kinh Việt Nam chính thức được Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) thành lập. Từ đó đến nay, VNCPHVN chỉ tái bản được Kinh tạng Nam truyền, gồm 13 tập và một vài tập A-hàm. Trong thời gian này và trước đó, Hòa thượng Thích Trí Quang đã dịch hơn 25 tập Kinh, Luật, Luận; Hòa thượng Thích Đỗng Minh đã dịch một số bộ Luật và hướng dẫn, khuyến khích chư Tăng Ni tại Nha Trang phiên dịch các bộ Luật của các bộ phái Phật giáo, góp phần làm phong phú kho tàng Luật tạng Phật giáo Việt Nam.

Trong hai thập niên, 1994-2014, Hội đồng Dịch thuật do Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh khởi xướng và bảo trợ, có công tổng hợp, biên tập và xuất bản các công trình dịch thuật đã có, đồng thời dịch mới các Kinh, Luật, Luận quan trọng khác để hình thành Linh Sơn Pháp bảo Đại tạng kinh.

Giai đoạn 3 từ năm 2017 trở đi. Vào giữa năm 2018, Hội đồng Quản trị VNCPHVN thành lập Ban Biên tập Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam, tiến hành đối chiếu văn bản song ngữ, biên tập tiếng Việt, làm tổng mục lục mới, với mục tiêu phiên dịch hoàn tấtbiên tập và xuất bản Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam, gồm Ba tạng Thượng Tọa bộ, Ba tạng Bộ phái và Ba tạng Đại thừaĐồng thờiVăn học Sớ giải, Tục tạng, Văn học tông phái Phật giáo Trung QuốcNhật Bản và Văn học Phật giáo Việt Nam cũng sẽ được thực hiện tiếp theoCông trình sưu tầm, phiên dịch, hiệu chú và ấn hành này dự kiến sẽ hoàn thành trong vòng 10 năm hoặc lâu hơn nữa.

4. Về bản sắc quốc gia

Thánh điển Phật giáo được xem là quốc bảo của nhiều quốc gia theo đạo Phật. Các quốc gia thuộc hai truyền thống Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền đều có Thánh điển Phật giáo bằng tiếng mẹ đẻ của họ từ lâu. Tại các nước Phật giáo Nam truyền như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, ngoài ấn bản Tam tạng Thánh điển Pāli, đều có bản dịch Thánh điển Phật giáo bằng quốc ngữ của họ.

Trong các nước Phật giáo Đại thừaTrung Quốc là nước đầu tiên có Khai Bảo tạng được khắc gỗ từ năm 971 đến 983 thời nhà Bắc Tống. Các nước Phật giáo Đại thừa chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Trung Quốc đều có ấn bản Đại tạng kinh chữ Hán theo phong cách riêng.

Đại Hàn (1011-1082) có ấn bản Cao Ly Đại tạng kinh (高麗大蔵經), hay còn gọi là Bát vạn Đại tạng kinh (八萬大蔵經), có cấu trúc mục lục khác với các Đại tạng kinh Trung Quốc, gồm Tam tạng Đại thừa (các bản văn 1-646), Tam tạng Tiểu thừa (các bản văn 647-978), Thánh Hiền Phật ký lục (các bản văn 979-1087) và các tác phẩm khác (1088-1498), trong đó, các bản văn 1402-1405 là các trước tác của Phật giáo Đại Hàn.

Nhật Bản có Thiên Hải tạng (天海蔵)đầu tiên được thực hiện từ năm 1637 đến 1648. Đến đầu thế kỷ XX, Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh (大正新脩大蔵經, 1924-1934) do các học giả Takakusu Junjiro, Watanabe Umiakira và Ono Genmyo biên tập, gồm 100 tập, 3.493 bộ, 13.520 quyển, trong đó, 55 tập đầu gồm Kinh, Luật, Luận, Sớ giải, các tông phái Phật giáo Trung QuốcNhật Bản. Đây là ấn bản Đại tạng kinh bằng chữ Hán hoàn chỉnh nhất, có tính hệ thống về phân loại và chấm câu tốt nhất.

Phật giáo Tây Tạng cũng có Đại tạng kinh riêng khá sớm, từ năm 1290 đến 1364. Đại tạng này bao hàm hầu hết các bản luận Sanskrit của các bộ phái Phật giáo Ấn Độ, có nguồn gốc từ Trường Đại học Nalanda nổi tiếng và một số bản dịch từ tiếng Hán. Đại tạng này được hiệu chỉnh qua các thời kỳ và trở thành kho tàng Pháp bảo Tạng truyền đặc thù, vì nó chứa nhiều bộ mật chú và pháp môn tu bí truyền mà ngày nay không tìm thấy trong các Đại tạng Trung Hoa và các nước khác.

Tính từ thời điểm Pháp thuộc năm 1867 đến 2019, khi tiếng Hán – Việt trở thành tiếng Việt La-tinh hóa, 152 năm đã trôi qua, hoặc tính từ thời điểm Hội đồng Phiên dịch Kinh điển của GHPGVNTN hình thành từ năm 1973 cũng đã trải qua 46 năm, Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam chỉ mới hoàn tất một nửa chặng đường phiên dịch.

Bên cạnh việc trân trọng những thành quả dịch thuật của các bậc Tôn đức hữu công thuộc các thế hệ trước, GHPGVN cần có Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam hoàn chỉnh, không chỉ thể hiện bản sắc văn hóa Phật giáo Việt Nam mà còn giúp cho người Việt Nam không biết các cổ ngữ Phật giáo, có thể tiếp cận lời Phật dạy bằng tiếng Việt, nhằm đạt được trí tuệ do nghe chân lý Phật (P. SutamayapaññāVăn tuệ), trí tuệ do nghiền ngẫm chân lý Phật (P. CintāmayapaññāTư tuệ) và trên nền tảng này, tiếp tục đạt được trí tuệ do thực hành thiền chỉthiền quán (P. Bhāvanāmayapaññā, Tu tuệ).

Để tạo nên bản sắc văn hóa tâm linh Phật giáo Việt Nam qua Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam, tôi tha thiết kêu gọi quý Tăng Ni và Phật tử tham gia vào Ban Phiên dịch và Ban Biên tập Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam, góp phần phiên dịch và xuất bản hoàn chỉnh Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt NamĐồng thời, tôi tha thiết kêu gọi quý mạnh thường quân và quý Phật tử phát tâm đóng góp tịnh tài để công trình phiên dịchbiên tập và xuất bản Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam sớm thành tựu mỹ mãn.

Xuất bản Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam không chỉ là niềm mơ ước của Tăng Ni và Phật tử Việt Nam mà còn tạo thuận duyên cho 97 triệu người Việt Nam trong nước và hơn 5 triệu người Việt Nam ở hải ngoại có cơ hội học Phật, tu Phật bằng tiếng Việt, để diệt trừ tham áisân hậnsi mêchấp thủ, vốn là nhân khổ đau, đồng thời, trải nghiệm an vui, hạnh phúc bây giờ và tại đây, góp phần làm cho Tổ quốc Việt Nam ngày càng giàu, mạnh và phát triển bền vững.

Vesak Liên Hợp Quốc, PL.2563 – DL.2019
Hòa thượng THÍCH THIỆN NHƠN
(Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN)

DẪN LUẬN KINHTĂNG CHI BỘ

Tăng chi bộ (Aṅguttara Nikāya) là bộ kinh thứ tư trong năm bộ thuộc hệ thốngKinh tạng Nikāya của Phật giáoThượng Tọa bộ (Theravāda). Theo tác phẩm Diệu pháp yếu lược (Saddhammasaṅgaha) của Ngài Dhammakitti Mahāsāmi, việc giữ gìntruyền tụng Tăng chi bộ là do Tôn giả Anuruddha và Tăng chúng thuộc nhóm của Ngài thực hiện.
Trong Tổng quan về 5 bộ kinh Pāli, Ngài Ấn Thuận chủ trương rằng cả 5 bộ kinh này, trong đó có Tăng chi bộ, được bảo tồnlưu truyền bởi Đồng Diệp bộ.[1] Chi tiết hơn, Ngài Ấn Thuận trích dẫn theo Ngài Buddhaghosa về việc có 4 hệ thốngphụ trách 4 bộ kinh chính như sau:

(1)Hệ thống Ānanda phụ trách Trường bộ;
(2) Hệ thống Sāriputta phụ trách Trung bộ;
(3) Hệ thống Mahākassapa phụ trách Tương ưng bộ;
(4) Hệ thống Anuruddha phụ trách Tăng chi bộ.

