Kinh Từ Bi (Metta Sutta)

ĐỨC PHẬTPHẬT
PHÁP

Đại Đức Narada Maha Thera, 1980 – Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Nguyên tác: “The Buddha and His Teachings”
Buddhist Publication Society, Sri
Lanka

Phụ Bản 5

KINH TỪ BI (METTA SUTTA)[1]

1. Người khôn
khéo mưu tìm lợi ích cho mình và có ước nguyệnthành đạttrạng tháiVắng Lặng
[2] nên có hành động (như thế này):

Người ấy phải
có khả năng, phải chánh trực, hoàn toànchánh trực [3].

2. Tri túc, dễ
nuôi (sống giản dị, để cho người thiện tín dễ dàng hộ trì), có ít nhiệm vụ (ít
bị ràng buộc), sống dễ dàng (không nhiều nhu cầu), thu thúc lục căn, kín đáo, tế
nhị
, không luyến áigia đình.

3. Người ấy
khác nên vi phạmlỗi lầm nhỏ bé nào mà bậc thiện trí có thể khiển trách. Ước
mong
tất cả chúng sanh được an vui và châu toàn! Ước mong tất cả đều có tâm hoàn
toàn
trong sạch.

4. Bất luận
chúng sanh ấy như thế nào: – yếu đuối hay khỏe mạnh, cao lớn mập mạp hay tầm
vóc bình thường, lùn thấp bé nhỏ, hữu hình hay vô hình, những chúng sanh ở gần
hay những chúng sanh ở xa, những chúng sanh đã ra đời hoặc những chúng sanh
chưa sanh – Ước mong tất cả chúng sanh, không loại trừ bất luận ai, đều có tâm
an lànhhạnh phúc.

5. Không ai làm
cho ai thất vọng, không ai khinh bỉ ai, dù người như thế nào hoặc ở nơi đâu.
Trong cơn giận dữ hay lúc oán hờn, không nên mong điều bất hạnh đến với người
khác.

6. Cũng như bà
từ mẫuhết lòng bảo bọc đứa con duy nhất của bà dù có hiểm nguy đến tính mạng,
cùng thế ấy người kia trau giồi tâm Từvô lượngvô biên, rải khắp mọi chúng
sanh
.

7. Hãy để những
tư tưởng từ aí vô biên bao trùm toàn thểthế gian: – bên trên, phía dưới, bốn
phương tám hướng, không để cho điều gì làm trở ngại, không mảy may nóng giận,
không chút hiềm thù.

8. Dù người ấy
đứng, đi, ngồi hay nằm, giây phút nào còn thức (không ngủ) thì nên phát triển
tâm niệm. Đó là Phúc Lành Cao Thượng Nhất. [4]

9. Không để rơi
vào những Lầm Lạc [5], đức hạnhtrong sạchviên mãnGiác Ngộ [6], người ấy
lánh xa mọi hình thứcái dục. Đúng như vậy, người ấy không còn trở lại vào bào
thai
[7].

-oOo-

Chú GiảiTừ
Bi
Kinh:

[1] Vào lúc ấy
mùa mưa sắp đến, sau khi được Đức Phật ban dạy những đề mục hành thiền, một
nhóm tỳ khưu ra đi, tìm nơi thích hợp để thực hành. Trong cuộc đi bất định ấy
các Ngài đến một địa điểm vắng vẻ yên tĩnh và quyết định ở lại đó hành thiền
nhằm mục tiêugiải thoát.

Các vị thọ thần
sống trên cây cảm thấy bất tiện nên tìm cách làm cho chư tỳ khưu không còn ở
được và phải ra đi. Đêm đêm các vị thọ thần làm đủ cách để phá khuấy không cho
chư tăng ở yên hành thiền.

Chư vị tỳ khưu thấy khó mà an trụ tâm trong tình trạng như vậy
nên trở về cbùa bạch lại tự sự với Đức Thế Tôn.

Đức Phật dạy
chư Tăngbài Kinh Metta Sutta (kinh về tâm Từ) và khuyên các vị này trở lại
ngay địa điểm trước rồi cùng đọc lên bài Kinh này khi vào rừng. Chư Tăng làm
theo lời dạy.

Những tư tưởngTừ áian lành được ban rải ra, thấm nhuần bầu không khí trong toàn khu rừng.
Các vị thọ thần ở khắp nơi trong rừng nghe Kinh cảm thấythanh bìnhan lạc,
phát tâm kỉnh mộ chư Tăng, và kể từ đó thay vì khuấy nhiễu làm trở ngại, tận
tình hộ trìnâng đỡchư Tăng.

Trong thời đại
ba tháng an cư kiết hạ, Vassana, tất cả chư vị tỳ khưu trong nhóm đều chứng đắcĐạo QuảA La Hán.

Bài Kinh Metta
Sutta này vừa có tánh cách bảo hộ, vừa là một đề mục hành thiền. Phần đầu bài
Kinh
mô tả những phẩm hạnh mà người mong tìm tình trạngan lành cho mình cần
nên trau giồi, và phần sau là phương phápthực hànhtâm Từ, được giải thíchcặn
kẽ
.

[2] Tức Niết
Bàn
.

[3] Uju và
Suju. Chữ Uju hàm ý đặc tánh chánh trực trong lời nói và hành động – tức thân
khẩu chánh trực. Chữ Suju là tâm chánh trực (Bản Chú Giải).

[4] Đó là thực
hành
Tứ Vô Lượng Tâm (Brahma Vihara).

[5] “Lầm
lạc” ở đây có nghĩa Sakkayaditthi (thân kiến).

[6] Tức nhoáng
thấy Niết Bàn lần đầu tiên.

[7] Khi đã
chứng đắc tầng Anagami (A Na Hàm) thì tái sanh vào cảnh giới Suddhavasa (Cảnh
Giới
Trong Sạch) và không cần tái sanh vào cảnh người.

 

Trích: Đức Phật và Phật Pháp