Tăng chi bộ có một cấu trúc rất đặc thù vì bộ kinh vừa giống như một bản khái quát cô đọng, tóm tắt những giáo lý cơ bản, những đề tài quan trọng đã được trình bày rộng rãi ở trong Trường bộ (Dīgha Nikāya) và cả Trung bộ (Majjhima Nikāya). Không những vậy, Tăng chi bộ còn chuyển tải những nội dung vừa phong phú vừa rất mực chi tiết về những điều khoản giống với Luật tạng như vấn đềTám pháptrọng yếu (Aṭṭhagarudhamma) của Tỳ-kheo-ni.  
Tương tựtruyền thốngpháp số đi từ thấp lên cao như hai bản kinhcuối cùng trong Trường bộ,2 Tăng chi bộ có cấu trúc từ Một pháp (Ekakanipāta) cho đến Mười một pháp (Ekādasakanipāta). Cấu trúc này cũng được thiết lập trong bộ kinh Hán tạng tương đương là Tăng nhất A-hàm (Ekottarikāgama), tuy nhiêntrật tựpháp số cũng như sự sắp xếp về nội dung giữa hai bộ kinh này có nhiều điểm khác biệt nhau. Tăng nhất A-hàm được Ngài Saṃgharaksa (Tăng Hộ) khẩu truyền cho Ngài Saṃghadeva (Tăng-già-đề-bà) và được dịch sang tiếng Hán vào năm 397-98. Cả hai Ngài đều là người Kasmir (Kế-tân). Khi phiên dịch, dường như Ngài Saṃghadeva cũng sử dụng một phiên bản xưa hơn do Ngài Dharmanandi (Đàm-ma-nan-đề) người Tokharian (Khương-cư) truyền khẩu lại. Rất tiếc, những bản gốc tiếng Sanskrit đều không còn, ngoài những bài kinh rời tìm được ở miền Đông Thổ Nhĩ Kỳ (Turkestan).[2] Truyền thốngthiết lập nội dung dựa trêntrật tựpháp số trong Tăng chi bộ cũng như Tăng nhất A-hàm là một trong những phương cáchphổ biến để ghi nhớ và truyền bákinh điển. Vì lẽ, trong thư tịch cổ văn của Ấn Độ, vấn đề này còn được phát hiện trong tác phẩmkinh điển Sthānāṅgasūtra và Samavāyānga[3] của Kỳ-na giáo (Jain) và cả trong chương Udyoga Parva của trường ca Mahābhārata.[4] Điều khác biệt là những nhà biên tập Tăng chi bộ cũng như Tăng nhất A-hàm đã đưa truyền thốngpháp số vốn có trong nền văn học cổ đại Ấn Độ làm cấu trúc chủ đạo, xuyên suốt và chi phốitoàn bộ.6
Vấn đề số lượng các kinh trong Tăng chi bộ cũng là một vấn đề nan giải, vì mãi đến hôm nay vẫn chưa có được một con số thống nhất. Quan điểmtruyền thốngdựa trêntuyên bố của Ngài Dhammakitti Mahāsāmi viết trong tác phẩm Diệu pháp yếu lược cho rằng có 9.557 kinh. Ấn bản hiện có của Tam tạngTích Lan (Sri Lanka Tipiṭaka) chỉ ghi nhận có 8.777 kinh.[5] Trong tác phẩm Phân tích Kinh tạng Pāli (An Analysis of the Pāli Canon), tác giả Russell Webb đã thống kê có 3.208 kinh.[6] Trong bản dịch Tăng chi bộ từ Pāli sang Anh ngữ với tên gọi The Numerical Discourses of the Buddha, Bhikkhu Bodhi đã đếm được tổng số là 8.122 kinh. Trong số đó, có 4.250 kinh bị trùng lặp, thế nên thực tế chỉ có 3.872 kinh.9 Con số tối thiểuhọc giả Maurice Winternitz đưa ra là 2.308 kinh.[7] Cách tính của Edmund Hardy lại cho ra con số 2.344,[8] con số này được Bách khoa Từ điển Phật giáo (Encyclopaedia of Buddhism) xuất bản tại Tích
Lan tiếp nhận.12 Trong bản dịch tiếng Việt Tăng chi bộ của Hòa thượng Thích Minh Châu, chúng tôi đếm được 7.231 kinh. Trên thực tế chỉ có 2.202 kinh, còn lại là những kinh giống như kinh trước nhưng chỉ khác một thuật ngữ hoặc một khái niệm nhỏ.
Truyền bản Tăng chi bộ được ghi lại đầu tiên bằng ngôn ngữ Sinhala do một nhóm các vị Tỳ-kheo tại Alu Vihāra gần Mātale thực hiện vào năm 454 sau khi đức Phật nhập Niết-bàn (35-32 BC.).[9] Đến cuối thế kỷ XIX, vào năm 1885, Hội Thánh điển Pali (PTS) đã tổ chức ấn hành bản Tăng chi bộ từ ngôn ngữ Pāli chuyển thể sang mẫu tự La-tinh do Richard Morris (1833-1894) biên tập.
Sau đó, Hội PTS đã lần lượtấn hành bản dịch Anh ngữ Tăng chi bộ với tựa đề The Book of the Gradual Sayings do tác giả F. L. Woodward (1871-1952) dịch tập I, tập II, tập V và tác giả E. M. Hare (1893-1955) dịch tập III và tập IV. Đến năm 2012, Bhikkhu Bodhi đã dịch lại Tăng chi bộ từ Pāli sang Anh ngữ với tựa đề The Numerical Discourses of the Buddha. Vào năm 2018, Bhikkhu Sujato dịch bản kinh này từ Pāli sang Anh ngữ với tựa đề Numerical DiscoursesBách khoa Từ điển Phật giáo tại Tích Lan cho rằng những tựa đề trên đều xuất phát từ tựa đề rất dài mà Max Müller trước kia đã sử dụng Collection of Discourses in Divisions the Length of Which Increases by One.[10] Tính đến ngày nay, Tăng chi bộ đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ trên thế giớinhư Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Nga, Hoa, Thái Lan, Indonesia… và gồm cả tiếng Việt.
Tăng chi bộ gồm những bài kinh ngắn và rất ngắn, tuy nhiên, cũng có nhiều bài kinh dài, thường được hỗ trợ bởi các đoạn kệ tụng.[11] Tất cả những bài kinh dù ngắn hay dài đều được sắp xếp theo hệ thống một cách cẩn thận.[12] Bimala Churn Law cho rằng, bộ kinh này từ Trường bộ và Trung bộ chia nhỏ mà có. Nhờ ngắn gọn nên có tác dụng giúp ích cho việc ghi nhớ, thuận tiện cho việc đọc tụng cũng như truyền dạy từ thầy xuống trò. Mặt khác, nhờ ngắn gọn nên từng đề tài nhỏ trong kho tàng giáo pháp được nhấn mạnh đầy đủ,[13] cụ thể như trường hợp mỗi một triền cáitrở thành đề tài của một bài kinh
Nội dung của Tăng chi bộ vô cùng đa dạng, phong phú, ngoài giáo pháp còn có những mảng liên quan đếntriết học, đạo đức học,[14] văn hóa, luật pháp[15] và công íchxã hội.[16] Tăng chi bộ không chỉ hàm chứa nội dung có giá trị rất riêng, soi sáng về lịch sử phát triển của Phật giáo,[17] mà còn có nhiều nội dung tương thông với Luật tạng, nhất là với Suttavibhaṅga[18] và Luận tạng, đặc biệt với bộ Puggalapaññatti (Nhân chế định),[19] nhưng nhiều nhất vẫn là sự tương thông với các bộ kinh khác. Về mặt ngôn ngữ và văn phong, Tăng chi bộ gần như không có gì khác biệt với 3 bộ kinh trước vì cả 4 bộ kinh này đều có chung một nguồn tư liệu là nền văn họcPhật giáo Nguyên thủy[20] trong dạng truyền khẩu. Ngài Ấn Thuận đã liệt kê 215 trường hợp của Tăng chi bộ có cùng nội dung với Trung A-hàm kinh.[21] Nhiều trường hợp khác, Tăng chi bộ có cùng nội dung với Tăng nhất A-hàm kinhNhư thị ngữ kinh và Bổn sự kinh.[22]

Cả Bimala Churn Law và Kanai Lal Hazra[23] đều chia sẻ một bản liệt kê giống nhau về việc phân bố của các phần (nipāta), phẩm (vagga), quyển (nikāya) và trang của ấn bản PTS như sau:
 

Stt

 Phần

Phẩm

Quyển

Trang

1

 Một pháp

 21

 I

 01 – 46

2

 Hai pháp

 16

 I

 47 – 100

3

 Ba pháp

 16

 I

 101 – 304

4

 Bốn pháp

 26

 II

 01 – 257

5

 Năm pháp

 26

 III

 01 – 278

6

 Sáu pháp

 12

 III

 279 – 452

7

 Bảy pháp

 09

 IV

 01 – 149

8

 Tám pháp

 09

 IV

 150 – 350

9

 Chín pháp

 09

 IV

 351 – 466

10

 Mười pháp

 22

 V

 01 – 310

11

 Mười một pháp

 03

 V

 311 – 361

Bản dịch tiếng Việt Tăng chi bộ do Hòa thượng Thích Minh Châuthực hiện vào năm 1976 và đã ấn hành lần đầu tiên vào năm 1980 trong hình thứclưu hành nội bộ. Trải qua nhiều lần hiệu đính được thực hiện bởi chính dịch giả và các vị được giao phóTăng chi bộ trong bản in năm 2020 có bổ sung một số phụ chú tham chiếu Pāli, Hán cổ và bản tiếng Anh mà Ngài đã sử dụngtham khảo trong quá trình dịch thuật.
Ấn bản lần này gom thành 1 tập và có số phẩm, số trang như sau:
 

Stt

 Phần

Phẩm

Trang

1

 Một pháp

 20

 01 – 47

2

 Hai pháp

 19

 49 – 92

3

 Ba pháp

 18

 93 – 267

4

 Bốn pháp

 28

 269 – 497

5

 Năm pháp

 29

 499 – 710

6

 Sáu pháp

 13

 711 – 827

7

 Bảy pháp

 11

 829 – 929

8

 Tám pháp

 11

 931 – 1053

9

 Chín pháp

 10

 1055 – 1131

10

 Mười pháp

 23

 1133 – 1319

11

 Mười một pháp

 04

 1321 – 1350

Nội dung của Tăng chi bộ được tóm tắt như sau:

1. Chương Một pháp (Ekakanipāta) gồm những chủ đề: Sức mạnhtai hại của ngũ dục; Các trạng tháithiền định; Bản chấtsức mạnh của tâm khi được tu tập cũng như xác định đúng hướng và ngược lại; Những thành tựu đúng nghĩa và những mất mát vô nghĩa; Những lợi íchbất lợi; Những bậc Thánh tiêu biểu trong giáo pháp, từ đức Phật đến Thánh chúng và các vị cưtại gia; Những sự kiện không xảy ra và có xảy ra; Sự đặc thù của chánh kiếntà kiến; Sức mạnh của không phóng dật, tinh tấnthiền định.

Tâm này, này các Tỷ-kheo, là sáng chói, nhưng tâm này bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào” (A. I. 10).

2. Chương Hai pháp (Dukanipāta) gồm những chủ đề: Nhân quảtội báo; Nền tảng đạo đức; Hai loại sức mạnh; Hai cách thuyết pháp; Vai trò của văn cú và nội dung ý nghĩa; Tri ânbáo ân; Định danhTrưởng lão; Các loạihội chúng; Các loạihỷ lạc; Các loạihy vọng; Các loạibố thí; Bậc Thánh và sự giác ngộ; Thanh tịnh thì không sợ hãi; Hiền trí và kẻ ngu; Thiền định và các tâm hộ trì; Phẫn nộ và hiềm hận; Nguyên nhânchế giới.

Hai pháp trắng này, này các Tỷ-kheo, che chở cho thế giới. Thế nào là hai? Tàm và quý” (A. I. 51).

3. Chương Ba pháp (Tikanipāta) gồm những chủ đề: Kẻ ngu và người trí; Ba thời điểm cần ghi nhớ; Bài học từ người đóng bánh xe; Bài học từ người buôn bán; Những loại người xuất hiện trên đời, những loại người nên và không nên gần gũi; Nghệ thuật giao tiếp; Con cái tôn kínhcha mẹ như Phạm thiên; Thế nào gọi là an lạc; Gia đình hiền thiện; Điều kiện sống của đức Phật trước khi xuất gia; Ba minh của Bà-la-môn và Ba minh của bậc Thánh; Ba loại thần thông; Biện minh về tạo hóa; Sư tửdã can; Tự biết rõ rồi hãy tin; Sơ khởi về Nhân minh luận; Các loạitrai giới; Các loại hương; Tăng thượngtam học; Vải thô và lụa là; Nắm muối và chén nước; Lọc tâm như lọc vàng; Ba hạng Đạo sư; Tự ngã thối nát; Ba loại chữ viết; Chiến sĩ và Tỳ-kheo; Tam pháp ấn; Thuần hóa ngựa rừng; Các loại đạo lộ.

Như vậy, này Ānanda, nghiệp là thửa ruộng, thức là hạt giống, ái là sự nhuận ướt” (A. I. 223).

4. Chương Bốn pháp (Catukkanipāta) gồm những chủ đề: Giới, Định, Tuệ và Giải thoát; Bậc trí tuệđa văn như vàng ròng ở cõi Diêm-phù; Bốn vô sở úy; Bốn chánh cần; Tôn trọng và nương tựa pháp; Bốn pháp tác thành bậc Trưởng lão; Mục đích của Phạm hạnh; Bốn Thánh chủng; Bốn nhiếp pháp; Đức Phật là ai; Bốn cách trả lời; Nguồn cội của phước đức; Bốn cách sống chung; Bốn pháp bố thí; Bổn phận của cư sĩ; Pháp rải tâm từ; Sự vi diệu của Như Lai; Cách thức thuyết pháp; Đạo lộ tu hành; Cơ sở xác định giáo pháp; Lắng nghe, tụng đọc, suy gẫm cách thức để thể nhập pháp; Hiểu rồi hãy nên tin; Nguyên nhân đẹp và xấu; Bốn loại nghiệp; Bốn quả Sa-môn.

Cũng vậy, này Bà-la-môn, sanh ra trong đời, lớn lên trong đời, Ta sống chinh phục đời, không bị đời thấm ướt. Này Bà-la-môn, Ta là Phật, hãy như vậy thọ trì” (A. II. 37).

5. Chương Năm pháp (Pañcakanipāta) gồm những chủ đề: Năm sức mạnh; Dạy bảo cứng rắn; Biết sống hòa hợp; Uế nhiễm của tâm; Năm xứ giải thoát; Lợi ích của kinh hành; Công đứcbố thí; Pháp của nàng dâu; Ý nghĩa sinh con trai; Phương cách gầy dựng tài sản; Bố thí vật khả ý; Năm loại Thánh tài; Mũi tên sầu muộn; Năm chướng ngại bao phủ tâm; Xuất gia khi tuổi xế chiều; Sống theo pháp; Năm hạng chiến sĩ; Sống ở trong rừng; Trưởng lãokỳ cựu;

Mất thần thôngdanh lợi; Phương thức của kẻ trộm; Sống theo Giới bổn; Chăm sóc bệnh; Phương phápgia tăng tuổi thọ; Tội ngũ nghịch; Tổn thấtthành tựu; Bậc Chuyển Luân Vương; Con voi của nhà vua; Bố thí của bậc Chân nhân; Diệu pháphỗn loạn; Cách thức thuyết pháp; Trừ khử hiềm hận; Kẻ bị vất bỏ; Năm việc không kinh doanh; Hạng người sống ở rừng; Cựu pháp của Bàla-môn; Các hạng Bà-la-môn; Bà-la-môn và chú thuật; Giấc mộng của Bồ-tát; Năm tính chất của lời nói; Lợi ích của cháo; Lợi ích của tăm xỉa răng; Thuyết pháp với giọng ca; Tham luyến trú xứ.
Nói đúng thời, nói đúngsự thật, nói lời nhu hòa, nói lời liên hệ đến lợi ích, nói với lời từ tâm” (A. III. 243).

6. Chương Sáu pháp (Chakkanipāta) gồm những chủ đề: Cung kính bậc đáng cung kính; Các căn và các lực; Con ngựa của nhà vua; Sáu nguyên tắc sống chung; Giáo giới khi lâm chung cho hàng cư sĩ, Tỷ-kheo; Nghề nghiệp và ác nghiệp; Tu tập niệm chết; Thời gianthích hợp để tu hành; Sáu chỗtùy niệm; Sáu pháp minh phần; Vô nhân luận của Bà-la-môn; Nguyên nhân để Diệu pháptồn tại; Trú xứ mà Phật hoan hỷ; Xác tín về quả Dự lưu; Đau khổ của kẻ nghèo khổ; Bình đẳngtư duy; Phòng hộ các căn; Không phóng dật; Đồng Phạm hạnh phải kính trọng nhau; Tiếng đàn của Soṇa; Đoạn trừ lậu hoặc; Hoàn tụcxuất gia; Con đường đi đến bờ kia; Pháp mônquyết trạch; Sáu lực của Như Lai; Điều kiện để chứng quảBất lai và A-la-hán; Điều kiện để an trúSơ thiền; Thành tựu sự thanh lương; Quyết định tánh của sự nghe pháp; Hành động của người có chánh kiến; Chứng quảDự lưu.

Khi tinh cầntinh tấn quá căng thẳng, thời đưa đến dao động; khi tinh cầntinh tấn quá thụ động, thời đưa đến biếng nhác” (A. III. 375).

7. Chương Bảy pháp (Sattakanipāta) gồm những chủ đề: Bảy tài sản của bậc Thánh; Phiền nãotiềm phục; Điều kiệntrở thànhgia đình thuần lương; Ví dụ người và nước; Bảy pháp bất thối của một quốc gia và của vị Tỳ-kheo; Bảy giác chi; Lời nóivắn tắt nhưng ý nghĩa rộng lớn; Những điều kiện để trở thành bạn tốt; Điều kiệnđạt đượcbốn vô ngại giải; Thiện xảo trong thiền định; Bảy chỗ thức trú; Bảy loại lửa và lợi ích của chúng; Bảy loại tưởng; Thế nào là sống Phạm hạnh; Pháp mônhệ lụyly hệ lụy; Bố thí với ý nghĩa lớn; Nguồn gốc của sự hồi hướng công đức; Những sự kiệnNhư Lai không trả lời; Bảy sanh thú của loài người; Kết quả hiện tại của sự bố thí; Như Lai không che đậy và không phạm lỗi; Những phương phápngăn ngừabuồn ngủ; Bảy hạng vợ; Ước muốn của kẻ thù địch; Tàm quý và cơ sở để chế ngự các căn; Bảy mặt trời; Phòng hộ vững chãi như thành trì ngoài biên ải; Bảy pháp cần thắng tri; Cây Trú Độ của chư thiêncõi trời Ba Mươi Ba; Tỳ-kheo phải kính trọng ai; Tùy thuậntu tập; Sự nguy hiểm của cung kínhlợi dưỡng; Ngoại đạoly tham Araka dạy đệ tử; Để xứng đáng là bậc trì Luật; Bảy pháp diệt trừ sự tranh cãi; Người xứng đáng được cung kính.

Như giọt sương là đời sốngloài người, nhỏ bé, không đáng kể, nhiều khổ đau, nhiều ưu não” (A. IV. 136).

8. Chương Tám pháp (Aṭṭhakanipāta) gồm những chủ đề: Lợi ích của lòng từ; Tám nhân duyênthành tựuPhạm hạnh; Tám pháp xoay chuyển thế gian; Khi tâm bị chinh phục; Những phẩm hạnh của Tôn giả Nanda; Tỳ-kheo giả dạng; Các triết phái công kíchđức Thế Tôn; Tướng quân Sīha quy y với Thế Tôn; Con ngựa thuần phục, con ngựa chưa được điều phục và các hạng Tỳ-kheo; Vô minhcấu uế; Điều kiện để trở thànhsứ giả; Sự trói buộc giữa nam và nữ; Tám tính chất của biển và giáo pháp; Điều kiện để Bố-tát; Ugga và Hatthaka, những cư sĩlý tưởng; Định nghĩa về cư sĩ; Tám sự kiệnphi thời cho đời sốngPhạm hạnh; Tư niệm về pháp của Tôn giả Anuruddha; Những lý do phải bố thí và làm phước; Thửa ruộng và vị Tỳ-kheo; Tám nguồn nước công đức; Quả dị thục của hành động ác; Tám chi trai giớicông đứcthực hành; Tám pháp để nữ nhânsanh thiên; Các pháp giúp người phụ nữ sống tự chủ; Sự thành lập Ni đoàn và tám pháptrọng yếu; Những điều kiện để người cư sĩ sống hạnh phúc, an lạc ngay trong hiện tại và tương lai; Đạo và Quả của bậc Thánh; Điều kiện cần của vị giảng sư; Giao thiệp với chư thiên; Tám thắng xứ; Tám giải thoát; Tám Thánh ngôn; Hội chúng của đức Phật; Lời hứa của đức Phật; Lòng tin; Tu tập niệm chết; Chỗ dựa của biếng nháctinh tấn; Cội rễ của sự vật; Pháp của kẻ trộm; Các tên gọi khác của Như Lai; Trú xứ được đức Phật khen ngợi; Pháp trách phạt cư sĩ; Pháp yết-ma cử tội; Các nữ cư sĩtiêu biểu.

Trong Pháp và Luật này, các học pháp là tuần tự, các quả dị thụctuần tự, các con đườngtuần tự, không có sự thể nhập chánh tríthình lình” (A. IV. 197).

9. Chương Chín pháp (Navakanipāta) gồm những chủ đề: Chín pháp y cứ để thành tựuChánh giác phần; Các pháp đưa đến tâm giải thoát; Nghe pháp đúng thời và đàm luận pháp đúng thời; Thành tựu bốn sức mạnh; Pháp cần phải thân cận và không cần phải thân cận; Bậc A-la-hán không còn lỗi lầm; Chín hạng người; Phẩm hạnh của Tôn giả Sāriputta; Những lý do để sống Phạm hạnh; Hỏi đáp với Tôn giả Samiddhi; Thân thể như ung nhọt; Chín loại tưởng; Những gia đình vị Tỷ-kheo nên đến và không nên đến; Tám pháptrai giớibốn tâm vô lượng; Sự hối hận của chư thiên; Phân biệtbố thí; Chín chỗ cư trú của loài hữu tình; Tâm vững chãi như trụ đá; Chín cách nghĩ gây xung đột và cách điều phục; Đoạn diệtan trútuần tự; Niết-bàn là an lạc; Trí tuệthể nhập và khởi xuất thiền chứng; Đúng sai và hý luận; Trận chiến giữa chư thiên và a-tu-la; Hạnh sống độc cưthiền tịnh của vị Tỷ-kheo; Thế nào là an tịnh?; Trói buộcgiải thoát; Thế nào gọi là thân chứng, tuệ giải thoátgiải thoát cả hai phần; Năm hạ phần kiết sử và năm thượng phần kiết sử; Năm tâm hoang vubốn niệm xứ.

Pháp là chính thực mình thấy, pháp là thiết thựchiện tại” (A. IV. 453).

10. Chương Mười pháp (Dasakanipāta) gồm những chủ đề: Sự phát triển tuần tự của thiện pháp; Hữu diệt là Niết-bàn; Trú xứ lý tưởng; Năm tâm hoang vu và năm tâm triền phược; Không phóng dật là chỗ quy tụ của thiện pháp; Mười bậc xứng đáng được cúng dường; Mười chỗ cư trú của bậc Thánh; Mười lực và mười trí như thật của Như Lai; Mười đề mục (biến xứ) để tu thiền; Tối thượnghạ liệt; Vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) tán thánđức Thế Tôn; Mười lý dochế giới; Người hòa giải; Tư cách làm Thầy; Phá hòa hợp Tăng; Cội gốc của tranh luận; Quán sát kỹ rồi hãy buộc tội; Nguy hiểm khi thân cận vương quyền; Tự soi sáng tâm mình; Các pháp lấy Niết-bàn làm cứu cánh; Mười tưởng và việc trị bệnh; Thức ăn của vô minh và minh; Giải thích thêm về bốn bậc Thánh; Ước nguyện đúng pháp; Tiếng ồn là cây gai của thiền định; Hạnh nghiệp và nơi tái sinh; Con quạ và vị Tỳ-kheo; Mười hạng người hưởng dục; Chấp thủ của ngoại đạo; Rừng núi làm loạn tâm vị Tỳ-kheo chưa chứng thiền định; Định nghĩa về tẩy trần; Thuốc xổ của bậc Thánh; Ngày xuất ly của Bà-la-môn và của bậc Thánh; Tịnh hạnhbất tịnh hạnh; Cúng cho người chết; Pháp mônquanh copháp mônChánh pháp.

Với người sống Phạm hạnh, thân cận với phụ nữ là cây gai. Với người chứng Thiền thứ nhất, tiếng ồn là cây gai. Với người chứng Thiền thứ hai, tầm tứ là cây gai. Với người chứng Thiền thứ ba, hỷ là cây gai. Với người chứng Thiền thứ tư, hơi thở là cây gai. Với người đã đạt đượcDiệt thọ tưởng định, tưởng và thọ là cây gai. Tham là cây gai. Sân là cây gai. Si là cây gai” (A. V. 133).

11. Chương Mười một pháp (Ekādasakanipāta) gồm những chủ đề: Sự sinh khởituần tự các thiện pháp; Những tai họa khi xúc phạm bậc Thánh; Tác ý và không tác ý; Thiền tưthuần thục; Bậc Minh Hạnh Tròn Đầy; Các pháp tùy niệm; An trú với lòng tin và những pháp liên hệ; Những lợi ích khi tu tậplòng từ; Cánh cửa bất tử; Pháp của người chăn bò; Các trạng tháithiền định; Thắng tri tham ái.

Sát-lỵ, chúng tối thắng,
Với người tin chủng tánh,
Bậc Minh Hạnh Đầy Đủ,
Tối thắng giữa nhân, thiên” (A. V. 326).

Kết luận

Với điều kiện không có nhiều tùy chọn trong việc ghi nhớ và giữ gìn lời dạy của đức Phật, thì việc sắp xếp nội dung theo pháp số tăng dần của Tăng chi bộ là một kết cấu đặc thù, đã góp phần gìn giữ được sự toàn vẹn của giáo pháp. Mặc dù cách trình bày mang tính vắn tắt, cô đọng nhưng Tăng chi bộ đã chuyển tải được rất nhiều nội dung quan trọng trong giáo lýPhật giáo. Ngoài những quy địnhchi tiết, cụ thể như các điều luật dành cho giới xuất giacư sĩtại gia, cho đến những phân tích sâu xa về sự vận hành của tâm thức, bản kinh này đặc biệt chứa đựng nhiều nội dung rất thiết thực, liên quan đến người cư sĩlý tưởng trong việc sống có đạo đức, cách tạo dựng tài sản, xây dựnggia đình, xã hộilành mạnh, phụng sựTam bảotha nhân. Những vấn đề này có ý nghĩavô cùngthực tiễn, có giá trịứng dụng vượt thời giankhông gian, nhất là trong thời đại hiện nay, cuộc sống muôn màu, muôn vẻ.
Về phương diệnpháp hànhTăng chi bộ chứa đựng rất nhiều phương pháphành trìđức Phật đã giảng dạy. Từ những cách thức tu tậpđơn giảnnhất nhưtụng kinh, niệm Phật, hồi hướng công đứccho đến những pháp hành mang tính phổ quát như thiền Tứniệm xứ, thiền Chánh niệm… người học Phật nếu có đủ trí tuệ và đủ duyên vẫn có thể tự mình trải nghiệm và thành tựu được những pháp tu này, sau khi đã đọc kỹ và chiêm nghiệm Tăng chi bộ.
Xét về phương diệnlịch sử, văn hóa, bản dịch tiếng Việt Tăng chi bộ của Hòa thượng Thích Minh Châu là một đóng góp to lớn và có ý nghĩa về nhiều mặt. Ở đây, việc giữ gìnlưu bốbản kinh này, không những là một việc làm nhằm thể hiện lòng tri ân đối với các bậc tiền nhân mà còn là bổn phận và trách nhiệm đối với tương lai của Phật giáo Việt Nam.
 Mặc dù cách thời đức Phật đã xa nhưng khi khảo cứu về phương diệnlịch sửtruyền thừa, có thể thấy rằng, lời dạy của đức Phật trong Tăng chi bộ vẫn còn giữ được nguyên vẹn tính chân thực. Bởi lẽ, những lời dạy đó hoàn toànphù hợp và trùng khớp khi so sánh với Pháp và Luật được trình bày trong các kinh.

TP. Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2020
Cẩn soạn

TT. TS. THÍCH MINH THÀNH

(Đồng Tổng Biên tậpTam tạngThánh điểnPhật giáo Việt Nam)
______________________

[1] “Năm bộ bằng tiếng Pāli được bảo tồn một cách hoàn chỉnh do Đồng Diệp bộ (Tāmraṣāṭīyā) lưu truyền. Đây là việc làmhy hữu, không thể bỏ qua không tìm hiểu. Đồng Diệp bộ là một bộ phái của hệ Phân Biệt Thuyết (Vibhajyavāda), thuộc hệ Thượng Tọa bộ (Sthavira).” Hòa thượng Thích Ấn ThuậnLịch sửbiên tậpThánh điểnPhật giáo Nguyên thủy (Thích Phước Sơn và các dịch giả khác), NXB. Phương Đông, 2015, tr. 681. 2 D. 33, Saṅgīti Sutta (Kinh Phúng tụng) và D. 34, Dasuttara Sutta (Kinh Thập thượng).

[2] G. P. Malalasekera (ed.), Encyclopaedia of Buddhism, vol. I (The Government of Ceylon, 1961-65), p. 630.

[3] Maurice Winternitz, A History of Indian Literature, vol. 2 (Delhi: Motilal Banarsidass, 1993), p. 63.

[4] Oskar von Hinüber, Handbook of Pāli Literature (Berlin: Walter de Gruyter, 1996), p. 40. 6 Op. cit.

[5] Cf. https://www.accesstoinsight.org/.

[6] Russell Webb, An Analysis of the Pāli Canon (Kandy: Buddhist Publication Society, 1975), p. 26. 9 Bhikkhu Bodhi, The Numerical Discourses of the Buddha (Somerville, Massachusetts: Wisdom Publications, 2012), p. 18.

[7] Op. cit., tr. 58.

[8] Kanai Lal Hazra, Pali Language and Literature, vol. 1 (New Delhi: D. K. Printword Pvt. Ltd., 1994), p. 250. 12 G. P. Malalasekera (ed.), op. cit., tr. 629.

[9] Étienne Lamotte, History of Indian Buddhism (Paris: Institut Orientaliste Louvain La-Neuve, 1988), p. 558.

[10] Op. cit.

[11] Maurice Winternitz, A History of Indian Literature, vol. 2 (Delhi: Motilal Banarsidass, 1993), p. 59.

[12] Kanai Lal Hazra, Pali Language and Literature, vol. 1 (New Delhi: D. K. Printword Pvt. Ltd., 1994), p. 250.

[13] Bimala Churn Law, A History of Pali Literature (Varanasi: Indica Books, 2000), p. 203.

[14] Op. cit., p. 252.

[15] Bimala Churn Law, op. cit., p. 203.

[16] Op. cit.

[17] Op. cit

[18] Op. cit., pp. 202-03. Kanai Lal Hazra, op. cit., p. 251.

[19] Bimala Churn Law, op. cit., p. 203.

[20] G. P. Malalasekera (ed.) op. cit., p. 630. Kanai Lal Hazra, op. cit., p. 251.

[21] Ấn ThuậnLịch sửBiên tậpThánh điểnPhật giáo Nguyên thủy (TP. HCM: NXB. Phương Đông, 2015), tr. 984-87.

[22] Ấn Thuậnop. cit., tr. 1044-46.

[23] Bimala Churn Law, op. cit., p. 192. Kanai Lal Hazra, op. cit., p. 253.

Kinh Tăng Chi BộPDF icon (4)000.-Phần-Mở-Đầu
CHƯƠNG MỘT PHÁP
001.-Ch1-Một-Pháp-I.-Phẩm-Sắc-(Rūpādivagga)
002.-Ch1-Một-Pháp-II.-Phẩm-Đoạn-Trừ-Triền-Cái-(Nīvaraṇappahānavagga)
003.-Ch1-Một-Pháp-III.-Phẩm-Khó-Sử-Dụng-(Akammaniyavagga)
004.-Ch1-Một-Pháp-IV.-Phẩm-Không-Điều-Phục-(Adantavagga)
005.-Ch1-Một-Pháp-V.-Phẩm-Đặt-Hướng-và-Trong-Sáng-(Paṇihitaacchavagga)
006.-Ch1-Một-Pháp-VI.-Phẩm-Búng-Ngón-Tay-(Accharāsaṅghātavagga)
007.-Ch1-Một-Pháp-VII.-Phẩm-Phát-Khởi-Tinh-Tấn-(Vīriyārambhādivagga)
008.-Ch1-Một-Pháp-VIII.-Phẩm-Làm-Bạn-với-Thiện-Hữu-(Kalyāṇamittādivagga)
009.-Ch1-Một-Pháp-IX.-Phẩm-Phóng-Dật-(Pamādādivagga)
010.-Ch1-Một-Pháp-X.-Phẩm-Phóng-Dật-Thứ-Hai-(Dutiyapamādādivagga)
011.-Ch1-Một-Pháp-Xl.-Phẩm-Phi-Pháp-(Adhammavagga)
012.-Ch1-Một-Pháp-XII.-Phẩm-Không-Phạm-(Anāpattivagga)
013.-Ch1-Một-Pháp-XIII.-Phẩm-Một-Người-(Ekapuggalavagga)
014.-Ch1-Một-Pháp-XIV.-Phẩm-Người-Tối-Thắng-(Etadaggavagga)
015.-Ch1-Một-Pháp-XV.-Phẩm-Không-Thể-Có-Được-(Aṭṭhāna)
016.-Ch1-Một-Pháp-XVI.-Phẩm-Một-Pháp-(Ekadhamma)
017.-Ch1-Một-Pháp-XVII.-Phẩm-Pháp-Tác-Tịnh-(Pasādakaradhammavagga)
018.-Ch1-Một-Pháp-XVIII.-Phẩm-Búng-Ngón-Tay-Khác-(Aparaaccharāsaṅghātavagga)
019.-Ch1-Một-Pháp-XIX.-Phẩm-Thân-Hành-Niệm-(Kāyagatāsativagga)
020.-Ch1-Một-Pháp-XX.-Phẩm-Bất-Tử-(Amatavagga)
CHƯƠNG HAI PHÁP
021.-Ch2-Hai-Pháp-I.-Phẩm-Hình-Phạt-(Kammakaraṇavagga)
022.-Ch2-Hai-Pháp-II.-Phẩm-Tranh-Luận-(Adhikaraṇavagga)
023.-Ch2-Hai-Pháp-III.-Phẩm-Người-Ngu-(Bālavagga)
024.-Ch2-Hai-Pháp-IV.-Phẩm-Tâm-Thăng-Bằng-(Samacittavagga)
025.-Ch2-Hai-Pháp-V.-Phẩm-Hội-Chúng-(Parisavagga)
026.-Ch2-Hai-Pháp-VI.-Phẩm-Người-(Puggalavagga)
027.-Ch2-Hai-Pháp-VII.-Phẩm-Lạc-(Sukhavagga)
028.-Ch2-Hai-Pháp-VIII.-Phẩm-Tướng-(Sanimittavagga)
029.-Ch2-Hai-Pháp-IX.-Phẩm-Các-Pháp-(Dhammavagga)
030.-Ch2-Hai-Pháp-X.-Phẩm-Kẻ-Ngu-(Bālavagga)
031.-Ch2-Hai-Pháp-XI.-Phẩm-Hy-Vọng-Khó-Từ-Bỏ-(Āsāduppajahavagga)
032.-Ch2-Hai-Pháp-XII.-Phẩm-Hy-Cầu-(Āyācanavagga)
033.-Ch2-Hai-Pháp-XIII.-Phẩm-Bố-Thí-(Dānavagga)
034.-Ch2-Hai-Pháp-XIV.-Phẩm-Đón-Chào-(Santhāravagga)
035.-Ch2-Hai-Pháp-XV.-Phẩm-Nhập-Định-(Samāpattivagga)
036.-Ch2-Hai-Pháp-XVI.-Phẩm-Phẫn-Nộ-Lược-Thuyết-(Kodhapeyyāla)
037.-Ch2-Hai-Pháp-XVII.-Phẩm-Bất-Thiện-Lược-Thuyết-(Akusalapeyyāla)
038.-Ch2-Hai-Pháp-XVIII.-Phẩm-Giới-Luật-Lược-Thuyết-(Vinayapeyyāla)
039.-Ch2-Hai-Pháp-XIX.-Phẩm-Tham-Lược-Thuyết-(Rāgapeyyāla)
CHƯƠNG BA PHÁP
040.-Ch3-Ba-Pháp-I.-Phẩm-Người-Ngu-(Bālavagga)
041.-Ch3-Ba-Pháp-II.-Phẩm-Người-Đóng-Xe-(Rathakāravagga)
042.-Ch3-Ba-Pháp-III.-Phẩm-Người-(Puggalavagga)
043.-Ch3-Ba-Pháp-IV.-Phẩm-Thiên-Sứ-(Pevadūtavagga)
044.-Ch3-Ba-Pháp-V.-Phẩm-Nhỏ-(Cūḷavagga)
045.-Ch3-Ba-Pháp-VI.-Phẩm-Các-Bà-La-Môn-(Brāhmaṇavagga)
046.-Ch3-Ba-Pháp-VII.-Phẩm-Lớn-(Mahāvagga)
047.-Ch3-Ba-Pháp-VIII.-Phẩm-Ānanda-(Ānandavagga)
048.-Ch3-Ba-Pháp-IX.-Phẩm-Sa-Môn-(Samaṇavagga)
049.-Ch3-Ba-Pháp-X.-Phẩm-Hạt-Muối-(Loṇakapallavagga)
050.-Ch3-Ba-Pháp-XI.-Phẩm-Chánh-Giác-(Sambodhavagga)
051.-Ch3-Ba-Pháp-XII.-Phẩm-Rơi-Vào-Đọa-Xứ-(Āpāyikavagga)
052.-Ch3-Ba-Pháp-XIII.-Phẩm-Kusināra-(Kusināravagga)
053.-Ch3-Ba-Pháp-XIV.-Phẩm-Người-Chiến-Sĩ-(Yodhājīvavagga)
054.-Ch3-Ba-Pháp-XV.-Phẩm-Cát-Tường-(Maṅgalavagga)
055.-Ch3-Ba-Pháp-XVI.-Phẩm-Lõa-Thể-(Acelakavagga)
056.-Ch3-Ba-Pháp-XVII.-Phẩm-Hành-Nghiệp-Lược-Thuyết-(Kammapathapeyyāla)
057.-Ch3-Ba-Pháp-XVIII.-Phẩm-Tham-Lược-Thuyết-(Rāgapeyyāla)
CHƯƠNG BỐN PHÁP
058.-Ch4-Bốn-Pháp-I.-Phẩm-Bhaṇḍagāma-(Bhaṇḍagāmavagga)
059.-Ch4-Bốn-Pháp-II.-Phẩm-Hành-(Caravagga)
060.-Ch4-Bốn-Pháp-III.-Phẩm-Uruvelā-(Uruvelavagga)
061.-Ch4-Bốn-Pháp-IV.-Phẩm-Bánh-Xe-(Cakkavagga)
062.-Ch4-Bốn-Pháp-V.-Phẩm-Rohitassa-(Rohitassavagga)
063.-Ch4-Bốn-Pháp-VI.-Phẩm-Nguồn-Sanh-Phước-(Puññābhisandavagga)
064.-Ch4-Bốn-Pháp-VII.-Phẩm-Nghiệp-Công-Đức-(Pattakammavagga)
065.-Ch4-Bốn-Pháp-VIII.-Phẩm-Không-Hý-Luận-(Apaṇṇakavagga)
066.-Ch4-Bốn-Pháp-IX.-Phẩm-Không-Có-Rung-Động-(Macalavagga)
067.-Ch4-Bốn-Pháp-X.-Phẩm-A-Tu-La-(Asuravagga)
068.-Ch4-Bốn-Pháp-XI.-Phẩm-Mây-Mưa-(Valāhakavagga)
069.-Ch4-Bốn-Pháp-XII.-Phẩm-Kesi-(Kesivagga)
070.-Ch4-Bốn-Pháp-XIII.-Phẩm-Sợ-Hãi-(Bhayavagga)
071.-Ch4-Bốn-Pháp-XIV.-Phẩm-Loài-Người-(Puggalavagga)
072.-Ch4-Bốn-Pháp-XV.-Phẩm-Hào-Quang-(Ābhāvagga)
073.-Ch4-Bốn-Pháp-XVI.-Phẩm-Các-Căn-(Indriyavagga)
074.-Ch4-Bốn-Pháp-XVII.-Phẩm-Đạo-Hành-(Paṭipadāvagga)
075.-Ch4-Bốn-Pháp-XVIII.-Phẩm-Tư-Tâm-Sở-(Sañcetaniyavagga)
076.-Ch4-Bốn-Pháp-XIX.-Phẩm-Bà-La-Môn-(Brāhmaṇavagga)
077.-Ch4-Bốn-Pháp-XX.-Phẩm-Lớn-(Mahāvagga)
078.-Ch4-Bốn-Pháp-XXI.-Phẩm-Bậc-Chân-Nhân-(Sappurisavagga)
079.-Ch4-Bốn-Pháp-XXII.-Phẩm-Hội-Chúng-(Parisāvagga)
080.-Ch4-Bốn-Pháp-XXIII.-Phẩm-Ác-Hạnh-(Puccaritavagga)
081.-Ch4-Bốn-Pháp-XXIV.-Phẩm-Nghiệp-(Kammavagga)
082.-Ch4-Bốn-Pháp-XXV.-Phẩm-Sợ-Hãi-Phạm-Tội-(Āpattibhavavagga)
083.-Ch4-Bốn-Pháp-XXVI.-Phẩm-Thắng-Trí-(Abhiññavagga)
084.-Ch4-Bốn-Pháp-XXVII.-Phẩm-Nghiệp-Đạo-(Kammapathavagga)
085.-Ch4-Bốn-Pháp-XXVIII.-Phẩm-Tham-Lược-Thuyết-(Rāgapeyyāla)
CHƯƠNG NĂM PHÁP
086.-Ch5-Năm-Pháp-I.-Phẩm-Sức-Mạnh-Hữu-Học-(Sekhabalavagga)
087.-Ch5-Năm-Pháp-II.-Phẩm-Sức-Mạnh-(Balavagga)
088.-Ch5-Năm-Pháp-III.-Phẩm-Năm-Phần-(Pañcaṅgikavagga)
089.-Ch5-Năm-Pháp-IV.-Phẩm-Sumanā-(Sumanāvagga)
090.-Ch5-Năm-Pháp-V.-Phẩm-Vua-Muṇḍa-(Muṇḍarājavagga)
091.-Ch5-Năm-Pháp-VI.-Phẩm-Triền-Cái-(Nīvaraṇavagga)
092.-Ch5-Năm-Pháp-VII.-Phẩm-Tưởng-(Saññāvagga)
093.-Ch5-Năm-Pháp-VIII.-Phẩm-Người-Chiến-Sĩ-(Yodhājīvavagga)
094.-Ch5-Năm-Pháp-IX.-Phẩm-Trưởng-Lão-(Theravagga)
095.-Ch5-Năm-Pháp-X.-Phẩm-Kakudha-(Kakudhavagga)
096.-Ch5-Năm-Pháp-XI.-Phẩm-An-Ổn-Trú-(Phāsuvihāravagga)
097.-Ch5-Năm-Pháp-XII.-Phẩm-Andhakavinda-(Andhakavindavagga)
098.-Ch5-Năm-Pháp-XIII.-Phẩm-Bệnh-(Gilānavagga)
099.-Ch5-Năm-Pháp-XIV.-Phẩm-Vua-(Rājavagga)
100.-Ch5-Năm-Pháp-XV.-Phẩm-Tikaṇḍakī-(Tikaṇḍakīvagga)
101.-Ch5-Năm-Pháp-XVI.-Phẩm-Diệu-Pháp-(Saddhammavagga)
102.-Ch5-Năm-Pháp-XVII.-Phẩm-Hiềm-Hận-(Āghātavagga)-ok
103.-Ch5-Năm-Pháp-XVIII.-Phẩm-Nam-Cư-Sĩ-(Upāsakavagga)
104.-Ch5-Năm-Pháp-XIX.-Phẩm-Sống-ở-Rừng-(Āraññavagga)
105.-Ch5-Năm-Pháp-XX.-Phẩm-Bà-La-Môn-(Brāhmaṇavagga)
106.-Ch5-Năm-Pháp-XXI.-Phẩm-Kimbila-(Kimilavagga)
107.-Ch5-Năm-Pháp-XXII.-Phẩm-Mắng-Nhiếc-(Akkosakavagga)
108.-Ch5-Năm-Pháp-XXIII.-Phẩm-Du-Hành-Dài-(Dīghacārikavagga)
109.-Ch5-Năm-Pháp-XXIV.-Phẩm-Trú-Tại-Chỗ-(Āvāsikavagga)
110.-Ch5-Năm-Pháp-XXV.-Phẩm-Ác-Hành-(Duccaritavagga)
111.-Ch5-Năm-Pháp-XXVI.-Phẩm-Cụ-Túc-Giới-(Upasampadāvagga)
112.-Ch5-Năm-Pháp-XXVII.-Phẩm-Lựa-Chọn-Lược-Thuyết-(Sammutipeyyāla)
113.-Ch5-Năm-Pháp-XXVIII.-Phẩm-Học-Giới-Lược-Thuyết-(Sikkhāpadapeyyāla)
114.-Ch5-Năm-Pháp-XXIX.-Phẩm-Tham-Lược-Thuyết-(Rāgapeyyāla)
CHƯƠNG SÁU PHÁP
115.-Ch6-Sáu-Pháp-I.-Phẩm-Đáng-Được-Cung-Kính-Cúng-Dường-(Āhuneyyavagga)
116.-Ch6-Sáu-Pháp-II.-Phẩm-Cần-Phải-Nhớ-(Sāraṇīyavagga)
117.-Ch6-Sáu-Pháp-III.-Phẩm-Trên-Tất-Cả-(Anuttariyavagga)
118.-Ch6-Sáu-Pháp-IV.-Phẩm-Chư-Thiên-(Devatāvagga)
119.-Ch6-Sáu-Pháp-V.-Phẩm-Dhammika-(Dhammikavagga)
120.-Ch6-Sáu-Pháp-VI.-Phẩm-Lớn-(Mahāvagga)
121.-Ch6-Sáu-Pháp-VII.-Phẩm-Chư-Thiên-(Devatāvagga)
122.-Ch6-Sáu-Pháp-VIII.-Phẩm-A-La-Hán-(Arahattavagga)
123.-Ch6-Sáu-Pháp-IX.-Phẩm-Mát-Lạnh-(Sītivagga)
124.-Ch6-Sáu-Pháp-X.-Phẩm-Lợi-Ích-(Ānisaṃsavagga)
125.-Ch6-Sáu-Pháp-XI.-Phẩm-Ba-Pháp-(Tikavagga)
126.-Ch6-Sáu-Pháp-XII.-Phẩm-Sa-Môn-(Sāmaññavagga)
127.-Ch6-Sáu-Pháp-XIII.-Phẩm-Tham-Lược-Thuyết-(Rāgapeyyāla)
CHƯƠNG BẨY PHÁP
128.-Ch7-Bảy-Pháp-I.-Phẩm-Tài-Sản-(Dhanavagga)
129.-Ch7-Bảy-Pháp-II.-Phẩm-Tùy-Miên-(Anusayavagga)
130.-Ch7-Bảy-Pháp-III.-Phẩm-Vajjī-(Vajjisattakavagga)
131.-Ch7-Bảy-Pháp-IV.-Phẩm-Chư-Thiên-(Devatāvagga)
132.-Ch7-Bảy-Pháp-V.-Phẩm-Đại-Tế-Đàn-(Mahāyaññavagga)
133.-Ch7-Bảy-Pháp-VI.-Phẩm-Không-Tuyên-Bố-(Abyākatavagga)
134.-Ch7-Bảy-Pháp-VII.-Phẩm-Lớn-(Mahāvagga)
135.-Ch7-Bảy-Pháp-VIII.-Phẩm-về-Luật-(Vinayavagga)
136.-Ch7-Bảy-Pháp-IX.-Phẩm-Sa-Môn-(Sāmaṇavagga)
137.-Ch7-Bảy-Pháp-X.-Phẩm-Đáng-Được-Cung-Kính-Cúng-Dường-(Āhuneyyavagga)
138.-Ch7-Bảy-Pháp-XI.-Phẩm-Tham-Lược-Thuyết-(Rāgapeyyāla)

CHƯƠNG TÁM PHÁP
139.-Ch8-Tám-Pháp-I.-Phẩm-Từ-Tâm-(Mettāvagga)
140.-Ch8-Tám-Pháp-II.-Phẩm-Lớn-(Mahāvagga)
141.-Ch8-Tám-Pháp-III.-Phẩm-Gia-Chủ-(Gahapativagga)
142.-Ch8-Tám-Pháp-IV.-Phẩm-Bố-Thí-(Pānavagga)
143.-Ch8-Tám-Pháp-V.-Phẩm-Ngày-Trai-Giới-Uposathavagga)
144.-Ch8-Tám-Pháp-VI.-Phẩm-Gotamī-(Gotamīvagga)
145.-Ch8-Tám-Pháp-VII.-Phẩm-Đất-Rúng-Động-(Bhūmicālavagga)
146.-Ch8-Tám-Pháp-VIII.-Phẩm-Song-Đôi-(Yamakavagga)
147.-Ch8-Tám-Pháp-IX.-Phẩm-Niệm-(Sativagga)
148.-Ch8-Tám-Pháp-X.-Phẩm-Tương-Tự-(Sāmaññavagga)
149.-Ch8-Tám-Pháp-XI.-Phẩm-Tham-Lược-Thuyết-(Rāgapeyyāla)

CHƯƠNG CHÍN PHÁP
150.-Ch9-Chín-Pháp-I.-Phẩm-Chánh-Giác-(Sambodhivagga)
151.-Ch9-Chín-Pháp-II.-Phẩm-Tiếng-Rống-Sư-Tử-(Sīhanādavagga)
152.-Ch9-Chín-Pháp-III.-Phẩm-Chỗ-Cư-Trú-của-Hữu-Tình-(Sattāvāsavagga)
153.-Ch9-Chín-Pháp-IV.-Phẩm-Lớn-(Mahāvagga)
154.-Ch9-Chín-Pháp-V.-Phẩm-Tương-Tự-(Sāmaññavagga)
155.-Ch9-Chín-Pháp-VI.-Phẩm-An-Ổn-(Khemavagga)
156.-Ch9-Chín-Pháp-VII.-Phẩm-Niệm-Xứ-(Satipaṭṭhānavagga)
157.-Ch9-Chín-Pháp-VIII.-Phẩm-Chánh-Cần-(Sammappadhānavagga)
158.-Ch9-Chín-Pháp-IX.-Phẩm-Bốn-Như-Ý-Túc-(Iddhipādavagga)
159.-Ch9-Chín-Pháp-X.-Phẩm-Tham-Lược-Thuyết-(Rāgapeyyāla)
CHƯƠNG MƯỜI PHÁP
160.-Ch10-Mười-Pháp-I.-Phẩm-Lợi-Ích-(Ānisaṃsavagga)
161.-Ch10-Mười-Pháp-II.-Phẩm-Hộ-Trì-(Nāthavagga)
162.-Ch10-Mười-Pháp-III.-Phẩm-Lớn-(Mahāvagga)
163.-Ch10-Mười-Pháp-IV.-Phẩm-Upāli-(Upālivagga)
164.-Ch10-Mười-Pháp-V.-Phẩm-Mắng-Nhiếc-(Akkosavagga)
165.-Ch10-Mười-Pháp-VI.-Phẩm-Tâm-của-Mình-(Sacittavagga)
166.-Ch10-Mười-Pháp-VII.-Phẩm-Song-Đôi-(Yamakavagga)
167.-Ch10-Mười-Pháp-VIII.-Phẩm-Ước-Nguyện-(Ākaṅkhavagga)
168.-Ch10-Mười-Pháp-IX.-Phẩm-Trưởng-Lão-(Theravagga)
169.-Ch10-Mười-Pháp-X.-Phẩm-Upāli-(Upālivagga)
170.-Ch10-Mười-Pháp-XI.-Phẩm-Sa-Môn-Tưởng-(Samaṇasaññāvagga)
171.-Ch10-Mười-Pháp-XII.-Phẩm-Đi-Xuống-(Paccorohaṇivagga)
172.-Ch10-Mười-Pháp-XIII.-Phẩm-Thanh-Tịnh-(Parisuddhavagga)
173.-Ch10-Mười-Pháp-XIV.-Phẩm-Tốt-Lành-(Sādhuvagga)
174.-Ch10-Mười-Pháp-XV.-Phẩm-Thánh-Đạo-(Ariyavagga)
175.-Ch10-Mười-Pháp-XVI.-Phẩm-Người-(Puggalavagga)
176.-Ch10-Mười-Pháp-XVII.-Phẩm-Jāṇussoṇi-(Jāṇussoṇivagga)
177.-Ch10-Mười-Pháp-XVIII.-Phẩm-Tốt-Lành-(Sādhuvagga)
178.-Ch10-Mười-Pháp-XIX.-Phẩm-Thánh-Đạo-(Ariyamaggavagga)
179.-Ch10-Mười-Pháp-XX.-Phẩm-Các-Hạng-Người-(Aparapuggalavagga)
180.-Ch10-Mười-Pháp-XXI.-Phẩm-Thân-Do-Nghiệp-Sanh-(Karajakāyavagga)
181.-Ch10-Mười-Pháp-XXII.-Phẩm-Tương-Tự-(Sāmaññavagga)
182.-Ch10-Mười-Pháp-XXIII.-Phẩm-Tham-Lược-Thuyết-(Rāgapeyyāla)
CHƯƠNG MƯỜI MỘT PHÁP
183.-Ch11-Mười-Một-Pháp-I.-Phẩm-Y-Chỉ-(Nissayavagga)
184.-Ch11-Mười-Một-Pháp-II.-Phẩm-Tùy-Niệm-(Anussativagga)
185.-Ch11-Mười-Một-Pháp-III.-Phẩm-Tương-Tự-(Sāmaññavagga)
186.-Ch11-Mười-Một-Pháp-IV.-Phẩm-Tham-Lược-Thuyết-(Rāgapeyyāla)
Phụ-Lục